Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.4 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ HỒNG CHIÊM

NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Hoàng Thị Hồng Chiêm



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ ......... 7
1.1.

Khái niệm và đặc điểm về người bị tạm giữ ....................................... 7

1.1.1

Khái niệm ngƣời bị tạm giữ ................................................................. 7

1.1.2

Đặc điểm về ngƣời bị tạm giữ ............................................................ 10

1.2.

Quy định của pháp luật TTHS một số nước về người bị tạm giữ ..... 18

1.2.1

Ngƣời bị tạm giữ trong luật tố tụng hình sự Liên bang Nga .............. 18

1.2.2


Ngƣời bị tạm giữ trong luật tố tụng hình sự cộng hòa Pháp .............. 20

1.2.3

Ngƣời bị tạm giữ trong Luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa........................................................................................... 22

1.3.

Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 đến
trước năm 2003 về người bị tạm giữ .............................................. 24

1.3.1. Giai đoạn 1945 - 1954 ........................................................................ 24
1.3.2. Giai đoạn từ 1954 – 1976 ................................................................... 25
1.3.3. Giai đoạn từ 1976-1989...................................................................... 27
1.3.4. Giai đoạn từ 1989 đến trƣớc năm 2003 .............................................. 27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ VÀ THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ... 30
2.1.

Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về người
bị tạm giữ .......................................................................................... 30


2.1.1. Quyền của ngƣời bị tạm giữ ............................................................... 30
2.1.2. Nghĩa vụ của ngƣời bị tạm giữ ........................................................... 43
2.1.3


Một số quy định chung liên quan đến ngƣời bị tạm giữ .................... 45

2.2.

Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật TTHS Việt Nam
về người bị tạm giữ trên địa bàn Thành phố Hà Nội ................... 51

2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân ........................................... 51
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân ......................................................... 56
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 72
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ ..................... 73
3.1.

Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự............................................. 73

3.2.

Một số giải pháp khác ...................................................................... 86

KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 96


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS


Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

THTT

Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự

TTLT

Thông tƣ liên tịch


UBMTTQ

Ủy ban mặt trận tổ quốc

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1:

Bảng thống kê tình hình bắt giữ và phân loại từ năm
2009-2013 ................................................................................... 53

Bảng 2.2:

Bảng thống kê tình hình giải quyết ngƣời bị tạm giữ từ
năm 2009-2013 ............................................................................ 54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, cải cách tƣ pháp đang đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm
coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhằm tiếp tục thực hiện, đẩy
mạnh công cuộc cải cách tƣ pháp, ngày 02 tháng 01 năm 2002 Bộ Chính trị
đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TƢ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ
pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TƢ ngày 02/06/2005 về chiến

lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020. Các Nghị quyết trên đã chỉ rõ nhiều vấn
đề cụ thể của tố tụng hình sự cần phải đƣợc nghiên cứu một cách toàn diện để
thể chế hóa vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, tạo cơ sở pháp lý nâng
cao chất lƣợng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Xuất
phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta là nhà nƣớc của dân, do dân và vì
dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân nên quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân luôn đƣợc luật pháp trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định rõ
ràng, nhằm bảo vệ quyền lợi của mọi công dân đƣợc công bằng. Để đạt đƣợc
mục đích đó, trƣớc hết trong công tác xử lý tin báo tố giác tội phạm và phân
loại việc bắt, giữ ngƣời vi phạm pháp luật cần phải đƣợc chú trọng và tăng
cƣờng, nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm tính trung
thực, công minh, đúng ngƣời, đúng tội, không làm oan ngƣời vô tội và không
bỏ lọt kẻ phạm tội. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua đã xảy ra rất nhiều vụ
việc cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng vi phạm nghiêm trọng
thủ tục bắt giữ ngƣời theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, gây lên
những hậu quả nghiêm trọng đối với ngƣời bị tạm giữ. Hệ lụy kéo theo đó là
tình trạng bắt oan ngƣời vô tội, vi phạm các quyền con ngƣời, xâm phạm

1


quyền tự do thân thể…không đảm bảo đúng quyền của ngƣời bị tạm giữ theo
quy định của pháp luật.
Mặc dù đã bị dƣ luận và xã hội lên án xong vấn đề bảo đảm các quyền
và lợi ích chính đáng cho ngƣời bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam
cần đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện hơn nữa. Có thể thấy
từ trƣớc tới nay chƣa có một nghiên cứu nào, nghiên cứu một cách toàn diện
và sâu sắc về ngƣời bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam với quy mô là
một đề tài độc lập, chuyên biệt. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu và từng bƣớc
hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với ngƣời bị tạm giữ trong TTHS

Việt Nam là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua những nghiên cứu và tìm hiểu về ngƣời bị tạm giữ trong TTHS
Việt Nam, nhận thấy các nghiên cứu chuyên sâu về đối tƣợng là ngƣời bị tạm
giữ trong TTHS là rất hạn chế. Mặc dù vậy thì có khá nhiều các nghiên cứu
khoa học, các bài viết của các nhà khoa học về ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ,
ngƣời bị tạm giam trong TTHS Việt Nam. Có thể thống kê một số nghiên cứu
và bài viết của các nhà khoa học để thấy rõ hơn tình hình nghiên cứu:
1. Nguyễn Văn Điệp: Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam
trong TTHS Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án tiến sỹ
Luật học, Hà Nội, 2005;
2. Phạm Thanh Bình: Tạm giữ, tạm giam trong TTHS Việt Nam, thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, 1996;
3. Nguyễn Bá Phùng, Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật TTHS Việt Nam, Luận
án tiến sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010;
4. PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn: Bảo đảm quyền của người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam, Tạp chí Luật học
số 3/2011;
2


5. Ths. Đoàn Tạ Cửu Long và Ths. Nguyễn Tấn Hảo: Một số ý kiến
hoàn thiện Bộ luật TTHS về quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, Tạp chí kiểm sát số 21/2012;
6. Ths. Đinh Thế Hƣng: Bảo vệ quyền con người trong Tố tụng Hình
sự, Tham luận tại Hội thảo: Các điều kiện đảm bảo quyền con ngƣời ở Việt
Nam do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Viện nhà nƣớc và Pháp luật tổ chức ngày
27/8/2010;
7. Trần Ngọc Đƣờng: Bàn về quyền con ngƣời, quyền công dân. NXB

Chính trị Quốc gia, 2004;
8. Bộ tƣ pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật (1998), số chuyên đề về
Luật hình sự của một số nước trên thế giới;
9. ĐHQG Hà Nội, khoa luật (2001), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam,
NXB Đại học Quốc Gia, Hà Nội;
10. Trƣờng đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật TTHS Việt
Nam, NXB Công an nhân dân.
Trên cơ sở những nghiên cứu và những bài viết của các nhà khoa học
cùng với hệ thống các sách giáo trình, sách chuyên khảo sẽ là những cơ sở
khoa học để chúng ta tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa về ngƣời bị tạm giữ
trong TTHS Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu những lý luận chung
và tình hình thực tiễn về ngƣời bị tạm giữ trong pháp luật TTHS Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu chuyên sâu về các
quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam và một số nƣớc khác trên thế giới. Thực trạng về tình hình ngƣời bị tạm
giữ trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong năm năm trở lại đây. Đồng thời đƣa
ra những giải pháp nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời bị tạm

3


giữ trong TTHS, khắc phục những hạn chế, vƣớng mắc đối với quy định của
pháp luật Việt Nam về ngƣời bị tạm giữ trong TTHS Việt Nam.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về ngƣời bị tạm giữ
trong pháp luật TTHS Việt Nam, luận văn đề xuất những giải pháp khắc phục
những hạn chế, vƣớng mắc và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với
ngƣời bị tạm giữ. Đặc biệt là đảm bảo cho việc phân loại đối tƣợng bị tạm giữ

sau chuyển khởi tố đúng ngƣời, đúng tội, không làm oan ngƣời vô tội trong
hoạt động TTHS.
- Nhiệm vụ: Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, trong quá trình
nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về ngƣời bị tạm giữ mà nhất
là về địa vị pháp lý của ngƣời bị tạm giữ trong pháp luật TTHS Việt Nam.
+ Làm rõ những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về quyền và
nghĩa vụ của ngƣời bị tạm giữ trong TTHS Việt Nam.
+ Đánh giá thực tiễn, tình trạng ngƣời bị tạm giữ trên địa bàn Thành phố
Hà Nội trong năm năm gần đây để có cái nhìn bao quát về ngƣời bị tạm giữ
trong pháp luật TTHS Việt Nam.
+ Đƣa ra những phƣơng hƣớng hoàn thiện quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam về ngƣời bị tạm giữ và những giải pháp nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ .
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật. Đƣờng lối quan điểm
của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nƣớc ta về công cuộc đấu tranh

4


phòng và chống tội phạm nói chung và giải quyết vụ án hình sự nói riêng.
+ Cơ sở thực tiễn của luận văn là dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS
thực định và hoạt động giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố
tụng cũng nhƣ các văn bản hƣớng dẫn về hoạt động TTHS.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với việc sử
dụng các phƣơng pháp nghiên cứu: so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực

tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến ngƣời bị
tạm giữ trong TTHS, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Là một công trình nghiên cứu độc lập và chuyên sâu về ngƣời bị tạm giữ
trong pháp luật TTHS Việt Nam, luận văn làm rõ những khái niệm, địa vị pháp
lý, các quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị tạm giữ để giúp cho việc áp dụng các
quy định của pháp luật đối với ngƣời bị tạm giữ đƣợc đúng ngƣời, đúng tội,
không bỏ lọt kẻ phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội. Từ đó mở đầu cho một
giai đoạn TTHS đƣợc chính xác, kịp thời, nghiêm minh và đúng pháp luật.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đƣa ra một số kiến nghị, giải
pháp khắc phục những vƣớng mắc, bất cập của quy định pháp luật hiện hành
đối với ngƣời bị tạm giữ trong TTHS Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận văn, góp phần giải đáp về mặt lý luận và
thực tiễn những vấn đề liên quan đến ngƣời bị tạm giữ trong TTHS Việt Nam.
Đồng thời, giúp cho ngƣời bị tạm giữ, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho ngƣời bị tạm giữ và các cơ quan THTT hình sự áp dụng các quy định
pháp luật về ngƣời bị tạm giữ một cách đúng đắn, hiệu quả và chính xác.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu, tham khảo và
hoàn thiện pháp luật đối với những ai quan tâm đến vấn đề này.

5


7. B cc ca Lun vn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung Luận văn gồm 3 ch-ơng.
Chng 1: Mt s vn chung v ngi b tm gi.
Chng 2: Quy nh ca B lut t tng hỡnh s Vit Nam hin hnh
v ngi b tm gi v thc trng ỏp dng trờn a bn thnh ph H Ni.
Chng 3: Mt s gii phỏp nhm m bo quyn v li ớch hp phỏp

ca ngi b tm gi.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ
1.1. Khái niệm và đặc điểm về người bị tạm giữ
1.1.1 Khái niệm người bị tạm giữ
Theo Từ điển luật học, địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật
trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định
của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành tổng thể các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng nhƣ giới hạn khả
năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý, ta
có thể phân biệt đƣợc chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng
thời cũng có thể xem xét vị trí, tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong
mối quan hệ pháp lý [27, tr.244].
Do vậy, việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ
pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi chủ thể. Đối với chủ thể
có địa vị pháp lý, sẽ giúp họ thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của
mình. Còn đối với các chủ thể khác, việc nắm vững địa vị pháp lý của chủ thể
trong quan hệ pháp luật sẽ giúp họ không xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ
của ngƣời khác.
Trong tố tụng hình sự, việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể
càng có vai trò quan trọng hơn hết. Bởi vì, khi giải quyết một vụ án hình sự
phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau. Và tại mỗi giai đoạn, địa vị pháp
lý của các chủ thể tham gia tố tụng cũng không giống nhau. Việc xác định
một ngƣời bị coi là tạm giữ từ khi nào rất quan trọng, khi đó xác định vị trí
của ngƣời đó là ngƣời tham gia vào quá trình THTT, xác lập quyền và nghĩa
vụ của ngƣời bị tạm giữ. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm một ngƣời bị coi

là ngƣời bị tạm giữ là rất khó, bởi vì, đối tƣợng của ngƣời bị tạm giữ trong đó

7


bao gồm cả ngƣời chƣa bị khởi tố hình sự và cả những ngƣời đã bị khởi tố
hình sự. Tƣ cách tố tụng của ngƣời bị tạm giữ bắt đầu từ khi có quyết định
tạm giữ và chấm dứt chuyển sang vai trò của một chủ thể khác khi hết thời
hạn tạm giữ hoặc hết thời hạn gia hạn tạm giữ. Có thể xảy ra một số trƣờng
hợp khi chấm dứt tƣ cách tố tụng của ngƣời bị tạm giữ nhƣ sau:
- Bị khởi tố bị can và có quyết định tạm giam thay thế.
- Bị khởi tố và có quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, thay thế biện
pháp ngăn chặn khác.
- Có quyết định trả tự do cho ngƣời bị tạm giữ chuyển xử lý hành chính.
- Có quyết định trả tự do cho ngƣời bị tạm giữ, không xử lý hành chính.
- Viện kiểm sát trả tự do theo khoản 1 Điều 28 Luật tổ chức VNSND.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cho đến nay chƣa có một khái niệm
pháp lý nào về địa vị pháp lý của ngƣời bị tạm giữ. Từ những phân tích trên
theo chúng tôi có thể hiểu: Địa vị pháp lý của ngƣời bị tạm giữ là tổng thể các
quyền và nghĩa vụ của một ngƣời khi có quyết định tạm giữ của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự.
Trong tố tụng hình sự Việt Nam, ngƣời bị tạm giữ là ngƣời tham gia tố
tụng có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án. BLTTHS năm
2003 đƣa ra khái niệm về ngƣời bị tạm giữ nhƣ sau: “Người bị tạm giữ là
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo
quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có
quyết định tạm giữ”. Ngƣời bị tạm giữ có thể là ngƣời chƣa bị khởi tố về hình
sự, đó là những ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
trƣờng hợp phạm tội tự thú trƣớc khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố,
và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Mặc dù, họ chƣa bị khởi tố về hình sự

nhƣng trên thực tế họ vẫn phải chịu sự cƣỡng chế của cơ quan đã tạm giữ họ.
Họ bị hạn chế một số quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả lời các câu
hỏi của cán bộ điều tra.

8


Ngƣời bị tạm giữ cũng có thể là ngƣời đã bị khởi tố về hình sự bao
gồm: bị can, bị cáo, ngƣời đã bị kết án nhƣng bỏ trốn, ngƣời đang chấp hành
án bỏ trốn nhƣng bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ngƣời phạm tội ra đầu
thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ. Do đó, pháp luật coi ngƣời bị tạm
giữ là ngƣời tham gia tố tụng hình sự, có các quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị
tạm giữ theo quy định của pháp luật.
Hay nói cách khác, ngƣời bị tạm giữ là ngƣời bị nghi đã thực hiện tội
phạm và đối với họ đã có quyết định tạm giữ của ngƣời có thẩm quyền. Để
trở thành ngƣời bị tạm giữ cần có đủ hai điều kiện:
+ Điều kiện về nội dung: khi có căn cứ cho rằng ngƣời đó đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
ngƣời mà bị ngƣời khác có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy
và xác nhận đúng là ngƣời đã thực hiện tội phạm và thấy cần ngăn chặn ngay
việc ngƣời đó bỏ trốn; ngƣời mà thấy có dấu vết của tội phạm ở ngƣời hoặc
nơi ở nên cần ngăn chặn ngay việc ngƣời đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ;
ngƣời bị phát hiện đang thực hiện tội phạm; ngƣời có lệnh truy nã hoặc ngƣời
tự thú, đầu thú sau khi thực hiện tội phạm.
Đối với trƣờng hợp bắt khẩn cấp, bị bắt do phạm tội quả tang, ngƣời tự
thú, đầu thú, ngƣời bị tạm giữ bị nghi thực hiện tội phạm, nhƣng chƣa bị cơ
quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, để kịp thời
ngăn chặn tội phạm, không để ngƣời đó tiếp tục phạm tội hay phạm tội mới,
để ngƣời đó không có điều kiện cản trở việc tiến hành điều tra, xác
minh…của cơ quan điều tra thì BLTTHS quy định cần phải cách ly họ trong

thời hạn nhất định. Đối với trƣờng hợp ngƣời bị tạm giữ bị bắt theo lệnh truy
nã, tuy ngƣời bị tạm giữ đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhƣng việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đó không phải do ngƣời có thẩm quyền quyết định
tạm giữ thực hiện. Vì thế cho nên đối với ngƣời đó chỉ đƣợc (và cũng chỉ cần)

9


tạm giữ trong một thời hạn ngắn để chuyển giao cho ngƣời có trách nhiệm
truy cứu trách nhiệm hình sự xử lý vụ án theo quy định của pháp luật.
+ Điều kiện về hình thức: đối với ngƣời đã có quyết định tạm giữ của
ngƣời có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS. Theo quy định của Điều
86 và Điều 81 BLTTHS năm 2003 thì Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng Cơ quan
điều tra các cấp, ngƣời chỉ huy Quân đội độc lập cấp trung đoàn và tƣơng
đƣơng, ngƣời chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới, ngƣời chỉ huy
tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng hoặc Chỉ
huy trƣởng vùng Cảnh sát biển là những ngƣời có thẩm quyền ra quyết định
tạm giữ [13, tr.32-33].
Từ những phân tích ở trên, theo quan điểm của tôi có thể đƣa ra khái
niệm khoa học về ngƣời bị tạm giữ nhƣ sau: Người bị tạm giữ là người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định
truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định
tạm giữ của người có thẩm quyền tố tụng; có quyền và nghĩa vụ nhất định
theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Đặc điểm về người bị tạm giữ
Thứ nhất, là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp:
Là khi ngƣời đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hay sau khi ngƣời đó thực hiện tội phạm
rồi bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm. Ngƣời bị tạm giữ trong
trƣờng hợp này là ngƣời chƣa bị khởi tố về hình sự. Việc bắt ngƣời trong

trƣờng hợp khẩn cấp nhằm ngăn chặn kịp thời tội phạm và hành vi trốn tránh
pháp luật, tiêu hủy chứng cứ, cản trở hoạt động điều tra của ngƣời thực hiện
tội phạm và đƣợc áp dụng trong những trƣờng hợp cấp bách. Từ đó, tạo điều
kiện cho cơ quan điều tra có thẩm quyền có đủ thời gian thu thập chứng cứ,
tài liệu, bƣớc đầu xác định tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân của ngƣời

10


bị tạm giữ. Đồng thời để đảm bảo các quyền tự do cá nhân của con ngƣời,
Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định một cách rõ ràng, cụ
thể các trƣờng hợp bắt khẩn cấp nhƣ sau:
Trƣờng hợp khẩn cấp thứ nhất: Khi có căn cứ để cho rằng ngƣời đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Đây là trƣờng hợp cơ quan có thẩm quyền đã có quá trình theo
dõi hoặc kiểm tra xác minh các nguồn tin biết ngƣời đó (một ngƣời hoặc
nhiều ngƣời) đang bí mật tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phƣơng tiện hoặc tạo ra
những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên cần phải bắt ngay trƣớc khi tội phạm
đƣợc thực hiện. Việc bắt ngƣời này cần phải đảm bảo hai điều kiện: Một là,
có căn cứ khẳng định một ngƣời (hoặc nhiều ngƣời) đang chuẩn bị thực hiện
tội phạm. Hai là, tội phạm đang chuẩn bị đƣợc thực hiện là tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chuẩn bị thực hiện tội
phạm, còn một khoảng thời gian nhất định với việc thực hiện tội phạm, nên
không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đều cần phải truy cứu
trách nhiệm hình sự (Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chỉ ngƣời
nào chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự). Ngƣời bị bắt trong trƣờng
hợp này, thƣờng phải bị tạm giữ vì khi quyết định bắt khẩn cấp cơ quan điều
tra đã có căn cứ để xác định rằng ngƣời đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm

rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Trƣờng hợp khẩn cấp thứ hai: Khi ngƣời bị hại hoặc ngƣời có mặt tại
nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là ngƣời đã thực
hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc ngƣời đó bỏ trốn. Đây là
trƣờng hợp tội phạm đã xảy ra, nhƣng ngƣời thực hiện tội phạm không bị bắt
ngay. Sau một thời gian, ngƣời bị hại hoặc ngƣời có mặt tại nơi xảy ra tội

11


phạm chính mắt trông thấy đã xác nhận đúng là ngƣời đã thực hiện tội phạm.
Nếu cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc ngƣời đó bỏ trốn thì ra
lệnh bắt khẩn cấp. Việc bắt ngƣời trong trƣờng hợp này cần phải đảm bảo hai
điều kiện: Một là, phải có ngƣời có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt
trông thấy và trực tiếp xác nhận đúng là ngƣời đã thực hiện tội phạm. Việc
xác nhận phải mang tính chất khẳng định, chứ không thể “hình nhƣ”, hoặc
“nhìn giống nhƣ” ngƣời đã thực hiện tội phạm. Hai là, xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc ngƣời đó trốn.
Đối với ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp này thì việc ra quyết định tạm
giữ là cấp bách và cần thiết. Khi đối tƣợng đã thực hiện hành vi phạm tội và
cơ quan điều tra xét thấy cần ngăn chặn ngay việc ngƣời đó bỏ trốn. Cho nên
ngay sau khi bắt khẩn cấp cần phải tạm giữ họ nhằm ngăn chặn việc họ bỏ
trốn, gây cản trở cho việc điều tra. Đồng thời cũng tạo điều kiện để cơ quan
điều tra có thời gian thực hiện các hoạt động nghiệp vụ khác, phục vụ cho
việc củng cố hồ sơ để đƣa khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng biện pháp
ngăn chặn cho phù hợp với hành vi phạm tội.
Trƣờng hợp khẩn cấp thứ ba: Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở ngƣời
hoặc tại chỗ của ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc ngƣời đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Đây là trƣờng hợp cơ quan
có thẩm quyền chƣa có đủ tài liệu, chứng cứ để xác định ngƣời đó thực hiện

tội phạm, nhƣng qua việc phát hiện thấy có dấu vết của tội phạm ở ngƣời hoặc
tại chỗ ở của ngƣời mà ngƣời đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn việc ngƣời này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì ngƣời đó bị bắt
khẩn cấp. Việc bắt ngƣời trong trƣờng hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau:
Một là, khi thấy dấu vết tội phạm ở ngƣời hoặc tại chỗ ở của ngƣời bị nghi
thực hiện tội phạm. Việc tìm thấy dấu vết của một tội phạm chỉ đƣợc coi là
một điều kiện để bắt khẩn cấp. Hai là, cần ngăn chặn ngay việc ngƣời bị nghi

12


thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Khi có căn cứ cho rằng ngƣời
bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì cơ quan có thẩm
quyền ra lệnh bắt khẩn cấp.
Trong thực tiễn thi hành pháp luật, ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn
cấp thƣờng sẽ bị tạm giữ vì khi có đủ căn cứ để quyết định bắt khẩn cấp, cơ
quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn hành vi phạm tội và hành vi cản
trở việc điều tra, việc khám phá tội phạm của ngƣời thực hiện hành vi phạm
tội (việc ngƣời đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ …). Do đó khả năng ngƣời bị
tạm giữ trong trƣờng hợp bắt khẩn cấp là rất lớn.
Thực tế, có trƣờng hợp dù bị bắt khẩn cấp nhƣng ngƣời bị bắt không bị
tạm giữ đó là khi Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp hay ngƣời
bị bắt khẩn cấp bị bệnh hiểm nghèo mà không thể tạm giữ đƣợc hoặc có thể
xuất hiện những tình tiết mới loại trừ căn cứ bắt khẩn cấp và phải trả tự do
cho ngƣời bị bắt.
Thứ hai, là người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang:
Khi ngƣời đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành
vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần thiết phải điều tra, xác minh. Điều 82
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định những trƣờng hợp phạm tội quả

tang bao gồm:
Trƣờng hợp thứ nhất: Ngƣời đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Đây là trƣờng hợp tội phạm đã bắt đầu đƣợc thực hiện, đang diễn ra và chƣa
kết thúc trên thực tế, đang gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình
sự bảo vệ. Việc ngƣời đang thực hiện tội phạm bị phát hiện hay không, tùy
thuộc vào đặc điểm của cấu thành tội phạm, bối cảnh xảy ra tội phạm; khả
năng, kiến thức, vị trí công tác của ngƣời phát giác sự kiện phạm tội.
Trƣờng hợp hợp thứ hai: Ngƣời ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị

13


phát hiện. Đây là trƣờng hợp ngƣời phạm tội vừa thực hiện hành vi phạm tội
xong, chƣa kịp chạy trốn, chƣa kịp cất giấu tang vật hoặc đang cất giấu tang
vật, đang xóa những dấu vết của tội phạm trƣớc khi chạy trốn thì bị ngƣời
khác phát hiện. Vì vậy, khi bắt ngƣời phạm tội vừa thực hiện hành vi phạm tội
xong, chƣa kịp chạy trốn và sự phát hiện, bắt giữ ngƣời phạm tội phải xảy ra
không gián đoạn về mặt thời gian.
Trƣờng hợp thứ ba: Ngƣời ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi
bắt. Trong trƣờng hợp phạm tội quả tang này, ngƣời phạm tội đang thực hiện
tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy
trốn và bị đuổi bắt. Trong trƣờng hợp này, việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi
chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng ngƣời phạm tội, tránh bắt nhầm
ngƣời không thực hiện tội phạm. Nếu việc đuổi bắt bị gián đoạn về mặt thời
gian so với hành vi chạy trốn thì không đƣợc xem là bắt quả tang mà có thể
bắt theo trƣờng hợp khẩn cấp.
Với ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp phạm tội quả tang nhƣ đã nêu trên
thì có thể bị tạm giữ. Tuy nhiên, khác với trƣờng hợp ngƣời bị bắt khẩn cấp
thƣờng bị tạm giữ, các trƣờng hợp phạm tội quả tang thì không phải mọi
trƣờng hợp bị bắt đều phải tạm giữ. Qua thực tiễn áp dụng và căn cứ vào quy

định của pháp luật về ngƣời bị tạm giữ có thể thấy: Ngƣời phạm tội quả tang
mà hành vi phạm tội thuộc trƣờng hợp ít nghiêm trọng, ngƣời phạm tội có nơi
cƣ trú rõ ràng, sự việc phạm tội đơn giản và ngƣời phạm tội không có dấu
hiệu bỏ trốn hay cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan
điều tra thì không cần phải tạm giữ họ.
Chẳng hạn: Nguyễn Văn A đang thực hiện hành vi phạm tội Trộm cắp
tài sản (lấy trộm xe đạp điện của Nguyễn Thị B) đƣợc quy định tại khoản 1
Điều 138 BLHS thì bị phát hiện và bị bắt quả tang. Bản thân A chƣa có tiền
án, tiền sự, hành vi phạm tội này thuộc trƣờng hợp tội phạm ít nghiêm trọng,

14


A có nơi cƣ trú rõ ràng, có ngƣời bảo lãnh cụ thể. Trong trƣờng hợp này,
không cần thiết phải ra quyết định tạm giữ đối với A.
Bởi nhƣ đã nêu, việc ra quyết định tạm giữ đối với ngƣời phạm tội
nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa ngƣời bị tạm giữ tiếp tục phạm tội hoặc
lẩn tránh, cản trở cho công tác điều tra của cơ quan điều tra, đồng thời cũng
tạo điều kiện cho cơ quan điều tra xác minh chính xác hành vi phạm tội, lý
lịch nhân thân của ngƣời bị tạm giữ. Ở đây hành vi phạm tội đã xảy ra, ngƣời
phạm tội có nơi cƣ trú rõ ràng, không có dấu hiệu gây cản trở hoạt động điều
tra, tình tiết phạm tội đơn giản, tính chất ít nghiêm trọng thì việc tạm giữ hoặc
gia hạn tạm giữ sẽ là không cần thiết.
Thứ ba, là người bị bắt theo quyết định bị truy nã:
Trƣớc đây, Sắc luật số 002-SLt ngày 18/6/1957 quy định, ngƣời đang
bị truy nã là một trƣờng hợp phạm pháp quả tang mà ngƣời công dân nào
cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan có thẩm quyền nơi gần nhất vì có
quan niệm không chính xác khi cho rằng: ngƣời đang bị truy nã là ngƣời
phạm tội quả tang. Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (Điều 64), cũng
nhƣ trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 82), ngƣời phạm tội quả

tang và bắt ngƣời đang bị truy nã đƣợc phân biệt rõ ràng. Bởi vì, ngƣời đang
bị truy nã là ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội, đã bị cơ quan Công an ra
quyết định (hoặc lệnh) truy nã. Theo quy định tại quy chế về công tác truy nã
của Bộ Công an thì những ngƣời thuộc diện cơ quan Công an phải ra lệnh
truy nã gồm: Bị can (ngƣời đã bị khởi tố về hình sự) bỏ trốn hoặc không biết
đang ở đâu; Bị cáo (ngƣời đã bị tòa án quyết định đƣa ra xét xử) bỏ trốn hoặc
không biết đang ở đâu; Phạm nhân (ngƣời đang thi hành án phạt tù trong các
trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ) trốn trại.
Trong thực tế, ngƣời đang bị truy nã là ngƣời đã bị khởi tố về hình sự, đã
có tƣ cách tố tụng là bị can, bị cáo hay ngƣời bị kết án về hình sự chƣa thi hành

15


án hoặc đang thi hành án thì bỏ trốn. Hành vi của ngƣời đang bị truy nã không
phải là hành vi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện phạm tội
thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt nên ngƣời đang bị truy nã không phải là ngƣời
phạm tội quả tang. Tuy vậy, trong thực tế việc ngăn chặn ngay ngƣời đang bị
truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính chất cấp bách nhƣ đối với ngƣời
phạm tội quả tang nên Bộ luật tố tụng hình sự quy định thẩm quyền, thủ tục bắt
ngƣời đang bị truy nã cũng đƣợc áp dụng nhƣ bắt ngƣời phạm tội quả tang.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, chỉ có cơ quan
điều tra có thẩm quyền ra quyết định truy nã. Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ
quan có liên quan khi cần truy nã ngƣời phạm tội, thì có văn bản đề nghị gửi
cơ quan điều tra ra quyết định truy nã. Điều 161 Bộ luật tố tụng hình sự 2003
quy định về truy nã bị can quy định: “Quyết định truy nã phải ghi rõ ngày,
giờ, tháng, năm, địa điểm ra quyết định truy nã; họ tên, chức vụ người ra
quyết định; họ tên, tuổi, nơi cư trú của bị can, đặc điểm để nhận dạng bị can,
dán ảnh kèm theo, nếu có; tội phạm mà bị can đã bị khởi tố”. Đối với ngƣời
bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra nhận ngƣời

bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan có thời gian
cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận ngƣời bị bắt, lấy lời khai, xác
minh nhân thân, lai lịch của ngƣời bị bắt (xem có đúng đối tƣợng truy nã hay
không) và các thủ tục tố tụng cần thiết khác.
Thứ tư, là người phạm tội tự thú, đầu thú:
Tự thú là việc một ngƣời sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội nhƣng
hành vi đó vẫn chƣa bị phát hiện, hoặc ngƣời thực hiện hành vi đó vẫn chƣa
bị phát hiện. Nhƣng sau một thời gian, có thể do bị lƣơng tâm cắn rứt, do hối
hận về hành vi của mình... ngƣời đó đã tự ra trƣớc cơ quan chức năng trình
diện và khai nhận về hành vi phạm tội của mình hoặc hành vi phạm tội của
mình và đồng bọn.

16


Còn đầu thú là việc một ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi
đó đã bị phát hiện, vụ án đó đã đƣợc khởi tố, có thể đã hoặc đang đƣợc tiến
hành điều tra, truy tố hoặc xét xử. Cá nhân ngƣời đó đã bị khởi tố bị can, có
thể chƣa hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị xử phạt nhƣng trốn tránh nay
đang bị truy nã, sau một thời gian trốn tránh ngƣời đó đã ra trƣớc các cơ quan
chức năng để trình diện, khai nhận về các hành vi phạm tội của mình.
Ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú không phải là ngƣời phạm tội bị bắt mà
họ tự nguyện ra trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Do đó ngƣời phạm tội tự
thú, đầu thú có thể bị tạm giữ nhƣng cũng có thể không cần thiết phải tạm giữ.
Thứ năm là, đối với họ phải có quyết định tạm giữ:
Bên cạnh điều kiện cần là một ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn cấp,
bị bắt trong trƣờng hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc
ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú thì điều kiện đủ để họ trở thành ngƣời bị tạm
giữ là đối với họ phải có quyết định tạm giữ. Nếu một ngƣời bị bắt trong các
trƣờng hợp nêu trên hoặc ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú mà không có quyết

định tạm giữ thì cũng không phải là ngƣời bị tạm giữ. Do đó điều kiện đủ này
điều kiện quan trọng và quyết định một ngƣời có phải là ngƣời bị tạm giữ hay
không trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Khi họ đã có quyết định tạm
giữ và tham gia vào quá trình tố tụng hình sự thì ngƣời bị tạm giữ có quyền và
nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy, khi bị bắt trong trƣờng hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang, hoặc bị bắt theo quyết định truy nã, hoặc khi
ngƣời phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ không thể bị tạm giữ trong các trƣờng
hợp sau đây:
- Các cơ quan có thẩm quyền xác định đƣợc ngay việc bắt giữ đối với
họ là không có căn cứ, do đó cơ quan bắt giữ ngƣời phải trả tự do ngay cho
ngƣời bị bắt.

17


- Ngay sau khi bắt ngƣời khẩn cấp hoặc bắt ngƣời phạm tội quả tang,
bắt theo quyết định truy nã, hoặc ngay sau khi có ngƣời ra tự thú, đầu thú, các
cơ quan có thẩm quyền đã xác định đƣợc đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố đối
với ngƣời bị bắt, ngƣời tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần
thiết và cũng đã xác định đƣợc ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên
đã ra lệnh tạm giam với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt
khẩn cấp, bắt quả tang, bắt theo quyết định truy nã, hoặc ngay sau khi có
ngƣời ra tự thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố
bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ mà áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác nhƣ Lệnh cấm đi khỏi nơi cƣ trú... thì cũng không
cần thiết phải ra quyết định tạm giữ.
- Ngoài các trƣờng hợp nêu trên, nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả
tang, cơ quan có thẩm quyền đã gửi lệnh bắt cho Viện kiểm sát để Viện kiểm
sát kiểm sát việc bắt và Viện kiểm sát đã không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp

đó thì cũng không đƣợc ra quyết định tạm giữ đối với ngƣời bị bắt và cơ quan
có thẩm quyền phải trả tự do ngay cho ngƣời bị bắt.
1.2 . Quy định của pháp luật TTHS một số nước về người bị tạm giữ
1.2.1 Người bị tạm giữ trong luật tố tụng hình sự Liên bang Nga
Theo BLTTHS Liên bang Nga đƣợc DUMA quốc gia thông qua ngày
22/11/2001 (đã qua nhiều lần sửa đổi từ năm 2002 đến năm 2006) thì chủ thể
tham gia TTHS gồm: Tòa án, các chủ thể tham gia tố tụng thuộc bên buộc tội,
các chủ thể tham gia tố tụng thuộc bên bào chữa và những chủ thể khác tham
gia TTHS. Trong đó: ngƣời bị tình nghi, bị can, ngƣời đại diện hợp pháp của
ngƣời bị tình nghi và của bị can là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời bào chữa, bị
đơn dân sự... thì thuộc nhóm các chủ thể tham gia TTHS thuộc bên bào
chữa...Tùy theo từng loại ngƣời có những vai trò khác nhau trong TTHS mà
pháp luật Liên bang Nga có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của

18


họ tham gia giải quyết vụ án. Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của
BLTTHS Liên bang Nga, không có quy định cụ thể về khái niệm cũng nhƣ
địa vị pháp lý của ngƣời bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Liên bang Nga mà
chỉ có khái niệm về ngƣời bị tình nghi - một chủ thể tham gia tố tụng. Mặc dù
vậy thì thuật ngữ “ngƣời bị tạm giữ ” vẫn đƣợc sử dụng trong các quy định
của BLTTHS Liên bang Nga (khoản 2, khoản 3 Điều 10 BLTTHS Liên bang
Nga). Theo quy định tại khoản 1 Điều 46: “Người bị tình nghi là người: 1)
Đối với họ đã khởi tố vụ án hình sự theo những căn cứ và theo thủ tục quy
định tại Mục 20 Bộ luật này; 2) Bị bắt giữ theo quy định tại Điều 91 và 92 Bộ
luật này; 3) Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trước khi khởi tố bị can theo quy
định tại Điều 100 Bộ luật này” [7, tr.26].
Tại khoản 11 Điều 5, BLTTHS Liên bang Nga đƣa ra khái niệm về việc
tạm giữ ngƣời bị tình nghi: Tạm giữ ngƣời bị tình nghi là biện pháp cƣỡng

chế tố tụng do Cơ quan điều tra ban đầu, Điều tra viên, Dự thẩm viên hoặc
Kiểm sát viên áp dụng trong thời hạn không quá 48 giờ kể từ thời điểm ngƣời
bị tình nghi thực hiện tội phạm thực tế bị tạm giữ [7, tr.6]. Bên cạnh đó, tại
khoản 15 Điều 5 đƣa ra khái niệm cụ thể về thời điểm thực tế bị tạm giữ: Là
thời điểm thực tế tƣớc tự do ngƣời bị tình nghi thực hiện tội phạm đƣợc tiến
hành theo thủ tục quy định của BLTTHS Liên bang Nga [7, tr.7].
Từ những quy định trên có thể thấy, ngƣời bị tạm giữ trong tố tụng hình
sự Liên bang Nga là ngƣời bị tình nghi bị bắt theo quy định tại Điều 91, 92
BLTTHS Liên bang Nga, bị tạm giữ không quá 48 giờ kể từ thời điểm ngƣời bị
tình nghi thực hiện tội phạm thực tế bị tạm giữ và đối với họ phải có quyết định
của Tòa án. Ngƣời bị tạm giữ trong BLTTHS Liên bang Nga có quyền của
ngƣời bị tình nghi theo quy định tại khoản 4 Điều 46 bao gồm các quyền: 1)
Đƣợc biết họ bị tình nghi về việc gì và nhận bản sao quyết định khởi tố vụ án
chống lại họ hoặc bản sao biên bản bắt giữ hoặc bản sao quyết định áp dụng

19


×