Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài tại việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ NGÂN HÀ

GIẢI QUYẾT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI BẰNG
TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN CHÍ HIẾU

HÀ NỘI - NĂM 2006


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Mở đầu 1
Chƣơng 1 KHáI QUáT Về TRANH CHấP THƢƠNG MạI Có YếU Tố NƢớC
NGOàI Và GIảI QUYếT TRANH CHấP THƢƠNG MạI Có YếU Tố NƢớC
NGOàI BằNG TRọNG TàI TạI VIệT NAM ...............................................................7



1.1 Khái niệm và các đặc trƣng pháp lý của TCTMCYTNN ........................ 7
1.1.1 Khái niệm TCTMCYTNN ................................................................. 7
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của TCTMCYTNN ...................... 11
1.2 Giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài ............................................ 15
1.2.1 Các yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết các TCTMCYTNN ...... 15
1.2.2 Các phương thức giải quyết TCTMCYTNN ................................... 18
1.2.3 Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết TCTMCYTNN............. 23
1.3 Pháp luật về giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài ......................... 25
1.3.1 Pháp luật nội dung:........................................................................ 25
1.3.2 Pháp luật hình thức ........................................................................ 27
1.3.3 Quan hệ giữa pháp luật – quy tắc tố tụng và sự thoả thuận của
các bên trong việc giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài.................... 30
Chƣơng 2 THựC TRạNG GIảI QUYếT CáC TRANH CHấP THƢƠNG
MạI Có YếU Tố NƢớC NGOàI BằNG TRọNG TàI TạI VIệT NAM ...............
2.1 Về thẩm quyền giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt
Nam ............................................................................................................... 32
2.1.1 Các TCTMCYTNN được giải quyết bằng trọng tài Việt Nam ....... 32
2.1.2 Hiệu lực của thoả thuận trọng tài .................................................. 36
2.2 Vấn đề xác định luật nội dung và quy tắc tố tụng ................................. 41
2.2.1 Xác định luật nội dung ................................................................... 42
2.2.2 Xác định quy tắc tố tụng ................................................................ 46

32


2.3 Các biện pháp hỗ trợ của Toà án đối với các bên trong
TCTMCYTNN.............................................................................................. 48
2.3.1 Xem xét hiệu lực của thoả thuận trọng tài ..................................... 48
2.3.2 Chỉ định, thay đổi Trọng tài viên ................................................... 49

2.3.3 áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ..................................... 50
2.3.4 Huỷ quyết định trọng tài ................................................................ 53
2.4 Thủ tục giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam ........... 56
2.4.1 Đơn kiện ......................................................................................... 56
2.4.2 Phiên họp xét xử ............................................................................. 56
2.4.3 Ra quyết định trọng tài................................................................... 57
2.4.4 Thi hành quyết định trọng tài......................................................... 57
Chƣơng 3 MộT Số KIếN NGHị NHằM PHáT HUY HIệU QUả CủA
TRọNG TàI TRONG VIệC GIảI QUYếT TRANH CHấP THƢƠNG MạI
Có YếU Tố NƢớC NGOàI.............................................................................. 61
3.1 Xây dựng các tiêu chí xác định thẩm quyền giải quyết
TCTMCYTNN của trọng tài ........................................................................ 61
3.2 Hoàn thiện các quy định về thủ tục trọng tài ......................................... 65
3.2.1 Hoàn thiện các quy định về áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời ..................................................................................................... 66
3.2.2 Đảm bảo thi hành quyết định của trọng tài ................................... 67
3.3 Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm cho hoạt động của trọng
tài 70
3.3.1 Đảm bảo sự hỗ trợ của Toà án đối với các bên tranh chấp
trong quá trình giải quyết các TCTMCYTNN .......................................... 70
3.3.2 Nâng cao năng lực đội ngũ Trọng tài viên .................................... 71
3.3.3 Nâng cao nhận thức của các nhà kinh doanh về trọng tài ............ 73
KếT LUậN ....................................................................................................... 80
Danh mục TàI LIệU THAM KHảO ................................................................ 82


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

PLTTTM:


Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại đã đƣợc Uỷ ban thƣờng
vụ Quốc hội thông qua ngày 25/02/2003, có hiệu lực
pháp luật kể từ ngày 01/07/2003.

Luật mẫu:

Luật mẫu về Trọng tài thƣơng mại quốc tế của Uỷ ban
Pháp luật Thƣơng mại Quốc tế của Liên Hợp Quốc đƣợc
thông qua ngày 21/06/1985.

TCTMCYTNN:

Tranh chấp thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài

VIAC:

Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng
Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam

WTO:

Tổ chức Thƣơng mại thế giới

ICC:

Phòng Thƣơng mại Quốc tế (The International Chamber
of Commerce)

HĐTP TANDTC:


Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, cùng với sự giao lƣu và hợp tác quốc tế ngày càng gia tăng thì
hoạt động thƣơng mại giữa nƣớc ta và các nƣớc diễn ra ngày càng nhiều, đặc
biệt là khi chúng ta đang tiến gần đến việc gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế
giới (WTO). Có nhiều quan hệ thƣơng mại với các quốc gia khác cũng đồng
nghĩa với việc có nhiều tranh chấp thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài (sau đây
gọi tắt là TCTMCYTNN) phát sinh. Do các tranh chấp này chứa đựng nhân tố
nƣớc ngoài nên có những đặc thù riêng so với các tranh chấp thƣơng mại
khác, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu riêng đối với việc giải quyết
chúng. Chẳng hạn nhƣ yêu cầu đối với vấn đề lựa chọn pháp luật của quốc gia
nào để giải quyết, xác định địa điểm, ngôn ngữ giải quyết tranh chấp... Chính
vì thế, khi xảy ra những tranh chấp dạng này một trong những phƣơng thức
giải quyết tranh chấp thƣờng đƣợc các bên lựa chọn chính là giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài bởi những lợi thế của nó so với các phƣơng thức khác. So
với thƣơng lƣợng, hoà giải, Toà án thì trọng tài là phƣơng thức giải quyết
tranh chấp có nhiều điểm thích hợp với các TCTMCYTNN vì nó cho phép
các bên đƣợc thoả thuận chọn Trọng tài viên, chọn luật áp dụng, ngôn ngữ,
địa điểm và thủ tục tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp. Ngoài ra thủ tục
giải quyết thông qua trọng tài khá đơn giản, nhanh gọn, phán quyết của trọng
tài là chung thẩm...
Từ những đòi hỏi của thực tiễn, yêu cầu đổi mới pháp luật về giải quyết
tranh chấp, đặc biệt là giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài đã đƣợc Đảng
và Nhà nƣớc ta coi là một biện pháp bảo đảm quan trọng cho các nhà đầu tƣ,
đặc biệt là các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Ngày 25/02/2003, Ủy ban Thƣờng vụ
Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại số 08/2003/PLUBTVQH (gọi tắt là PLTTTM) và ngày 15/01/2004, Chính phủ đã ban hành
1



Nghị định số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
PLTTTM. Những quy định mới, tiến bộ của PLTTTM đƣợc ban hành với
mục đích tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của trọng tài thƣơng mại ở nƣớc
ta, giúp giải quyết nhanh chóng các tranh chấp thƣơng mại, giảm bớt gánh
nặng của Tòa án. Tuy nhiên, sau hơn ba năm triển khai trên thực tế PLTTTM
để giải quyết các tranh chấp thƣơng mại (trong đó gồm cả các tranh chấp có
yếu tố nƣớc ngoài) đã bộc lộ nhiều vƣớng mắc làm giảm niềm tin của các nhà
đầu tƣ, các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc vào phƣơng thức giải quyết
tranh chấp này. Các vụ kiện thụ lý tại các Trung tâm trọng tài Việt Nam vẫn
không phải là nhiều nếu so với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới, chƣa
tƣơng xứng với số lƣợng các giao dịch thƣơng mại đang diễn ra tại Việt Nam
và vẫn chƣa có sự gia tăng đột biến nhƣ mong đợi. Kể từ khi PLTTTM năm
2003 ra đời đến nay, số lƣợng Trung tâm trọng tài giảm từ 6 Trung tâm xuống
còn 5 Trung tâm. Rất nhiều Trung tâm trọng tài Việt Nam đang hoạt động
cầm chừng với một vài vụ kiện hàng năm.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề giải
quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam, từ đó đƣa ra những kiến
nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trọng tài, nâng cao hiệu quả của
việc giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam trong điều kiện
hiện nay là vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
II.

Tình hình nghiên cứu
Tính đến nay, giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài đã nhận

đƣợc sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu luật học tại Việt Nam. Đã có
khá nhiều công trình nghiên cứu về các quy định pháp luật giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thƣơng mại, có những công trình nghiên cứu đã xuất bản

thành sách nhƣ: Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường trọng tài
(Đặng Thị Bích Liễu, NXB Chính trị quốc gia, 1998); Trọng tài thương mại
2


Việt Nam trong tiến trình đổi mới (ThS. Dƣơng Văn Hậu, NXB Chính trị
quốc gia,1999); Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta
hiện nay (TS. Đào Văn Hội, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004); Tranh
chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu - Án lệ trọng tài và kinh nghiệm (PGS.TS
Hoàng Ngọc Thiết, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002); Công nhận và thi
hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam (TS. Nguyễn
Trung Tín, NXB Tƣ pháp, 2005)… Các bài viết, bài nghiên cứu của các
chuyên gia: Điều khoản trọng tài trong các hợp đồng thương mại quốc tế
(Trần Hữu Huỳnh, báo Diễn đàn doanh nghiệp, số 2, ngày 20/11/1995); Một
số đặc điểm của pháp luật về trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam hiện nay
(TS. Nguyễn Am Hiểu, tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 5 năm 1997); Việc
tiếp nhận Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế ở một số
nước và việc xây dựng Dự thảo Pháp lệnh trọng tài của Việt Nam (Dƣơng
Thanh Mai, Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật số 8 năm 1998); Những nguyên
nhân làm hạn chế tác dụng của Trọng tài thương mại và những giải pháp
khắc phục (TS. Dƣơng Đăng Huệ, tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 7 năm
1999); PLTTTM những thử thách phía trước (Trần Hữu Huỳnh, Tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2003); Thủ tục giải quyết các yêu cầu liên
quan đến hoạt động trọng tài thương mại Việt Nam (TS. Phan Chí Hiếu, Tạp
chí Luật học, Số chuyên đề về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005)...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết về trọng tài và giải
quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài đƣợc thể hiện dƣới nhiều góc độ
khác nhau, đặt trong những bối cảnh và giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, hầu
hết các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu về trọng tài phi
chính phủ tại Việt Nam, giải quyết tranh chấp thƣơng mại (chủ yếu là các

tranh chấp trong nƣớc) bằng trọng tài Việt Nam từ trƣớc khi PLTTTM đƣợc
ban hành nên chƣa tiếp cận trực tiếp đến các quy định trong PLTTTM. Tính

3


đến thời điểm hiện tại chƣa có công trình nghiên cứu tổng thể, phân tích chi
tiết về giải quyết tranh chấp thƣơng mại nói chung, TCTMCYTNN bằng
trọng tài Việt Nam nói riêng trên cơ sở các quy định của PLTTTM. Kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các tác giả trƣớc đây về trọng tài Việt Nam và
giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài tại Việt Nam, luận văn tập trung
vào nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực tiễn áp dụng của việc giải
quyết các TCTMCYTNN tại các Trung tâm trọng tài của Việt Nam, phân tích
những quy định của PLTTTM về vấn đề này và việc thi hành chúng trên thực
tiễn.
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam, chỉ ra
những điểm hợp lý, tiến bộ cũng nhƣ những vấn đề còn tồn tại trong pháp luật
hiện hành về vấn đề này để từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật trọng tài thƣơng mại theo hƣớng phù hợp với thực tiễn
áp dụng và thông lệ quốc tế.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giải quyết
TCTMCYTNN bằng phƣơng thức trọng tài nhằm chỉ ra những ƣu điểm,
nhƣợc điểm của phƣơng thức giải quyết tranh chấp này.
- Phân tích những quy định pháp luật về giải quyết TCTMCYTNN bằng
trọng tài để chỉ ra những điểm chƣa phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
- Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài, góp

phần nâng cao vị thế của Trọng tài trong giai đoạn hiện nay đối với việc giải
quyết các tranh chấp thƣơng mại, đặc biệt là TCTMCYTNN.

4


IV. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc giải quyết những TCTMCYTNN bằng trọng tài tại Việt Nam. Luận
văn tập trung nghiên cứu việc giải quyết các TCTMCYTNN bằng trọng tài từ
khi hình thành trọng tài phi chính phủ tại Việt Nam đặc biệt là từ giai đoạn
ban hành PLTTTM năm 2003 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn trong việc tìm hiểu phân tích
các đặc trƣng của TCTMCYTNN, các yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết
các tranh chấp dạng này; sự phù hợp, vai trò của phƣơng thức trọng tài đối
với các TCTMCYTNN so với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác;
phân tích các quy định của PLTTTM đối với việc giải quyết các
TCTMCYTNN tại Việt Nam; tìm hiểu thực tiễn giải quyết TCTMCYTNN tại
các Trung tâm trọng tài Việt Nam từ đó nêu lên những điểm bất cập của pháp
luật về trọng tài đồng thời đƣa ra những giải pháp khắc phục.
V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận Mác - Lê Nin về
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về Nhà nƣớc và pháp quyền. Luận văn chú trọng vận dụng quan điểm
của triết học về phép biện chứng nhƣ mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, về
các cặp phạm trù cái chung, cái riêng, nội dung và hình thức khi phân tích,
đánh giá về pháp luật và thực tiễn giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài.
Bên cạnh đó, để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài đặt ra, luận
văn cũng sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối
chiếu và khảo sát thực tiễn.

VI. Kết quả của luận văn

5


Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về vai trò cũng nhƣ
những đặc điểm riêng của việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài
bằng phƣơng thức trọng tài so với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác
Luận văn đƣa ra những đánh giá về thực trạng việc giải quyết
TCTMCYTNN bằng con đƣờng trọng tài kể từ khi Pháp lệnh trọng tài ban
hành ngày 25/02/2003 đến nay.
Luận văn đƣa ra những quan điểm và đề xuất cơ bản nhằm hoàn thiện
pháp luật về trọng tài để nâng cao vai trò chủ động của trọng tài trong việc
giải quyết các tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài, các biện pháp khuyến khích
các bên tranh chấp lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng để kiến nghị các cơ
quan chức năng hoàn thiện pháp luật, xây dựng và hoàn thiện các chính sách
nâng cao hiệu quả xét xử của các Trung tâm trọng tài trong việc giải quyết
tranh chấp thƣơng mại nói chung, giải quyết TCTMCYTNN ở Việt Nam nói
riêng.
VII. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo luận văn
đƣợc kết cấu thành ba chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về TCTMCYTNN và giải quyết tranh chấp có
yếu tố nƣớc ngoài bằng trọng tài tại Việt Nam
Chƣơng 2: Thực trạng giải quyết các TCTMCYTNN bằng trọng tài tại
Việt Nam.
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm phát huy hiệu quả của trọng tài trong
việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài bằng trọng tài


6


Ch­¬ng 1
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM
1.1 Khái niệm và các đặc trƣng pháp lý của TCTMCYTNN
1.1.1 Khái niệm TCTMCYTNN
1.1.1.1 Tranh chấp thương mại
Dƣới góc độ pháp lý, tranh chấp là những xung đột, bất đồng về quyền
và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Tranh
chấp thƣơng mại là những mâu thuẫn, bất đồng liên quan đến lợi ích kinh tế
giữa các thƣơng nhân với nhau khi tham gia vào các quan hệ thƣơng mại.
Tranh chấp thƣơng mại phát sinh trong quá trình các cá nhân, tổ chức tiến
hành các hoạt động thƣơng mại theo quy định của pháp luật. Ngày nay, hoạt
động thƣơng mại đƣợc hiểu theo nghĩa rất rộng bao gồm tất cả các hoạt động
nhằm mục đích sinh lời từ đầu tƣ, sản xuất đến phân phối và cả dịch vụ sau
bán hàng...Chẳng hạn, Luật mẫu về Trọng tài thƣơng mại quốc tế của Uỷ ban
Pháp luật Thƣơng mại Quốc tế của Liên Hợp Quốc (gọi tắt là Luật mẫu) đƣợc
thông qua ngày 21/6/1985 cho rằng thuật ngữ “thƣơng mại” cần đƣợc giải
thích theo nghĩa rộng liên quan đến tất cả các mối quan hệ có bản chất thƣơng
mại, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng nhƣ: mọi
giao dịch thƣơng mại về việc cung cấp hay trao đổi hàng hoá, dịch vụ; thoả
thuận về phân phối, đại diện thƣơng mại; hóa đơn chứng từ; bán, cho thuê,
xây dựng nhà máy; các dịch vụ tƣ vấn; đề án thiết kế tổng hợp, giấy phép, đầu
tƣ, cấp chi phí, giao dịch ngân hàng, bảo hiểm, các thoả thuận về khai thác
hay chuyển nhƣợng, hợp tác giữa các xí nghiệp và các hình thức về hợp tác
công nghiệp hay thƣơng mại, vận chuyển hàng hoá hay hành khách bằng
đƣờng không, đƣờng biển, đƣờng sắt hay đƣờng bộ (Điều 1 Luật mẫu). Đây

7


cũng là khái niệm thƣơng mại theo cách hiểu của WTO và theo tinh thần của
Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) và các văn
bản pháp luật của Việt Nam trong thời gian gần đây.
Tại Việt Nam, thuật ngữ tranh chấp thƣơng mại xuất hiện cùng với sự ra
đời của Luật thƣơng mại năm 1997. Theo Điều 238 của văn bản này thì tranh
chấp thƣơng mại chỉ bó hẹp trong những “tranh chấp phát sinh do việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại”,
tức là sự thoả thuận giữa thƣơng nhân với thƣơng nhân, thƣơng nhân với các
bên có liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa
các bên trong hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thƣơng mại và
xúc tiến thƣơng mại. Hợp đồng thƣơng mại là hợp đồng riêng trong lĩnh vực
thƣơng mại, cũng giống nhƣ khi nói đến hợp đồng trong các lĩnh vực khác
nhƣ xây dựng, bảo hiểm, tín dụng... Nhƣ vậy, theo quy định trên thì tranh
chấp thƣơng mại, xét về bản chất là tranh chấp hợp đồng; xét về nội dung là
tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh, thƣơng mại nhƣ mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ thƣơng mại hay các hoạt động xúc tiến thƣơng
mại; xét về chủ thể là tranh chấp giữa thƣơng nhân với thƣơng nhân, thƣơng
nhân với các bên có quan hệ với thƣơng nhân trên cơ sở hợp đồng.
Trong khi đó, PLTTTM quy định về tranh chấp thƣơng mại theo nghĩa
rộng, phù hợp với quan điểm của Luật mẫu. Tranh chấp thƣơng mại bao gồm
các tranh chấp liên quan đến các hoạt động thƣơng mại nhƣ mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thƣơng mại; ký gửi; thuê,
cho thuê; thuê mua; xây dựng; tƣ vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tƣ; tài chính,
ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách
bằng đƣờng hàng không, đƣờng biển, đƣờng sắt, đƣờng bộ....
1.1.1.2 Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài


8


TCTMCYTNN là những mâu thuẫn, bất đồng xảy ra trong quá trình thực
hiện các hoạt động thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài (một số tài liệu còn gọi
là hoạt động thƣơng mại quốc tế). Trên thế giới, tính chất quốc tế của các
quan hệ thƣơng mại đƣợc hiểu không giống nhau và căn cứ trên nhiều tiêu chí
khác nhau. Theo Công ƣớc Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế những động
sản hữu hình, hợp đồng mua bán có tính chất quốc tế là tất cả các hợp đồng
mua bán trong đó các bên ký kết có trụ sở thƣơng mại ở các nƣớc khác nhau
và hàng hoá đƣợc chuyển từ nƣớc này sang nƣớc khác, hoặc là việc trao đổi ý
chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết đƣợc lập ở những nƣớc khác nhau
(Điều 1 của Công ƣớc).
Công ƣớc Viên năm 1980 của Liên Hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc
tế “chỉ đƣa ra một tiêu chuẩn để khẳng định tính chất quốc tế của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, đó là các bên ký kết hợp đồng có trụ sở thƣơng
mại đặt ở các nƣớc khác nhau” [12, tr.77].
Theo quan điểm của Phòng Thƣơng mại Quốc tế (ICC) thì tranh chấp
thƣơng mại quốc tế “không chỉ là các tranh chấp giữa các bên có quốc tịch khác
nhau, mà còn cả các tranh chấp khi quốc tịch của các bên giống nhau nếu việc
thực hiện hợp đồng ở nƣớc khác với nƣớc mà họ có quốc tịch” [33, tr.25].
Các quốc gia trên thế giới cũng dựa trên những tiêu chí khác nhau để xác
định những TCTMCYTNN nhƣng nhìn chung đều căn cứ vào ba dấu hiệu là:
chủ thể trong quan hệ tranh chấp là các bên có quốc tịch khác nhau hoặc có
trụ sở thƣơng mại ở các nƣớc khác nhau; đối tƣợng của quan hệ tranh chấp
nhƣ hàng hoá, dịch vụ... ở nƣớc ngoài; sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quan hệ tranh chấp xảy ra ở nƣớc ngoài.

9



Từ những phân tích ở trên có thể hiểu TCTMCYTNN là những mâu
thuẫn, bất đồng liên quan đến quyền và lợi ích kinh tế giữa các bên tranh
chấp khi tham gia vào các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài.

10


1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của TCTMCYTNN
Các TCTMCYTNN là những tranh chấp vƣợt ra khỏi biên giới lãnh thổ
của một quốc gia. Chính vì thế những tranh chấp thƣơng mại này có những
dấu hiệu đặc trƣng so với các tranh chấp cùng loại trong phạm vi một quốc
gia. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy TCTMCYTNN có các đặc điểm pháp lý
nổi bật sau:
a) Chủ thể của quan hệ tranh chấp
Một trong những dấu hiệu đặc thù của quan hệ TCTMCYTNN là một
hoặc các bên chủ thể có quốc tịch nƣớc ngoài. Ví dụ, một công ty nƣớc ngoài
tiến hành đầu tƣ trực tiếp vào một quốc gia sở tại, các tranh chấp phát sinh về
hoạt động đầu tƣ đó giữa công ty nƣớc ngoài trên với các cá nhân và pháp
nhân sở tại sẽ là TCTMCYTNN.
Chủ thể của quan hệ thƣơng mại nói chung, quan hệ thƣơng mại quốc tế
nói riêng là các thƣơng nhân có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Các
quốc gia khác nhau trên thế giới có những quy định khác nhau về những điều
kiện để trở thành thƣơng nhân nhƣng nhìn chung đều căn cứ vào hai điều kiện
chủ yếu sau: điều kiện về nhân thân (đối với cá nhân) hoặc điều kiện về việc
thành lập hợp pháp (đối với pháp nhân) và các điều kiện về nghề nghiệp.
Thƣơng nhân nƣớc ngoài là thƣơng nhân đƣợc thành lập hoặc đăng ký
theo pháp luật nƣớc ngoài và đang hoạt động tại nƣớc sở tại. Để xác định địa
vị pháp lý của một pháp nhân nƣớc ngoài khi tiến hành đầu tƣ, kinh doanh tại
một quốc gia khác phải căn cứ theo quy định của nƣớc mà pháp nhân đó

mang quốc tịch. Trên thế giới, thông thƣờng quốc tịch của một pháp nhân
đƣợc xác định theo những cơ sở sau:
- Nơi thành lập pháp nhân hoặc nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân đó;
(Luật Anh, Mỹ thƣờng áp dụng tiêu chuẩn này);

11


- Nơi đặt trung tâm quản lý hoặc nơi đặt trụ sở ban quản lý hành chính,
ban quản trị của pháp nhân đó (Luật một số nƣớc Châu Âu);
- Nơi kinh doanh chính hoặc nơi hoạt động đầu tƣ chính của pháp nhân
(luật một số nƣớc đang phát triển)[9, tr.114].
Pháp luật Việt Nam quy định: “Thƣơng nhân nƣớc ngoài là thƣơng nhân
đƣợc thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nƣớc ngoài
hoặc đƣợc pháp luật nƣớc ngoài công nhận” (Khoản 1 Điều 16 Luật thƣơng
mại 2005) . Đây là một dấu hiệu rất quan trọng để nhận biết thƣơng nhân
nƣớc ngoài có đủ tƣ cách pháp lý để tham gia vào các giao dịch thƣơng mại
tại Việt Nam hay không? Đồng thời tƣ cách chủ thể cũng là một yếu tố để
xem xét các thoả thuận của các cá nhân, tổ chức nƣớc ngoài trong các quan hệ
thƣơng mại có hợp pháp hay không?
b) Căn cứ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ tranh chấp ở
nước ngoài
Tuy các bên trong quan hệ tranh chấp có quốc tịch giống nhau nhƣng
nếu những sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
tranh chấp đó xảy ra ở một nƣớc khác nƣớc mà họ mang quốc tịch thì đó cũng
là TCTMCYTNN. Pháp luật Việt Nam quy định những tranh chấp thƣơng
mại mà có thể các bên đều là các cá nhân, tổ chức Việt Nam nhƣng những căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ tranh chấp này xảy ra ở một quốc
gia khác thì cũng đƣợc coi là tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài. Ví dụ, hai công
ty Việt Nam ký kết một hợp đồng thƣơng mại ở nƣớc ngoài, một bên tham gia

hợp đồng đã có hành vi vi phạm hợp đồng dẫn đến tranh chấp giữa các bên.
c) Tài sản tranh chấp ở nước ngoài
Một trong những dấu hiệu để nhận biết tranh chấp thƣơng mại yếu tố
nƣớc ngoài là tranh chấp đó liên quan đến khối lƣợng tài sản ở nƣớc ngoài.

12


Tài sản ở nƣớc ngoài là tài sản ở ngoài biên giới lãnh thổ của một quốc gia
nhất định. Ví dụ, tranh chấp liên quan đến khối lƣợng hàng hoá ở nƣớc ngoài
trong hợp đồng mua bán hàng hoá giữa hai công ty Việt Nam.
d) Luật áp dụng để giải quyết TCTMCYTNN
Trên thế giới, pháp luật điều chỉnh các quan hệ thƣơng mại quốc tế rất đa
dạng và phong phú và chủ yếu bao gồm: điều ƣớc quốc tế, pháp luật các quốc
gia, án lệ, tập quán thƣơng mại. Tuy nhiên, pháp luật Việt nam không coi án
lệ là nguồn của pháp luật điều chỉnh các quan hệ thƣơng mại.
i) Điều ước quốc tế:
Điều ƣớc quốc tế về thƣơng mại đƣợc hiểu là sự thỏa thuận bằng văn bản
đƣợc các quốc gia ký kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm ấn định,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ thƣơng
mại quốc tế. Để giải quyết các TCTMCYTNN, các bên tranh chấp có thể viện
dẫn đến những quy định tại các Điều ƣớc quốc tế về thƣơng mại. Một số Điều
ƣớc quốc tế về thƣơng mại tiêu biểu trên thế giới có vai trò quan trọng trong
việc điều chỉnh các quan hệ thƣơng mại quốc tế giữa các quốc gia, trong đó
có Việt nam nhƣ:
- Công ƣớc Viên về mua bán hàng hoá quốc tế đƣợc 11 quốc gia ký kết
ngày 01/01/1980. Việt Nam chƣa phải là thành viên của Công ƣớc Viên,
nhƣng Công ƣớc có thể đƣợc các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn làm luật
điều chỉnh quan hệ thƣơng mại với các chủ thể nƣớc ngoài nếu việc lựa chọn
đó không trái với các quy định của pháp luật Việt Nam.

- Quy tắc LaHaye ngày 15/06/1955 về Luật áp dụng vào hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế.
- Công ƣớc Roma về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp
đồng đƣợc ký tại Rome ngày 19/06/1980.
13


- Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – Liên minh Châu Âu:
Hiệp định này chứa đựng những điều khoản liên quan đến xuất xứ hàng hoá,
hạn ngạch (quota) và quy định danh mục mặt hàng và hạn ngạch. Hiệp định
trực tiếp điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng dệt may của các doanh
nghiệp nƣớc ta với các thƣơng nhân trong liên minh Châu Âu.
- Hiệp định thƣơng mại Việt – Mỹ (BTA): Hiệp định này đƣợc ký kết
vào ngày 13/07/2000, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Cho đến nay,
đây là hiệp định thƣơng mại song phƣơng mang tính tổng thể và bao quát
nhất. Hiệp định không chỉ đề cập đến thƣơng mại hàng hoá mà còn chứa đựng
những điều khoản về thƣơng mại dịch vụ, đầu tƣ và sở hữu trí tuệ.
ii)

Tập quán thương mại quốc tế

Tập quán thƣơng mại quốc tế là những quy tắc xử sự phổ biến đƣợc thừa
nhận và áp dụng rộng rãi ở một khu vực nhất định (tập quán khu vực) hoặc
trên phạm vi toàn cầu (tập quán toàn cầu)[9, tr.34]. Các tập quán đƣợc hình thành
từ lâu đời trong các quan hệ thƣơng mại quốc tế, khi đƣợc các chủ thể ký kết
hợp đồng mua bán quốc tế chấp nhận sẽ trở thành nguồn luật điều chỉnh đối
với các hợp đồng giữa các chủ thể đó với nhau. Trong quan hệ mua bán quốc
tế, tập quán thƣơng mại đóng vai trò quan trọng, vì tuy có thể không đƣợc đề
cập chính thức trong các văn bản giao dịch nhƣng trong thực tiễn mỗi khi có
tranh chấp các tập quán thƣơng mại thƣờng đƣợc dẫn chiếu để áp dụng.

Các tập quán thƣơng mại quốc tế đƣợc chia làm ba nhóm: các tập quán
có tính nguyên tắc; các tập quán Toà án quốc tế chung và các tập quán thƣơng
mại khu vực. Một trong những tập quán chung thông dụng trong mua bán
quốc tế đƣợc nhiều nƣớc công nhận và áp dụng rộng rãi đó là Điều kiện
thƣơng mại quốc tế (Incoterms) do Phòng Thƣơng mại Quốc tế (The
International Chamber of Commerce – ICC ) soạn thảo và ban hành.

14


iii) Pháp luật quốc gia:
Trong thực tiễn thƣơng mại quốc tế, bên cạnh các điều ƣớc quốc tế, tập
quán pháp, án lệ, luật quốc gia có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các
quan hệ thƣơng mại. Luật quốc gia đƣợc áp dụng trong các quan hệ thƣơng
mại quốc tế trong các trƣờng hợp:
- Khi các bên trong quan hệ thƣơng mại có thoả thuận áp dụng luật của
một bên là luật áp dụng điều chỉnh quan hệ giữa họ.
- Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế đƣợc quy định trong các điều ƣớc quốc tế liên quan quy định áp dụng luật
quốc gia đƣợc áp dụng cho hợp đồng đó. Ví dụ, Điều 42 điểm b Công ƣớc
Viên về mua bán hàng hoá quốc tế năm 1980 quy định “chiếu theo luật pháp
của quốc gia có trụ sở thƣơng mại của ngƣời mua”.
Trong hoạt động thƣơng mại quốc tế, luật quốc gia áp dụng thông
thƣờng là luật của nƣớc bên bán nhƣng cũng có thể là luật của nƣớc bên mua,
có thể là luật của nƣớc thứ ba, luật nơi ký hợp đồng, luật quốc tịch, luật nơi
nghĩa vụ hợp đồng đƣợc thực hiện...
1.2 Giải quyết TCTMCYTNN bằng trọng tài
1.2.1 Các yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết các TCTMCYTNN
Giải quyết TCTMCYTNN là việc các bên tranh chấp thông qua các hình
thức, thủ tục thích hợp tiến hành giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, bất đồng

về lợi ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ. Xuất phát
từ những đặc thù của hoạt động thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài, việc giải
quyết TCTMCYTNN phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, việc giải quyết các TCTMCYTNN phải phù hợp với thông lệ
quốc tế

15


Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc giải quyết
TCTMCYTNN không thể tách rời với yêu cầu phù hợp với thông lệ quốc tế.
Để tạo ra môi trƣờng đầu tƣ thân thiện, cởi mở và an toàn cho các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài, nhiều quốc gia đã và đang tiến hành sửa đổi, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về trọng tài của mình trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc chung
trong Luật mẫu. Điều này có nghĩa là việc giải quyết TCTMCYTNN không
chỉ đáp ứng đƣợc những yêu cầu của nền kinh tế trong nƣớc mà còn phải tôn
trọng, tuân thủ các nguyên tắc, quy định chung đã đƣợc cộng đồng quốc tế
thừa nhận. Nếu một quốc gia không tuân thủ các nguyên tắc này sẽ khiến cho
các đối tác nƣớc ngoài cảm thấy lo ngại trƣớc những rủi ro có thể xảy ra đối
với họ do sự khác biệt trong việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại tại quốc
gia đó so với các nƣớc khác và so với thông lệ quốc tế chung. Chính vì thế
việc giải quyết TCTMCYTNN phải đƣợc đặt trong quỹ đạo chung của thế
giới, phù hợp với pháp luật của các nƣớc cũng nhƣ pháp luật quốc tế.
Thứ hai, việc giải quyết TCTMCYTNN phải tôn trọng quyền tự định đoạt
của các bên
Yêu cầu này là nguyên tắc cơ bản đối với việc giải quyết các tranh chấp
trong quá trình hoạt động thƣơng mại quốc tế. Các tranh chấp đều phát sinh từ
những quan hệ đƣợc thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và thoả thuận.
Bởi vậy, khi giải quyết tranh chấp cũng phải đảm bảo tôn trọng quyền tự định
đoạt của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp hoàn toàn có quyền chủ động

lựa chọn cho mình một hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp với tính chất
và nội dung tranh chấp, phù hợp với thiện chí và thái độ hợp tác của các bên.
Các cơ quan giải quyết tranh chấp chỉ tham gia xử lý vụ tranh chấp nếu đƣợc
một hoặc các bên đƣơng sự yêu cầu. Ngay cả khi đã đƣa tranh chấp ra giải
quyết tại Tòa án hoặc Trung tâm trọng tài rồi thì các bên tranh chấp vẫn có

16


thể hòa giải với nhau, đƣợc quyền rút đơn yêu cầu hay thay đổi nội dung yêu
cầu.
Thứ ba, việc giải quyết TCTMCYTNN phải nhanh chóng, chính xác và
công bằng
Thực tiễn cho thấy, các tranh chấp thƣơng mại nói chung,
TCTMCYTNN nói riêng thƣờng liên quan đến giá trị tài sản lớn và bên phải
thực hiện nghĩa vụ thƣờng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ để chiếm
dụng vốn của đối tác. Bởi vậy, một yêu cầu hàng đầu trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại là nhanh chóng, dứt điểm, tránh dây dƣa,
kéo dài. Mặt khác, trong kinh doanh “thời gian là tiền bạc”. Nếu quá tập trung
vào việc giải quyết tranh chấp, các bên có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tức là bỏ
lỡ cơ hội có lợi nhuận, có khi còn lớn hơn giá trị đang tranh chấp. Hơn nữa, việc
giải quyết tranh chấp không nhanh chóng, dứt điểm sẽ gây tâm lý căng thẳng kéo
dài cho các thƣơng nhân và điều này chắc chắn sẽ ảnh hƣởng xấu đến hiệu quả
kinh doanh.
Nhƣng ngoài việc giải quyết TCTMCYTNN nhanh chóng thì sự phán
quyết yêu cầu phải chính xác, đúng pháp luật. Phán quyết của cơ quan tài
phán phải dựa trên các quy định của pháp luật, các tập quán thƣơng mại đƣợc
thừa nhận rộng rãi ở trong và ngoài nƣớc và đặc biệt phán quyết đó phải tôn
trọng sự thật khách quan của tranh chấp. Chỉ có nhƣ vậy thì hoạt động giải
quyết tranh chấp mới tạo đƣợc niềm tin cho các bên tranh chấp.

Việc giải quyết TCTMCYTNN cũng phải đảm bảo sự công bằng giữa
các bên tranh chấp, đặc biệt trong trƣờng hợp các bên tranh chấp có quốc tịch
khác nhau. Các thƣơng nhân nƣớc ngoài có thể chấm dứt quan hệ hợp tác,
không tiếp tục đầu tƣ tại một quốc gia nếu nhƣ họ cảm thấy mình có thể phải
gánh chịu những rủi ro, tổn thất vì pháp luật nƣớc sở tại thiếu tính công bằng.
Sự đối xử bất bình đẳng giữa các bên tranh chấp sẽ khiến cho việc giải quyết
17


tranh chấp chỉ là hình thức, quyền lợi của các bên không đƣợc đảm bảo tƣơng
xứng đồng thời làm giảm thiểu niềm tin của các thƣơng nhân vào tính chính
xác, khách quan của pháp luật.
Thứ tư, việc giải quyết TCTMCYTNN phải bảo đảm bí mật kinh doanh
của các bên đồng thời duy trì quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên
Yêu cầu đảm bảo bí mật kinh doanh cũng là một yêu cầu quan trọng đối
với việc giải quyết TCTMCYTNN. Mỗi doanh nghiệp đều có bí mật công
nghệ, kỹ thuật, quy trình sản xuất, nghệ thuật quản lý của riêng mình. Trong
khi đó, nếu tranh chấp đƣợc đƣa ra phân xử bởi một cơ quan tài phán ít nhiều
sẽ tiết lộ bí quyết kinh doanh, công nghệ của các bên. Mặt khác, các bên tranh
chấp rất ngại việc thông tin về vụ tranh chấp có thể bị lan rộng khiến cho các
bên đang bị dính vào rắc rối bị giảm sút uy tín và mất đi nhiều cơ hội kinh
doanh. Chính vì thế, các nhà kinh doanh luôn muốn lựa chọn những phƣơng
thức giải quyết tranh chấp hiệu quả nhƣng phải kín đáo, không công khai.
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, quan hệ hợp tác với bạn hàng là
yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Khi tranh chấp phát sinh, quan hệ
giữa các bên sẽ bị ảnh hƣởng. Hoạt động giải quyết tranh chấp phải giúp các
bên tháo gỡ những bất đồng, góp phần làm cho các bên hiểu nhau hơn, và có
thể vì vậy mà quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên không những đƣợc duy trì
mà còn đƣợc củng cố tốt đẹp hơn. Do đó, khi giải quyết tranh chấp thƣơng
mại điều mà các nhà kinh doanh (đặc biệt là các nhà kinh doanh nƣớc ngoài

đang đầu tƣ tại một quốc gia khác) rất quan tâm đến, bên cạnh yêu cầu về sự
phân xử công minh còn là việc gìn giữ các quan hệ kinh doanh vốn có, là việc
đảm bảo bí mật kinh doanh, tiết kiệm thời gian và chi phí.
1.2.2 Các phương thức giải quyết TCTMCYTNN

18


Mỗi nƣớc, tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, có thể có nhiều phƣơng
thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại. Các thƣơng nhân lựa chọn phƣơng
thức giải quyết tranh chấp theo thói quen, tập quán thƣơng mại, tính hiệu quả
và sự thuận lợi của phƣơng pháp giải quyết tranh chấp thƣơng mại. Sự hoàn
thiện của hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thƣơng mại cũng nhƣ
mặt bằng trình độ dân trí, văn hoá kinh doanh cũng là yếu tố quan trong tác
động đến việc lựa chọn phƣơng thức giải quyết TCTMCYTNN. Tại Việt
Nam, các bên tranh chấp có thể lựa chọn những phƣơng thức sau để giải
quyết TCTMCYTNN:
1.2.2.1 Thương lượng
Khi có tranh chấp xảy ra phƣơng thức giải quyết tranh chấp đơn giản
nhất và thƣờng là nhanh nhất đó là thƣơng lƣợng (hay đàm phán trực tiếp)
giữa các bên có tranh chấp hoặc tƣ vấn của họ. Giải quyết TCTMCYTNN
bằng thƣơng lƣợng giúp các bên giảm thiểu đƣợc tối đa những rắc rối phát
sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp bởi vì thủ tục tiến hành thƣơng
lƣợng đơn giản, các bên hoàn toàn chủ động trong việc giải quyết tranh chấp
và uy tín cũng nhƣ bí quyết kinh doanh của các bên không bị tổn hại.
Tuy nhiên, do thƣơng lƣợng là hình thức giải quyết tranh chấp mang tính
tự phát, không bị ràng buộc và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật nên có
những hạn chế nhất định: thứ nhất, kết quả của quá trình thƣơng lƣợng không
đƣợc cƣỡng chế thi hành; thứ hai, quá trình thƣơng lƣợng và đàm phán trực
tiếp là một hoạt động khép kín, không có sự can thiệp, giám sát từ cơ quan

pháp luật nên nhiều thỏa thuận, cam kết đạt đƣợc từ thƣơng lƣợng có thể trái
với các nguyên tắc và nội dung của pháp luật, trật tự công cộng, đạo đức xã
hội hoặc tạo cơ hội cho những tranh chấp, sai phạm pháp luật tiếp theo; thứ
ba, nếu một trong các bên không thiện chí sẽ lợi dụng thƣơng lƣợng nhƣ một

19


kế sách hoãn binh, kéo dài thời gian giải quyết để đạt đƣợc những ý đồ, mục
đích nhất định thì thƣơng lƣợng thành cái bẫy đối với những đối tác thiếu tỉnh
táo và cả tin.
1.2.2.2 Hòa giải
Nếu việc thƣơng lƣợng trực tiếp giữa các bên không đi đến kết quả, thì
sự tham gia của bên thứ ba có thể có ích cho các bên đƣơng sự, nhất là khi họ
có thể không cùng một quốc tịch. Khi đó, giải pháp hòa giải có thể đƣợc các
bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp. Giải quyết TCTMCYTNN bằng
hòa giải giúp các nhà kinh doanh giữ gìn đƣợc quan hệ kinh tế, giữ gìn đƣợc
uy tín và sự tín nhiệm của bạn hàng, khách hàng. Kết quả hòa giải thành
không đồng nghĩa với sự thắng – thua, không dẫn đến tình trạng đối đầu, căng
thẳng nhƣ kết cục các vụ kiên tụng tại tòa án.
1.2.2.3 Tòa án
Giải quyết tranh chấp thƣơng mại theo thủ tục tƣ pháp là hình thức giải
quyết tranh chấp mà theo đó, một bên, bằng đơn kiện, yêu cầu tòa án có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp; và tòa án theo thủ tục luật định sẽ đƣa ra phán
quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên[23, tr.91].
Điều hấp dẫn các bên tranh chấp chính là các phán quyết của Toà án
đƣợc cƣỡng chế thi hành bằng sức mạnh của quyền lực nhà nƣớc bởi một cơ
quan chuyên trách việc thi hành án. Điều đó có nghĩa là bên thắng trong quan
hệ tranh chấp sẽ đƣợc đảm bảo về việc khôi phục những quyền lợi đã bị bên
kia vi phạm. Tuy nhiên, TCTMCYTNN có những đặc thù và yêu cầu riêng

nên việc lựa chọn Toà án của bất kỳ quốc gia nào để giải quyết tranh chấp
cũng khiến cho một hoặc các bên tranh chấp cảm thấy không thực sự yên tâm
bởi những lý do sau đây:

20


Thứ nhất, giải quyết tranh chấp theo thủ tục tƣ pháp là sự can thiệp của
nhà nƣớc vào việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột về lợi ích trong quá
trình tham gia các hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức. Bên nƣớc
ngoài, với sự thiếu tin tƣởng vào hệ thống tƣ pháp hoặc luật tố tụng của quốc
gia khác, cùng với sự khác biệt về những chuẩn mực công bằng, đạo đức, trật
tự xã hội... giữa các quốc gia chính là yếu tố khiến họ không yên tâm khi lựa
chọn Toà án quốc gia để giải quyết các tranh chấp.
Thứ hai, nguyên tắc Toà án xét xử công khai khiến cho các bên tranh
chấp e ngại đƣa tranh chấp ra chốn công đƣờng bởi không muốn những bí mật
trong hoạt động kinh doanh của mình cũng nhƣ thông tin về vụ tranh chấp bị
tiết lộ.
Thứ ba, thủ tục tố tụng của tòa án thƣờng kéo dài, phức tạp không phù
hợp với sự mềm dẻo, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh.
1.2.2.4 Trọng tài
Thông thƣờng hầu hết các tranh chấp thƣơng mại quốc tế đều đƣợc giải
quyết bằng phƣơng thức trọng tài vì đây là phƣơng thức kết hợp đƣợc các yếu
tố ƣu việt so với các các phƣơng thức khác. Trên thế giới, trọng tài thƣơng
mại tồn tại từ nhiều thế kỷ. Ở những nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển,
phần lớn các tranh chấp kinh tế - thƣơng mại đƣợc giải quyết thông qua thủ
tục trọng tài.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là hình thức giải quyết tranh
chấp thông qua hoạt động của Trọng tài viên, với tƣ cách là bên thứ ba độc
lập, nhằm chấm dứt mâu thuẫn, xung đột bằng việc đƣa ra phán quyết buộc

các bên tranh chấp phải thi hành. Phƣơng thức trọng tài có nhiều điểm phù
hợp với việc giải quyết TCTMCYTNN, đáp ứng đƣợc yêu cầu của các bên
tranh chấp, cụ thể:
21


×