Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.9 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HUẾ

Pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁP LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2002


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nƣớc ta kinh tế quốc doanh đƣợc Đảng và Nhà nƣớc xác định là
giữ vai trò chủ đạo, trong đó doanh nghiệp Nhà nƣớc là lực lƣợng nòng cốt,
giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa; là một công cụ quan trọng để Nhà nƣớc định hƣớng và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Chính vì vậy, việc đổi mới để nâng cao sức mạnh và hiệu quả của
Doanh nghiệp Nhà nƣớc là một đòi hỏi cấp thiết, là trọng tâm của đổi mới
kinh tế ở Việt nam. Đây cũng là vấn đề đƣợc hầu hết các nƣớc trên thế giới
quan tâm trong quá trình cải cách kinh tế.
Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ Việt nam đã đề ra rất
nhiều biện pháp nhằm đổi mới, phát triển hoạt động của Doanh nghiệp Nhà
nƣớc. Song những biện pháp đó chƣa thật sự làm thay đổi cơ bản về tình
hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp này. Nhìn chung hiệu quả hoạt
động của Doanh nghiệp Nhà nƣớc chƣa cao, số Doanh nghiệp Nhà nƣớc
kinh doanh có hiệu quả chƣa nhiều, điều đó có ảnh hƣởng không nhỏ đến


sự phát triển của nền kinh tế Quốc dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 3, khoá IX đề ra chủ trƣơng
tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp
Nhà nƣớc theo hƣớng: tiếp tục cổ phần hoá đối với những doanh nghiệp mà
Nhà nƣớc không cần nắm giữ 100% sở hữu; sáp nhập, giải thể, khoán kinh
doanh, cho thuê những doanh nghiệp quy mô nhỏ không cổ phần hoá đƣợc
và Nhà nƣớc không cần nắm giữ. Đối với những doanh nghiệp mà Nhà
nƣớc quyết định nắm giữ 100% vốn sẽ chuyển sang hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nƣớc hoặc công ty cổ phần gồm các
cổ đông là các Doanh nghiệp Nhà nƣớc, đổi mới cơ chế đầu tƣ cho các
Doanh nghiệp Nhà nƣớc thông qua các công ty đầu tƣ tài chính.

1


Chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nƣớc thành công ty Trách nhiệm hữu
hạn một thành viên là việc thực hiện xu hƣớng công ty hoá các Doanh
nghiệp Nhà nƣớc. Đây là một trong những hình thức mới về cải cách
Doanh nghiệp Nhà nƣớc, tuy đã đƣợc pháp luật ghi nhận nhƣng chúng ta
lại chƣa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về vấn đề này. Cho đến thời điểm
hiện tại, Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển Doanh nghiệp Nhà nƣớc và Bộ
kế hoạch và đầu tƣ đang chỉ đạo thí điểm một số doanh nghiệp tiến hành
các bƣớc chuyển đổi để rút kinh nghiệm.
Chính vì vậy, cơ sở pháp lý về chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nƣớc
thành công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên, những điểm hợp lý và
bất hợp lý của pháp luật liên quan đến việc chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà
nƣớc thành công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên là vấn đề đang
đƣợc quan tâm và đòi hỏi phải đƣợc giải quyết trên cả phƣơng diện lý luận
và thực tiễn.
Trên thực tế đã có một số bài viết về vấn đề này, tuy nhiên những bài

viết đó chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nào đó của vấn đề mà chƣa có
một công trình nào nghiên cứu và đề cập một cách đầy đủ nhất đến tất cả
các khía cạnh của vấn đề.
Đề tài: "Pháp luật về chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nước thành
công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên" do vậy đã đƣợc tác giả lựa
chọn là đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình, nhằm giải quyết
thấu đáo những đòi hỏi bức xúc đó.
2. Tính mới của luận văn: Luận văn chỉ ra cơ sở lý luận của việc
chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nƣớc thành công ty Trách nhiệm hữu hạn
một thành viên; tìm hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề này để thấy
đƣợc những điểm phù hợp và không phù hợp; đồng thời đƣa ra phƣơng
hƣớng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật
về chuyển Doanh nghiệp Nhà nƣớc thành Công ty Trách nhiệm hữu hạn
một thành viên.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: là những quy định của pháp
luật liên quan đến việc chuyển dổi doanh nghiệp Nhà nƣớc (không bao gồm
2


các doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội) thành
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn
sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phƣơng pháp quy
nạp, kết hợp giữa phƣơng pháp phân tích, tổng hợp và có áp dụng phƣơng
pháp so sánh, đối chiếu với luật pháp các nƣớc về vấn đề chuyển đổi DNNN.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chƣơng I: Cơ sở lý luận của việc chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà
nƣớc thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Chƣơng II: Quy định của pháp luật về chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà

nƣớc thành công ty TNHH một thành viên ở Việt nam.
Chƣơng II: Phƣơng hƣớng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật
về chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nƣớc thành công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên ở Việt nam.

3


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC THÀNH CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
MỘT THÀNH VIÊN
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN.

1.1.1. Doanh nghiệp Nhà nƣớc.
Doanh nghiệp Nhà nƣớc (DNNN) là khái niệm chung để khái quát tất
cả các loại hình doanh nghiệp do Nhà nƣớc đầu tƣ vốn thành lập và tổ chức
quản lý với các hình thức và tên gọi khác nhau nhƣ xí nghiệp, nhà máy,
công ty, tổng công ty… Mặc dù với các hình thức và tên gọi khác nhau,
nhƣng DNNN vẫn đƣợc hiểu là tổ chức kinh tế do Nhà nƣớc đầu tƣ vốn để
thành lập.
Điều 1 của Luật Doanh nghiệp Nhà nƣớc (Ngày 20-4-1995) quy định
nhƣ sau:
"DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nƣớc đầu tƣ vốn để thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nƣớc giao.
DNNN có tƣ cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý.

DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ
Việt Nam".
DNNN có một số đặc trƣng cơ bản sau:
Thứ nhất: Về sở hữu vốn:
Vốn và tài sản trong DNNN thuộc quyền sở hữu của Nhà nƣớc. Khi
nói đến DNNN, thông thƣờng là nói đến tổ chức kinh tế do Nhà nƣớc đầu
tƣ 100% vốn để thành lập và quản lý, do vậy trong mọi hoàn cảnh, Nhà
4


nƣớc luôn giữ vai trò là ngƣời chủ sở hữu đối với DNNN. Trên thực tế đại
diện chủ sở hữu ở DNNN là ai không đƣợc xác định rõ. Quyền quản lý của
Nhà nƣớc và quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp chƣa đƣợc phân
định rõ; quyền sở hữu phân công cho nhiều cơ quan nhƣng chƣa phân định
rõ chức năng nhiệm vụ và mối quan hệ của các cơ quan này nên thực tế là
vừa buông lỏng quản lý, vừa can thiệp quá sâu và chồng chéo vào hoạt
động của doanh nghiệp.
Thứ hai: Trong DNNN có sự tách bạch giữa chủ thể sở hữu và chủ
thể kinh doanh. Chủ thể sở hữu là Nhà nƣớc, chủ thể kinh doanh là doanh
nghiệp. Tuy nhiên quyền năng của những chủ thể này cũng không đƣợc
phân định rõ ràng. Do vậy doanh nghiệp không đƣợc thực hiện đầy đủ các
quyền năng của ngƣời chủ sở hữu đối với khối tài sản mình đang quản lý và
sử dụng vào hoạt động kinh doanh, đặc biệt là quyền định đoạt. Có thể nói
sự tự chủ của DNNN trong hoạt động kinh doanh không đƣợc đảm bảo, các
cơ quan chủ quản vẫn can thiệp rất sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Sự
can thiệp của chủ quản không chỉ đối với hoạt động kinh doanh mà còn can
thiệp cả vào việc quyết định cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, chế độ lƣơng
thƣởng đối với các bộ phận của doanh nghiệp.... đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả của doanh
nghiệp.

Thứ ba: DNNN là pháp nhân kinh doanh, điều đó có nghĩa là mỗi
DNNN là một đơn vị kinh doanh độc lập và hoàn toàn tự chủ về hoạt động
kinh doanh của mình trong phạm vi số tài sản Nhà nƣớc giao. Nhà nƣớc chỉ
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi
số tài sản đã đầu tƣ vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế các điều kiện
để đảm bảo tƣ cách pháp nhân của DNNN chƣa đƣợc thiết lập đầy đủ đồng
thời cũng chƣa đƣợc tôn trọng. DNNN chƣa có tài sản độc lập với Nhà
nƣớc. Mặc dù, Nhà nƣớc đã tiến hành giao vốn cho DNNN nhƣng vẫn tiếp
tục can thiệp dƣới nhiều hình thức đến khối tài sản của doanh nghiệp nhƣ:
điều chuyển vốn và tài sản của doanh nghiệp, quyết định mua bán, chuyển
nhƣợng, cho thuê, thế chấp.... đối với tài sản của doanh nghiệp. Khi các
DNNN kinh doanh thua lỗ do rất nhiều lý do khác nhau trong đó lý do cơ
bản là các cơ quan chủ quản không muốn mất quyền chủ quản, nên mặc dù
5


nó đã thật sự lâm vào tình trạng nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp vƣợt
quá khả năng thanh toán, nó không bị giải thể hay phá sản mà Nhà nƣớc sẽ
hà hơi, tiếp sức cho doanh nghiệp thông qua các biện pháp tài chính nhƣ bù
lỗ, rót thêm vốn, khoanh nợ, xoá nợ.... để cho các doanh nghiệp này tiếp
tục tồn tại. Bởi vậy có thể nói trên thực tế DNNN là tổ chức kinh tế có tƣ
cách pháp nhân không đầy đủ, phạm vi trách nhiệm của chủ sở hữu đối với
hoạt động của doanh nghiệp không đƣợc xác định rõ.
Chính đặc điểm này dẫn đến tình trạng trách nhiệm và quyền lợi của
cả DNNN và của Nhà nƣớc không rõ ràng. Trong trƣờng hợp DNNN kinh
doanh thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả thì ngân sách Nhà nƣớc là nơi cấp
bù; còn khi DNNN kinh doanh có hiệu quả thì việc phân bổ lợi nhuận sau
thuế thƣờng thiên về lợi ích của Nhà nƣớc với lý do Nhà nƣớc là chủ sở hữu
nên có quyền định đoạt tất cả do đó không tạo đƣợc động lực cho doanh
nghiệp.

Ở Việt nam hiện nay, DNNN do Nhà nƣớc đầu tƣ 100% vốn thành
lập là loại hình DNNN phổ biến nhất và đƣợc tổ chức theo các mô hình chủ
yếu sau đây:
1. DNNN độc lập là những doanh nghiệp không nằm trong cơ cấu tổ
chức của doanh nghiệp khác;
2. Các DNNN là thành viên của các DNNN khác (thành viên của
tổng công ty Nhà nƣớc). Các DNNN này thƣờng phụ thuộc vào tổ chức của
tổng công ty với hai loại hình chủ yếu là doanh nghiệp thành viên hạch
toán độc lập và doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc;
3. DNNN đƣợc tổ chức dƣới hình thức tổng công ty Nhà nƣớc đƣợc
hợp thành từ các DNNN là thành viên.
Trƣớc thời kỳ đổi mới, số lƣợng DNNN ở Việt nam rất lớn (hơn
12.000 doanh nghiệp) các doanh nghiệp này ra đời không tuân theo những
điều kiện nhất định, đặc biệt là điều kiện về vốn, nên hiện tƣợng thiếu vốn
kinh doanh của các DNNN thƣờng xuyên xảy ra. Bên cạnh đó, các cơ quan
chủ quản thƣờng xuyên can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, không đảm bảo đƣợc sự chủ động của doanh nghiệp đối với hoạt

6


động kinh doanh. Tất cả những điều đó đã tác động và làm cho hoạt động
kinh doanh của DNNN kém hiệu quả, DNNN trở thành gánh nặng của
Ngân sách quốc gia. Từ khi bƣớc vào thời kỳ đổi mới cho đến nay khu vực
DNNN đã có những biến đổi theo chiều hƣớng tích cực: Số lƣợng DNNN
giảm đi hơn một nửa, hiện có khoảng hơn 5000 doanh nghiệp; bƣớc đầu
giảm sự can thiệp của Nhà nƣớc vào hoạt động của doanh nghiệp nên hiệu
quả hoạt động của DNNN đã dần đƣợc nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh đó
hoạt động của DNNN vẫn còn những tồn tại không nhỏ: Hiệu quả kinh
doanh của DNNN không tƣơng xứng với những tiềm năng và lợi thế có

đƣợc, số DNNN hoạt động thật sự có hiệu quả không nhiều Theo đánh giá
chung, khoảng gần 40% DNNN hoạt động có hiệu quả, khoảng 20% doanh
nghiệp hoạt động không có hiệu quả thua lỗ liên tục, số còn lại hoạt động
chƣa có hiệu quả, khi lỗ, khi lãi (24.10.tr.33). Tình trạng kinh doanh kém
hiệu quả của DNNN trong điều kiện nƣớc ta hiện nay có nguy cơ đe doạ
đến sự an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính bởi DNNN là khách hàng vay
chủ yếu của 4 ngân hàng thƣơng mại quốc doanh; hơn thế nữa khả năng
cạnh tranh của các DNNN rất yếu ngay trong cả những ngành, sản phẩm
đƣợc bảo hộ tuyệt đối. Khả năng cạnh tranh kém của các DNNN trong điều
kiện Việt Nam đang và sẽ thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế có nguy
cơ dẫn đến tình trạng Nhà nƣớc sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tƣơng lai
để trợ cấp và duy trì các DNNN.
Để DNNN có thể giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thì
những yếu kém, tồn tại của DNNN cần đƣợc khắc phục thông qua các biện
pháp đổi mới tổ chức, hoạt động của DNNN.
1.1.2. Công ty TNHH một thành viên
1.1.2.1. Khái quát về công ty
Công ty là loại hình doanh nghiệp xuất hiện rất sớm ở các nƣớc
phƣơng tây. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XVII, vua nƣớc Pháp là
Louis XIV đã ban hành sắc lệnh về công ty. Trải qua nhiều thế kỷ tồn tại,
phát triển và hoàn thiện, ngày nay công ty đã trở thành hình thức cơ bản
của doanh nghiệp hiện đại.Nhiều nƣớc trên thế giới đã có luật công ty để
quy định về loại hình doanh nghiệp này.
7


Hàm nghĩa ban đầu của công ty là nói về loại doanh nghiệp có từ 2
ngƣời góp vốn kinh doanh trở lên nhằm mục đích sinh lợi với 4 đặc trƣng
cơ bản sau: là tổ chức kinh tế nhằm mục tiêu lợi nhuận; có từ 2 thành viên
trở lên đầu tƣ góp vốn kinh doanh, có quan hệ rõ ràng về quản lý tài sản ở

công ty; có tƣ cách pháp nhân; đăng ký theo luật định.
Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 trên thế giới bắt đầu trào
lƣu cải cách mạnh mẽ DNNN, trong đó có việc áp dụng nguyên lý tổ chức
và quản lý của công ty tƣ nhân để áp dụng vào DNNN. Từ đây xuất hiện loại
hình công ty có một chủ sở hữu là Nhà nƣớc và đã đƣợc một số nƣớc bổ
sung và quy định trong luật công ty của mình nhƣ: Úc, Niudilân, Trung
quốc.
Hầu hết các nƣớc trên thế giới đều quan tâm đến việc thiết lập cho
đƣợc cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty sao cho có hiệu quả nhất.
Trong đó vấn đề trọng tâm là làm thế nào thiết lập mối quan hệ quản lý của
ngƣời chủ sở hữu với ngƣời đƣợc uỷ quyền quản lý để họ có trách nhiệm
trong quản lý công ty, đồng thời vẫn tạo cho họ sự chủ động trong quản lý
công ty.
Các mô hình công ty hiện đại trên thế giới gồm 3 bộ phận chủ yếu:
Chủ sở hữu; Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng giám sát và Giám đốc điều
hành. Chức năng của các bộ phận này nhƣ sau:
Chủ sở hữu (hoặc cổ đông) là ngƣời cung cấp vốn đầu tƣ hoặc vốn
cổ phần có các quyền cơ bản sau: Bầu và bãi miễn Hội đồng quản trị hoặc
Hội đồng giám sát; Thông qua hoặc không thông qua một số những vấn đề
cơ bản có tính nguyên tắc của công ty nhƣ thay đổi điều lệ, sáp nhập, tăng
giảm vốn công ty; quyết định mức lãi và thụ hƣởng lãi.
Hội đồng quản trị là cơ quan thay mặt Chủ sở hữu (cổ đông) thực
hiện việc quản lý công ty thông qua những công việc cụ thể sau: Bổ nhiệm,
miễn nhiệm Giám đốc điều hành; Giám sát hoạt động điều hành của Giám
đốc điều hành; Xem xét và thông qua các quyết định quan trọng khác
không trực tiếp do chủ sở hữu quyết định.

8



Giám đốc điều hành công ty không phải là một ngƣời mà là một số
ngƣời do Hội đồng quản trị lựa chọn và bổ nhiệm. Thực chất đây là bộ máy
điều hành công ty, thực hiện chức năng điều hành hoạt động kinh doanh
hàng ngày của công ty.
Mô hình tổ chức quản lý công ty nhƣ vậy đã phân chia quyền lực
giữa 3 bộ phận của công ty, đảm bảo cho cổ đông có thể quản lý và giám
sát một cách tốt nhất đối với các nhà quản trị điều hành công ty.
1.1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của Công ty TNHH một thành viên
Công ty TNHH một thành viên là một loại hình doanh nghiệp mới ở
Việt Nam, đƣợc quy định trong Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999. Loại
hình doanh nghiệp này ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện môi trƣờng
kinh doanh, tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế khác nhau đƣợc bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh trên cùng một
mặt bằng pháp lý.
Điều 46 Luật Doanh nghiệp quy định: "Công ty TNHH một thành
viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhƣợng toàn bộ hoặc một
phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
Công ty TNHH một thành viên không đƣợc quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty TNHH một thành viên có tƣ cách pháp nhân kể từ ngày
đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh".
Trong thực tế kinh doanh ở Việt Nam đã tồn tại rất nhiều công ty
TNHH trong đó có một số thành viên danh nghĩa, còn thực chất chỉ có một
thành viên. Việc đƣa thêm một số thành viên danh nghĩa vào danh sách
thành viên sáng lập công ty chỉ là cách làm hợp pháp hóa việc thành lập
công ty, còn thực chất công ty chỉ có một chủ. Nhƣ vậy, dù có đƣợc pháp
luật thừa nhận hay không thì công ty TNHH một thành viên vẫn tồn tại và
hoạt động nên thực tế. Luật công ty trƣớc đây không có khả năng ngăn

chặn việc thành lập công ty thuộc sở hữu một chủ. Do đó, khi Luật doanh
9


nghiệp thừa nhận loại hình kinh doanh này tức là đã đƣa ra một giải pháp
pháp lý đối với một vấn đề bức xúc trên thực tế, môi trƣờng kinh doanh có
thể rõ ràng và minh bạch hơn. Ở một số nƣớc trên thế giới cũng quy định
về loại hình công ty TNHH một thành viên, ở đó thành viên duy nhất của
công ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Tuy nhiên, một điểm đáng lƣu ý là theo quy định tại Điều 46 Luật
doanh nghiệp thì: "Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một
tổ chức làm chủ sở hữu”, chủ sở hữu của công ty TNHH một thành viên
phải là tổ chức có tƣ cách pháp nhân. Theo quy định tại Điều 14, Nghị định
số 03/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03 tháng 02 năm 2000 Về hƣớng
dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp thì những tổ chức sau đây
có thể là chủ sở hữu của công ty TNHH một thành viên: cơ quan Nhà nƣớc,
đơn vị thuộc lực lƣợng vũ trang nhân dân; các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội cấp Trung ƣơng và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ƣơng; Liên hiệp các tổ chức hoà bình, đoàn kết hữu nghị Việt nam; các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; các tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội nghề nghiệp; quỹ xã hội, quỹ từ thiện; các tổ chức khác có tƣ cách
pháp nhân.
Công ty TNHH một thành viên có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Điểm đặc thù của mô hình công ty TNHH một thành
viên thể hiện ở chỗ: thành viên duy nhất của công ty cũng là chủ sở hữu
của công ty. Về nguyên tắc, khi một ngƣời đầu tƣ vốn vào đâu thì họ có
quyền tham gia quyết định đối với hoạt động kinh doanh ở nơi đó. Nên để
tránh sự lạm dụng quyền hạn của Chủ sở hữu công ty, Luật doanh nghiệp
đƣa ra một số quy định ràng buộc nghiêm ngặt đối với Chủ sở hữu công ty,
đó là:

Chủ sở hữu công ty không đƣợc trực tiếp rút vốn đã góp vào công
ty (dù là một phần hay toàn bộ). Chỉ đƣợc rút vốn bằng cách chuyển
nhƣợng một phần hay toàn bộ vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
Khi Chủ sở hữu thực hiện quyền này, có thể Chủ sở hữu sẽ làm thay đổi
hình thức sở hữu hoặc hình thức pháp lý của doanh nghiệp. Nếu Chủ sở
hữu chuyển nhƣợng toàn bộ vốn điều lệ cho một tổ chức có tƣ cách pháp
10


nhân thì nó chỉ làm thay đổi Chủ sở hữu của doanh nghiệp; nhƣng khi Chủ
sở hữu quyết định chuyển toàn bộ vốn điều lệ của công ty cho cá nhân khác,
hoặc khi chủ sở hữu chuyển một phần vốn điều lệ cho một tổ chức hoặc cá
nhân khác, hình thức pháp lý của doanh nghiệp sẽ thay đổi, doanh nghiệp
tồn tại dƣới hình thức doanh nghiệp tƣ nhân hoặc công ty TNHH 2 thành
viên trở lên.
Chủ sở hữu chỉ đƣợc rút lợi nhuận của công ty khi công ty đã thanh
toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.
Việc tăng hoặc giảm vốn điều lệ đƣợc thực hiện bằng cách tăng
hoặc giảm vốn góp của chủ sở hữu công ty; điều chỉnh mức vốn điều lệ
tƣơng ứng với giá trị tài sản của công ty.
Thứ hai: Công ty TNHH một thành viên có quyền độc lập, tự chủ
đối với hoạt động kinh doanh của mình. Công ty TNHH một thành viên có
đầy đủ các quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của
mình; quyết định hợp đồng mua bán vay cho vay và các hợp đồng khác có
giá trị dƣới 50% tổng giá trị tài sản đƣợc ghi trong sổ sách kế toán của công
ty hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn đƣợc quy định trong điều lệ công ty.
Chủ sở hữu công ty quyết định về các dự án đầu tƣ, về các quan hệ
hợp đồng có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản đƣợc ghi
trong sổ sách kế toán của công ty.
Nhƣ vậy, công ty TNHH một thành viên có sự độc lập tƣơng đối với

chủ sở hữu công ty trong sử dụng và định đoạt tài sản của công ty, có
quyền tham gia vào các quan hệ tài sản có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá trị
tài sản đƣợc ghi trong sổ sách kế toán công ty
Thứ ba: Công ty TNHH một thành viên là một pháp nhân kinh
doanh hoàn toàn độc lập, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp
luật. Khi có rủi ro xảy ra từ hoạt động của công ty TNHH một thành viên,
công ty TNHH một thành viên sẽ sử dụng tài sản là vốn điều lệ của công ty
để chịu trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là trách nhiệm của công ty TNHH
một thành viên trong hoạt động kinh doanh là trách nhiệm hữu hạn. Chủ sở

11


hữu công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ, các nghĩa vụ tài sản của
doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp.
1.2. CĂN CỨ CỦA VIỆC CHUYỂN DNNN THÀNH CÔNG TY TNHH MỘT
THÀNH VIÊN

Công ty TNHH một thành viên là mô hình kinh doanh hiện đại, có
tƣ cách pháp nhân, có quyền độc lập, tự chủ đối với hoạt động kinh doanh
của mình trong phạm vi số vốn chủ sở hữu giao. Chủ sở hữu Công ty
TNHH một thành viên là một tổ chức có tƣ cách pháp nhân, đây là điểm
tƣơng đồng giữa DNNN và Công ty TNHH một thành viên. Về DNNN,
mặc dù Luật Doanh nghiệp Nhà nƣớc có quy định rõ DNNN là pháp nhân
kinh doanh có các quyền và nghĩa vụ dân sự, độc lập chịu trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của mình trong phạm vi số tài sản mà Nhà nƣớc giao.
Nhƣ vậy có nghĩa là Luật doanh nghiệp Nhà nƣớc đã quy định DNNN có
đầy đủ các đặc trƣng của công ty hiện đại. Nhƣng trên thực tế, DNNN
không có đƣợc những đặc trƣng này. Điều đó dẫn đến hiệu quả hoạt động
và khả năng cạnh tranh của các DNNN trên thƣơng trƣờng rất kém.

Từ khi Việt nam bƣớc vào thời kỳ đổi mới, chủ trƣơng của Đảng và
Nhà nƣớc là phát triển nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Trong nền kinh tế đó không chỉ có DNNN và các hợp tác xã là chủ
thể kinh doanh nữa, mà: mọi cá nhân, tổ chức đƣợc tham gia vào hoạt động
kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57- Hiến pháp 1992). Sự
bình đẳng của tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia vào hoạt động
kinh doanh đã đƣợc pháp luật thừa nhận. Do vậy, trong những năm gần
đây, môi trƣờng kinh doanh của các DNNN đã thay đổi, các doanh nghiệp
đang phải cạnh tranh gay gắt trên nhiều mặt. Thực lực kinh doanh của
DNNN không đáp ứng yêu cầu đề ra là: kinh tế Nhà nƣớc giữ vai trò chủ
đạo, DNNN là lực lƣợng nòng cốt (1.tr.12). Do vậy, việc đổi mới hoạt động
của DNNN đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm từ rất sớm. Hội nghị lần
thứ tƣ Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: “Chuyển các
DNNN hoạt động kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty TNHH
hoặc công ty cổ phần; bổ sung hình thức công ty TNHH chỉ có một sáng
lập viên để áp dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh 100% vốn Nhà
12


nƣớc”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định tiếp tục thực hiện
chủ trƣơng này “Chuyển các DNNN kinh doanh sang cơ chế công ty TNHH
hoặc công ty cổ phần”. Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ƣơng
Đảng khoá IX đã đƣa ra Nghị quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả DNNN và khẳng định: “DNNN phải không ngừng
đƣợc đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong
nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nƣớc định hƣớng và
điều tiết vĩ mô, làm lực lƣợng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà
nƣớc thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa” và “chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nƣớc giữ 100% vốn
sang hình thức công ty TNHH một chủ sở hữu là Nhà nƣớc hoặc công ty cổ

phần gồm các cổ đông là các DNNN”. Căn cứ vào định hƣớng trên đây của
Đảng, ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp. Tại điều
1, khoản 2 Luật doanh nghiệp quy định: DNNN khi chuyển đổi thành công
ty TNHH một thành viên, công ty cổ phần đƣợc điều chỉnh theo luật này.
Trình tự và thủ tục chuyển đổi do Chính phủ quy định. Mục II Chƣơng III
của Luật này quy định về loại hình công ty TNHH một thành viên. Trên cơ
sở đó, ngày 20/7/1999, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Chỉ thị số
20/1999/CT-TTg yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ soạn thảo Nghị định quy
định về trình tự và thủ tục chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH một
thành viên. Ngày 14/9/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
63/2001/NĐ-CP về chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị xã hội thành công ty TNHH một thành viên. Nghị định
này không chỉ quy định về trình tự, thủ tục chuyển đổi, mà còn bổ sung các
quy định cần thiết về tổ chức, quản lý, nhằm đảm bảo sự vận hành đôí với
công ty TNHH một thành viên sau chuyển đổi.
Chủ trƣơng, định hƣớng của Đảng về đổi mới DNNN, quy định
Luật doanh nghiệp về công ty TNHH một thành viên; Nghị định số
63/2001/NĐ/CP ngày 14/9/2001 của Chính phủ về chuyển đổi DNNN
thành công ty TNHH một thành viên; các thông tƣ hƣớng dẫn của các Bộ,
ngành có liên quan về các vấn để có liên quan đến chuyển đổi DNNN thành

13


công ty TNHH một thành viên chính là cơ sở Chính trị, pháp lý của việc
chuyển đổi này.
Các DNNN để có thể đứng vững trong cạnh tranh và làm tròn vai
trò mà Nhà nƣớc giao phó, thì nó phải có quyền tự quyết định cao hơn và
tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình, giảm bớt trách nhiệm
của Nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp. Để làm đƣợc điều đó

thì những vấn đề sau đây của DNNN cần đƣợc giải quyết:
(1). Xác lập đầy đủ tƣ cách pháp nhân của DNNN để các DNNN
hoàn toàn độc lập đối với hoạt động kinh doanh của mình. Các DNNN đã
đƣợc xác định là có tƣ cách pháp nhân nhƣng hiện vẫn chƣa có đầy đủ các
điều kiện để đảm bảo tƣ cách pháp nhân. DNNN chƣa có đủ các quyền đối
với tài sản do Nhà nƣớc giao, vẫn bị chủ sở hữu can thiệp dƣới nhiều hình
thức; doanh nghiệp chƣa có quyền tự chủ nhân danh mình (pháp nhân độc
lập) để tham gia vào các quan hệ kinh tế và quyết định các vấn đề kinh
doanh của doanh nghiệp nhƣ quyết định đầu tƣ, liên doanh, góp vốn, mua
bán, thanh lý, cầm cố, chuyển nhƣợng tài sản;
(2). Đảm bảo chế độ trách nhiệm hữu hạn của DNNN. Hiện nay các
DNNN ở Việt nam chƣa thực hiện chế độ tự chịu trách nhiệm; nhiều doanh
nghiệp vẫn đƣợc Nhà nƣớc xoá nợ, khoanh nợ hoặc tiếp tục cho hƣởng chế
độ bao cấp dƣới nhiều hình thức. Nhƣ vậy, trách nhiệm của doanh nghiệp
đã đƣợc chuyển giao một phần cho Nhà nƣớc, DNNN không thực hiện
đƣợc nghĩa vụ, trách nhiệm của pháp nhân là tự chịu trách nhiệm trong
phạm vi tài sản của mình;
(3). Tạo động lực cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo ra một
sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau. Các quy định hiện hành chƣa tạo động lực đủ mạnh để DNNN hoạt
động có hiệu quả hơn, vẫn tồn tại những quy định áp đặt những thủ tục
phiền hà, cơ chế trách nhiệm cá nhân, các chế tài chƣa nghiêm minh, chƣa
đủ mạnh để hạn chế những tiêu cực phát sinh. Môi trƣờng hoạt động bên
trong và bên ngoài DNNN không tạo đƣợc đủ động lực cho DNNN phát
triển, chƣa có một sân chơi bình đẳng cho DNNN và các doanh nghiệp
khác, vì thế khả năng cạnh tranh của DNNN rất kém.
14


(4). Tách mục tiêu xã hội ra khỏi hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp, để doanh nghiệp có thể tập trung mọi nguồn lực để thực hiện hoạt
động kinh doanh. Hiện nay, DNNN đƣợc giao thực hiện quá nhiều mục tiêu
xen kẽ nhau, thậm chí trái ngƣợc nhau làm cho doanh nghiệp không thể tập
trung toàn bộ nguồn lực để thực hiện mục tiêu chính là kinh doanh nhƣ các
công ty tƣ nhân nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN rất yếu kém.
(5). Phân định rạch ròi giữa quyền quản lý Nhà nƣớc và quyền của
chủ sở hữu. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả của DNNN là việc trong DNNN không có sự phân biệt rạch ròi giữa
quyền năng của Chủ sở hữu và quyền quản lý Nhà nƣớc; giữa quyền chủ sở
hữu và quyền tự chủ trong kinh doanh của doanh nghiệp. Quyền sở hữu
phân công cho nhiều cơ quan nhƣng chƣa phân định rõ chức năng nhiệm vụ
và mối quan hệ của các cơ quan này, nên vừa buông lỏng quản lý, vừa can
thiệp quá sâu và chồng chéo vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Đại diện Chủ sở hữu doanh nghiệp đồng thời là ngƣời thực hiện chức năng
quản lý Nhà nƣớc đối với doanh nghiệp, can thiệp trực tiếp vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, trên thực tế Nhà nƣớc là ngƣời thực
hiện hoạt động kinh doanh. Một chủ thể vừa thực hiện chức năng quản lý
Nhà nƣớc đồng thời lại là chủ thể kinh doanh thì sẽ không thể đạt đƣợc kết
quả cao nhất từ cả hai hoạt động.
Tổ chức quản lý hoạt động của công ty TNHH một thành viên theo quy
định của Luật Doanh nghiệp khắc phục đƣợc những hạn chế đó của DNNN.
Vấn đề trọng tâm nhất của cải cách DNNN ở Việt nam từ khi bắt đầu
công cuộc này cho đến nay là làm thế nào để tách bạch rõ giữa quyền Chủ sở
hữu và quyền quản lý Nhà nƣớc. Qua rất nhiều giai đoạn của quá trình cải
cách, chúng ta vẫn luôn tỏ ra lúng túng trong việc xử lý vấn đề này.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà việc sắp xếp, đổi mới DNNN
đƣợc Đảng và Nhà nƣớc xác định là nhiệm vụ cấp bách, chiến lƣợc của cải
cách kinh tế ở Việt nam thì nhu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình này là
phải thay đổi cách thức tổ chức quản lý, đổi mới quan hệ của chủ sở hữu
với các doanh nghiệp, khắc phục những hạn chế trong cơ cấu tổ chức, cơ

chế quản lý hiện tại của khu vực DNNN.
15


Đổi mới DNNN bằng cách công ty hoá DNNN - chuyển các DNNN
sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên là rất phù hợp
với điều kiện thực tế của Việt nam, đáp ứng đƣợc những đòi hỏi bức thiết
của quá trình đổi mới nền kinh tế nói chung và khu vực DNNN nói riêng.
Do vậy có thể nói: nền kinh tế thị trƣờng đƣợc xác lập tƣơng đối hoàn
chỉnh với những yêu cầu đặt ra về đổi mới tổ chức quản lý DNNN đã nêu
trên là căn cứ cơ bản để chuyển DNNN sang hoạt động theo mô hình công
ty.
Sự ra đời, tồn tại của các DNNN trên thế giới là sản phẩm tất yếu
của việc xã hội hoá sản xuất, tuy mức độ phát triển của DNNN ở mỗi nƣớc
là khác nhau nhƣng nhìn chung, DNNN ở tất cả các nƣớc đều đƣợc sử dụng
nhƣ là một công cụ điều tiết của Chính phủ. Tuỳ điều kiện của từng nƣớc
mà DNNN có thể tham gia vào phát triển toàn bộ các ngành kinh tế hoặc
chỉ tham gia phát triển những ngành kinh tế quan trọng nhƣ kết cấu hạ tầng,
cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng, phát triển những ngành công nghiệp
nặng đòi hỏi đầu tƣ lớn ban đầu mà chỉ Nhà nƣớc mới có đủ nguồn lực
nhƣ: luyện kim, hoá chất, đóng tàu; những ngành có trình độ công nghệ
cao nhƣ chế tạo máy bay, hàng không, vũ trụ...
Tuy có tỷ trọng kinh tế Nhà nƣớc khác nhau nhƣng các nƣớc đều
quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả của DNNN. Từ cuối những năm 70,
đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Chính phủ của nhiều nƣớc đã bắt đầu
xem xét lại vai trò của mình trong phát triển kinh tế Nhà nƣớc, tiến hành
cải cách DNNN theo nhiều cách khác nhau, trong đó xu hƣớng nổi bật là
chuyển các DNNN sang hoạt động theo mô hình công ty. Các nƣớc cũng
tiến hành tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về hiệu quả giữa
DNNN và khu vực kinh tế tƣ nhân để cải cách DNNN. Nguyên nhân cơ

bản của tình trạng hoạt động kém hiệu quả của DNNN có nguồn gốc từ chỗ
có sự khác biệt trong tổ chức quản lý DNNN so với các công ty tƣ nhân, do
đó DNNN không có đƣợc động lực phát triển nhƣ đối với các công ty tƣ
nhân.
Để cải thiện tình hình khu vực kinh tế Nhà nƣớc, nhiều nƣớc trên
thế giới đã áp dụng các biện pháp rất đa dạng trong cải cách DNNN nhƣ:
16


áp dụng biện pháp chuyển đổi sở hữu từ khu vực Nhà nƣớc sang khu vực tƣ
nhân; hoặc vẫn giữ sở hữu Nhà nƣớc nhƣng giảm dần sự kiểm soát quá
chặt của Nhà nƣớc, tạo cho DNNN quyền tự quyết trong điều hành doanh
nghiệp theo kiểu của công ty tƣ nhân. Chính việc áp dụng có hiệu quả kiểu
quản lý của công ty tƣ nhân đối với DNNN là hƣớng quan trọng để hình
thành các công ty Nhà nƣớc ở nhiều nƣớc trên thế giới.
Thực tế đã khẳng định sự đúng đắn của luận điểm cho rằng việc
nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN có thể thực hiện đƣợc không chỉ
bằng cách tiến hành tƣ nhân hoá DNNN mà có thể áp dụng các nguyên tắc
tổ chức và quản lý của công ty đối với những DNNN mà Nhà nƣớc vẫn tiếp
tục nắm giữ 100% vốn.
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nƣớc về chuyển đổi DNNN sang hoạt
động theo mô hình công ty cho thấy các hình thức sau đây đƣợc áp dụng:
1- Chuyển DNNN thành công ty một chủ Nhà nƣớc và áp dụng các
nguyên tắc tổ chức và quản lý theo kiêủ công ty tƣ nhân.
2- Thành lập các công ty TNHH, công ty Cổ phần Nhà nƣớc trên cơ
sở vốn góp của các DNNN.
3- Cổ phần hoá DNNN để chuyển các DNNN thành các công ty Cổ
phần trên cơ sở phát hành cổ phiều để thu hút thêm vốn vào DNNN hoặc
bán bớt cổ phần của DNNN.
Các nƣớc nhƣ: Niudilân, Úc, Hàn quốc, Trung Quốc đã tiến hành rất

mạnh các biện pháp nêu trên để cải cách DNNN, làm cho việc cải cách
DNNN đạt đƣợc mục tiêu quan trọng là nâng cao hiệu quả hoạt động và
khả năng cạnh tranh của DNNN.
Ở Niudilân năm 1985, Bộ tài chính Niudilân đã công bố 5 nguyên
tắc cơ bản để tổ chức lại hoạt động kinh doanh của các DNNN nhƣ sau:
1. Các chức năng phi kinh doanh cần phải tách khỏi tổ chức kinh
doanh của Nhà nƣớc;

17


2. Các nhà quản trị kinh doanh phải tiến hành các hoạt động kinh
doanh đạt kết quả tốt;
3. Các nhà quản trị doanh nghiệp có trách nhiệm về việc sử dụng
đầu vào, giá cả, tiếp thị;
4. Các doanh nghiệp hoạt động không đƣợc dựa vào lợi thế cạnh
tranh, xoá bỏ những lợi thế hoặc bất lợi thế này trong kinh doanh;
5. Doanh nghiệp phải đƣợc thành lập đúng theo mô hình công ty tƣ
nhân (theo luật tƣ).
Ở Úc, công ty hóa DNNN đƣợc thực hiện theo các nguyên tắc:
1. Định rõ mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đƣợc công ty hóa,
theo đó tách mục tiêu xã hội ra khỏi doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ còn
chức năng kinh doanh;
2. Đảm bảo quyền tự quyết của ngƣời quản lý doanh nghiệp Hội
đồng quản trị của doanh nghiệp này có quyền tự điều hành doanh nghiệp
không bị chi phối bởi các quyết định mang ý nghĩa chính trị của Chính phủ,
kể cả các nhiệm vụ xã hội do Chính phủ giao;
3. Quy định rõ ràng chế độ thƣởng phạt đối với Ban quản lý điều
hành doanh nghiệp trên cơ sở những cam kết giữa Hội đồng quản trị và cổ
đông đại diện cho Nhà nƣớc;

4. Tạo môi trƣờng cạnh tranh công bằng cho các công ty, các doanh
nghiệp có vốn Nhà nƣớc không đƣợc ƣu ái hơn các doanh nghiệp khác;
5. Sau khi chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty, các DNNN
là công ty thuộc sở hữu Nhà nƣớc, kho bạc Nhà nƣớc là cơ quan chịu trách
nhiệm theo dõi hoạt động và đánh giá hiệu quả của công ty, đồng thời công
ty có trách nhiệm định kỳ báo cáo lên kho bạc Nhà nƣớc.
Theo đánh giá chung, thông qua việc chuyển các DNNN sang hoạt
động theo mô hình công ty đã làm cho việc cải cách doanh nghiệp ở Úc đạt
đƣợc kết quả khả quan là nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của
DNNN và có thể thay thế đƣợc biện pháp tƣ nhân hoá.

18


Ở Trung Quốc việc cải cách DNNN đƣợc tiến hành từng bƣớc theo
phƣơng pháp tiếp cận dần, công cuộc này bắt đầu từ năm 1979. Trong quá
trình cải cách DNNN Trung Quốc đã đƣa ra đƣợc những chủ trƣơng và giải
pháp phù hợp nổi bật nhất là:
(1). Trao quyền tự chủ cho DNNN và giảm sự can thiệp của Nhà
nƣớc vào hoạt động của doanh nghiệp. Trung Quốc đang tiếp tục cải cách
và trao quyền tự chủ thật sự cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tự chịu
trách nhiệm về hoạt động của mình và giảm dần sự ỷ lại vào Nhà nƣớc.
Theo quy định của Luật xí nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu toàn
dân nƣớc Cộng hoà nhân dân Trung hoa năm 1988 thì: “Xí nghiệp là đơn vị
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ lãi, hoạch
toán độc lập theo luật định. Nhà nƣớc giao cho xí nghiệp quyền quản lý
kinh doanh tài sản thuộc sở hữu toàn dân theo nguyên tắc tách biệt giữa
quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Xí nghiệp đƣợc hƣởng quyền sở hữu,
sử dụng và xử lý theo luật định đối với tài sản mà Nhà nƣớc giao cho xí
nghiệp quản lý kinh doanh”.

Quy định của luật pháp đã tạo cho các DNNN quyền tự chủ trong
hoạt động kinh doanh. Tài sản của doanh nghiệp là tài sản thuộc sở hữu
Nhà nƣớc, nhƣng khi doanh nghiệp đƣợc thành lập thì doanh nghiệp có
quyền tự chủ trong sử dụng và xử lý đối với tài sản theo luật định, Nhà
nƣớc không can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Sự độc lập, tự chủ của doanh nghiệp đối với hoạt động quản lý của
Nhà nƣớc không chỉ dừng lại ở việc xác lập quyền sở hữu, sử dụng và xử lý
đối với tài sản mà nó còn thể hiện trong cả cơ cấu tổ chức của doanh
nghiệp. Nhà nƣớc (Bộ chủ quản) chỉ có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm đối
với giám đốc, ngƣời này trong nhiều trƣờng hợp có thể do đại hội công
nhân viên chức quyết định, các chức danh lãnh đạo trung gian khác trong
doanh nghiệp do giám đốc doanh nghiệp quyết định.
(2). Đa dạng hóa các loại hình DNNN và xây dựng doanh nghiệp
hiện đại, cụ thể là:

19


Hoàn thiện chế định pháp nhân doanh nghiệp, trong đó xác định rõ
phạm vi trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh.
Mặc dù sở hữu Nhà nƣớc vẫn đƣợc duy trì nhƣng doanh nghiệp vẫn có
quyền sở hữu tài sản và bằng các tài sản của mình để chịu trách nhiệm về
các nghĩa vụ tài sản. Nhà nƣớc bằng vốn góp vào doanh nghiệp chịu trách
nhiệm hữu hạn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giữa Nhà
nƣớc và doanh nghiệp không còn quan hệ hành chính phụ thuộc nhƣ trƣớc.
Xác định rõ chủ thể đầu tƣ của doanh nghiệp, hiện nay Trung Quốc
có bốn loại chủ thể đầu tƣ là: Công ty khống chế cổ phần Nhà nƣớc, Công
ty quốc hữu, Công ty kinh doanh tài sản Nhà nƣớc và Công ty theo mô hình
tập đoàn. Đây là các chủ thể đầu tƣ chủ yếu cho các loại DNNN.
Xác định lại hình thức tổ chức DNNN, chuyển DNNN thành công

ty, hoạt động này nhằm chuyển các DNNN có điều kiện sang kinh doanh
theo mô hình công ty tƣ nhân trong khi Nhà nƣớc vẫn chi phối bằng các
hình thức: lập công ty 100% sở hữu Nhà nƣớc hoặc Nhà nƣớc nắm giữ cổ
phần khống chế dƣới dạng công ty cổ phần hoặc công ty TNHH. Để tạo cơ
sở pháp lý cho việc này, năm 1993 Trung Quốc đã ban hành Luật công ty
trong đó quy định rõ 3 loại công ty có thể áp dụng cho DNNN là: công ty
TNHH đặc biệt có một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nƣớc; công ty TNHH
và công ty cổ phần hữu hạn có các cổ đông là các DNNN (27.tr.126).
Tổ chức lại cơ cấu quản lý nội bộ của doanh nghiệp tạo ra sự chủ
động của ngƣời điều hành hoạt động của doanh nghiệp trong việc quyết
định nhân sự của doanh nghiệp.
Chuyển DNNN thành các công ty cổ phần có sở hữu hỗn hợp. Hình
thức này ở Trung Quốc khác Việt Nam ở chỗ, nó thu hút thêm vốn góp từ
bên ngoài vào doanh nghiệp chứ không bán tài sản của Nhà nƣớc.
Trung Quốc cũng đã quy định về công ty TNHH một chủ từ rất
sớm, những công ty này đƣợc gọi là công ty TNHH đặc biệt vì nó chỉ có
một chủ sở hữu duy nhất là Nhà nƣớc (chủ sở hữu là cơ quan đƣợc Nhà
nƣớc uỷ quyền đầu tƣ hoặc ngành đƣợc Nhà nƣớc giao quyền). Hiện nay
Chính phủ Trung Quốc đang thực hiện chuyển đổi phƣơng thức quản lý tài
sản Nhà nƣớc từ các cơ quan chủ quản sang công ty kinh doanh tài sản Nhà
20


nƣớc, công ty này sẽ là đại diện chủ sở hữu Nhà nƣớc tại các doanh nghiệp,
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chủ sở hữu.
Từ kinh nghiệm cải cách DNNN theo hƣớng chuyển DNNN sang
hoạt động theo mô hình công ty mà Nhà nƣớc vẫn nắm giữ 100% sở hữu ở
các nƣớc trên thế giới cho thấy đây là một hƣớng đi đúng, bởi nó đã phân
định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp với tƣ cách là một pháp nhân thực
hiện hoạt động kinh doanh và Nhà nƣớc với tƣ cách là ngƣời đầu tƣ vốn;

tách bạch rõ chức năng quản lý Nhà nƣớc với chức năng quản lý của chủ sở
hữu. Điều này làm tăng thêm tính chủ động trong kinh doanh của doanh
nghiệp, khắc phục sự ỷ lại của doanh nghiệp vào Nhà nƣớc. Đây là xu
hƣớng chung đƣợc hầu hết các nƣớc trên thế giới áp dụng khi tiến hành cải
cách DNNN.
Ở Việt Nam từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ thứ VI, kinh tế
Việt nam chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. DNNN trở thành chủ thể tham
gia vào quan hệ thị trƣờng, chịu sự tác động của thị trƣờng, đồng thời chịu
sự tác động nhất định của Nhà nƣớc. Để DNNN có thể làm tốt vai chủ đạo
trong nền kinh tế Quốc dân thì DNNN rất cần phải đƣợc thay đổi về tổ
chức quản lý, về quan hệ giữa Nhà nƣớc và DNNN, tạo cho DNNN những
đặc điểm của công ty nhằm tăng cƣờng khả năng cạnh tranh cho doanh
nghiệp. Việc thay đổi cách thức tổ chức quản lý, đổi mới quan hệ của chủ
sở hữu với DNNN, khắc phục những hạn chế của cơ cấu tổ chức, cơ chế
quản lý DNNN bằng cách chuyển DNNN sang hoạt động theo mô hình
công ty TNHH một thành viên là rất phù hợp.
Đối với các đơn vị bên trong doanh nghiệp, việc chuyển DNNN
sang hoạt động theo mô hình công ty là nhằm cơ cấu lại nội bộ doanh
nghiệp, tạo ra cơ cấu tổ chức quản lý thích ứng với cơ chế thị trƣờng, đổi
mới đội ngũ cán bộ công nhân viên tạo ra phong cách làm việc phù hợp với
yêu cầu của thị trƣờng, tạo ra động lực bên trong của doanh nghiệp mà
nguồn gốc của nó là xuất phát từ quyền tự chủ và lơị ích của pháp nhân
doanh nghiệp đƣợc tôn trọng.

21


Trong quan hệ giữa DNNN với các doanh nghiệp khác, việc chuyển
DNNN sang hoạt động theo mô hình công ty chính là tạo điều kiện để

DNNN sử dụng quyền của pháp nhân doanh nghiệp, qua đây xác định rõ
hơn tƣ cách pháp nhân của doanh nghiệp, trong đó vấn đề cốt lõi là xác
định quyền tài sản của pháp nhân DNNN, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho
DNNN trong việc tham gia vào các quan hệ kinh doanh. Mục tiêu chính
của vấn đề này là chuyển DNNN từ loại hình kém năng động, phụ thuộc
vào Nhà nƣớc, do các cơ quan Nhà nƣớc trực tiếp can thiệp và quản lý sang
loại hình doanh nghiệp năng động, phản ứng linh hoạt với những tín hiệu
của thị trƣờng mà vẫn do Nhà nƣớc chi phối.
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC CHUYỂN DNNN THÀNH CÔNG TY TNHH MỘT
THÀNH VIÊN.

Việc cải cách DNNN là một công việc cấp bách đã đƣợc tiến hành ở
Việt Nam từ nhiều năm nay, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của DNNN nói riêng và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội Việt
Nam nói chung. Chuyển các DNNN mà Nhà nƣớc vẫn nắm giữ 100% vốn
sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên có ý nghĩa to
lớn trên tất cả các mặt đối với tiến trình cải cách kinh tế nói chung và cải
cách khu vực DNNN nói riêng. Cụ thể là:
1.3.1. Về mặt pháp lý
Mô hình DNNN và công ty TNHH một thành viên đều có chung
một đặc điểm là thuộc sở hữu của một chủ (một tổ chức). Nhƣng đối với
hoạt động của doanh nghiệp, chủ sở hữu các doanh nghiệp này can thiệp
không giống nhau. Điều này có ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp. Các DNNN chƣa có đủ quyền hạn và không
hoàn toàn chịu trách nhiệm về những yếu kém trong kinh doanh (30.tr.38).
Trong khi đó, công ty TNHH một thành viên lại có đƣợc những lợi thế hơn
hẳn DNNN, đó chính là sự chủ động của công ty đối với hoạt động kinh
doanh. Bởi thế, việc chuyển các DNNN sang hoạt động theo mô hình công
ty TNHH một thành viên xét dƣới góc độ pháp lý là rất phù hợp vì các lý do:


22


Thứ nhất: Xác định rõ về tƣ cách pháp nhân của doanh nghiệp.
Công ty TNHH một thành viên đƣợc chuyển đổi từ DNNN là pháp nhân,
có quyền tự chủ (nhân danh mình) tham gia các quan hệ kinh tế, quyết định
các vấn đề kinh doanh của doanh nghiệp nhƣ: đầu tƣ, liên doanh, góp vốn,
mua bán, thanh lý, cầm cố, chuyển nhƣợng tài sản… Những việc này trƣớc
đây do chủ sở hữu can thiệp dƣới nhiều hình thức.
Thứ hai: Có sự chuyển đổi sâu sắc trong quan hệ giữa doanh
nghiệp với Nhà nƣớc. Cụ thể là:
Xác định rõ một tổ chức duy nhất là Chủ sở hữu hoặc đại diện Chủ
sở hữu nên đã giảm sự can thiệp của Nhà nƣớc vào hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Giảm bớt cơ chế xin - cho đối với cơ quan quản lý hay
chủ sở hữu, xóa bao cấp và một số nghĩa vụ xã hội không mang tính kinh
doanh cho doanh nghiệp, doanh nghiệp đƣợc hạch toán kinh doanh theo thị
trƣờng. Nhƣ vậy có nghĩa là vai trò của Nhà nƣớc đối với các DNNN đã
thay đổi căn bản. Từ chỗ đƣợc nhìn nhận và hoạt động nhƣ ngƣời quản lý
điều hành tác nghiệp doanh nghiệp, nay Nhà nƣớc đã chuyển sang vai trò
của ngƣời chủ, ngƣời sở hữu đối với doanh nghiệp. Quá trình chuyển đổi
này đã tạo ra một khoảng cách cần thiết nhất định giữa Nhà nƣớc và doanh
nghiệp, giúp cho Nhà nƣớc quản lý doanh nghiệp đúng vai trò của một
ngƣời chủ, không can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp.
Do sự chuyển đổi này nên Nhà nƣớc sẽ không can thiệp sâu vào
quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, mà đối xử với doanh nghiệp với tƣ
cách là Chủ đầu tƣ vốn vào doanh nghiệp. Ở đây có sự tách bạch giữa Chủ
sở hữu và ngƣời quản lý doanh nghiệp.
Thứ ba: Góp phần đƣa Luật doanh nghiệp trở thành luật chung điều
chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Các DNNN khi chuyển
thành công ty TNHH một thành viên sẽ hoạt động theo Luật doanh nghiệphoạt động trên cùng mặt bằng pháp lý với các doanh nghiệp khác và hoàn

toàn bình đẳng với các doanh nghiệp khác trong kinh doanh. Doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với

23


nhau, đây là động lực thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng
và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Thực tế đã chứng minh: Bất kỳ doanh nghiệp nào dù là quốc doanh
hay tƣ nhân cũng chỉ có thể hoạt động có hiệu quả khi phải đƣơng đầu với
một thị trƣờng cạnh tranh. Các doanh nghiệp sẽ phải phát triển kỹ năng
Marketing của mình, quan tâm chặt chẽ tới chất lƣợng phục vụ, nâng cao
trình độ công nghệ và kiểm soát chi phí... và đƣợc lợi từ hoạt động này là
xã hội và dân cƣ trong xã hội đó.
Thứ tƣ: Về bản chất của việc chuyển đổi DNNN thành công ty
TNHH một thành viên. Khi các DNNN chuyển đổi thành công ty TNHH
một thành viên sẽ không làm thay đổi bản chất sở hữu của doanh nghiệp
mà chỉ làm thay đổi về hình thức pháp lý. Sở hữu của các doanh nghiệp này
vẫn thuộc Nhà nƣớc, nhƣng quyền hạn, nghĩa vụ của doanh nghiệp sau
chuyển đổi sẽ tƣơng tự nhƣ các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh
nghiệp, tổ chức quản lý và hoạt động thực hiện theo Luật Doanh nghiệp, cơ
cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp theo cơ cấu tổ chức quản lý công ty
TNHH một thành viên. Nhƣ vậy có nghĩa là mọi vấn đề liên quan đến tổ
chức, hoạt động của doanh nghiệp Nhà nƣớc sau khi chuyển đổi đƣợc điều
chỉnh bởi Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật về chuyển đổi, Luật
Doanh nghiệp Nhà nƣớc không còn đƣợc áp dụng với doanh nghiệp này.
Đây không chỉ đơn thuần là sự chuyển đổi về hình thức pháp lý của
doanh nghiệp mà là sự thay đổi về chất đối với doanh nghiệp do sự chuyển
đổi hình thức pháp lý và cơ cấu của doanh nghiệp mang lại nhƣ: Có sự
chuyển đổi sâu sắc trong quan hệ giữa Nhà nƣớc với doanh nghiệp, giảm sự

can thiệp của Nhà nƣớc, giới hạn trách nhiệm của Nhà nƣớc, xóa bỏ bao
cấp, loại bỏ những nghĩa vụ xã hội phi kinh tế cho doanh nghiệp. Nhà nƣớc
đối xử với doanh nghiệp với tƣ cách là chủ đầu tƣ vốn vào doanh nghiệp,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp đƣợc quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong hoạt động kinh doanh và bình đẳng với các doanh nghiệp khác, quyền
hạn, trách nhiệm tƣơng tự nhƣ các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp,
nhờ vậy mà nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

24


×