Lời mở đầu
Hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng đi vào chiều
sâu. Và sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn về mọi mặt. Với chủ trương tăng cường hợp tác, làm bạn với tất cả
các nước, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, vì vậy Việt Nam đã gia nhập
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tham gia diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu
Á – Thái Bình Dương (APEC), diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Tham gia vào các tổ chức này có nghĩa Việt Nam phải
thực hiện hàng loạt các cam kết mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan, điều này đem
lại không ít khó khăn cho Việt Nam khi nền kinh tế còn đang non yếu, cơ chế thị
trường chưa hoàn chỉnh, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn kém. Để không
bị tụt hậu chúng ta phải chọn con đường hội nhập.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, không phải Việt Nam hội nhập kinh tế
quốc tế bằng mọi giá. Tham gia nền kinh tế toàn cầu đồng nghĩa với việc các quốc
gia phải tính toán, cân nhắc mọi chính sách trên cơ sở lợi ích tối đa. Điều đó càng có
ý nghĩa với nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
như Việt Nam. Vì vậy, để công ty nhà nước (CTNN) thực hiện được vai trò “chủ
lực” trong hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần phải xây dựng một lộ trình chuyển
đổi cho các CTNN. Có rất nhiều hình thức mà CTNN có thể chuyển đổi sang như:
công ty cổ phần, công ty TNHH v.v.. Trong đó, Nhà nước ta rất chú trọng việc
chuyển đổi từ CTNN sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
(CTTNHH một thành viên).
Nội Dung
I. Khái quát về CTNN và CTTNHH một thành viên.
1. Khái niệm Công ty nhà nước.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật DNNN năm 2003:
“CTNN là DNNN sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức, quản lý,
đăng ký hoạt động theo quy định của luật này”.
Theo đó, CTNN có những đặc trưng pháp lý là:
Thứ nhất, CTNN là tổ chức kinh tế của Nhà nước, là một trong những cơ sở
kinh tế của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện chức năng kinh tế nhà nước. Chúng
vừa thực hiện chức năng kinh tế vừa thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ xã hội. Các mục
tiêu, nhiệm vụ xã hội này tùy theo từng điều kiện hoàn cảnh lịch sử mà Nhà nước
giao khác nhau. Nhà nước thông qua CTNN để tác động đến nền kinh tế thị trường
theo hướng có lợi phuccj vụ cho các định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước.
Thứ hai, CTNN do Nhà nước trực tiếp đầu tư vốn, thành lập, tổ chức quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh và công ích. Phần vốn Nhà nước đầu tư từ ngân sách
hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, tài sản trong CTNN là tài sản của Nhà
nước. Tuy nhiên, Nhà nước là một thiết chế do vậy, giao cho nhiều cơ quan khác
nhau thực hiện quyền sở hữu của CTNN đã dẫn tới hậu quả là tạo ra một khối lượng
khổng lồ các CTNN và một cơ chế chồng chéo, kìm hãm phát triển doanh nghiệp.
Thứ ba, CTNN là một pháp nhân, có tư cách pháp lý độc lập, với cơ cấu tổ
chức chặt chẽ. CTNN tiến hành sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm bằng tài sản
hiện có, do vậy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cần sớm được xác định và mở
rộng cho CTNN.
Như vậy, tuy CTNN là một phần trong hệ thống DNNN, nhưng có thể phân
biệt được CTNN với DNNN. Nội hàm khái niệm của CTNN đã thu hẹp lại, không
còn đồng nhất với khái niệm DNNN như trước đây. DNNN là một khái niệm rộng
bao gồm các DNNN đầu tư toàn bộ vốn điều lệ hay có cổ phần, vốn góp chi phối.
CTNN là một dạng đặc biệt của DNNN.
2. Vai trò của công ty nhà nước.
Việc xác định vị trí, vai trò của CTNN trong nền kinh tế là tùy thuộc vào mỗi
quốc gia và từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Từ các quan điểm của Đảng, Nhà nước và
thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta, có thể thấy CTNN có những vai trò quan trọng
sau:
Một là, CTNN là một trong những công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất
để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm rõ lực lượng nòng cốt để hướng nền
kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Đây không chỉ là vai trò kinh tế mà còn là
vai trò chính trị đặc biệt quan trọng của DNNN nói chung và CTNN nói riêng.
Hai là, CTNN là một trong những bảo đảm cho điều kiện phát triển, hững cân
đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Ba là, Hệ thống CTNN góp phần quan trọng khắc phục những khuyết điểm
của cơ chế thị trường. Do đó, CTNN được thành lập nhằm đầu tư vào những ngành,
lĩnh vực, địa bàn là những nơi, khu vực thiết yếu, quan trọng song song các thành
phần kinh tế khác không muốn đầu tư, không thể đầu tư hoặc không đủ khả năng
tham gia. Như việc đầu tư, sản xuất phát triển các tỉnh miền núi…
Bốn là, CTNN là lực lượng xung kích trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm
bảo sự tuân thủ pháp luật, đi đầu và góp phần đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa
học – công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Năm là, CTNN góp phần quan trọng vào việc tích lũy, đóng góp cho ngân
sách nhà nước.
Sáu là, CTNN góp phần không nhỏ trong việc đảm nhận những trách nhiệm
xã hội như: giải quyết việc làm cho người lao động; nhất là các nhóm xã hội dễ bị
tổn thương; phát triển những vùng khó khăn, kém phát triển; cung cấp dịch vụ bảo
đảm các mục tiêu xã hội v.v..
Bảy là, Trong điều kiện hiện nay, CTNN còn được Nhà nước sử dụng như
những yếu tố mang tính hạt nhân, nòng cốt trong việc liên doanh, liên kết làm đối
trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Qua đó, vừa chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, vừa bảo đảm định hướng XHCN cho nền kinh tế.
3. Tính tất yếu của việc chuyển đổi CTNN.
3.1. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi.
3.1.1. Cơ sở lý luận.
Đối với Việt Nam từ trước đến nay, khu vực kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò
“chủ đạo” trong nền kinh tế quốc dân, là trụ cột của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt
trong thời kỳ tồn tại cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Chuyển sang cơ chế thị trường,
việc làm thế nào để các CTNN vốn hình thành trong nền kinh tế kế hoạch trước kia
có thể tiếp tục tồn tại và phát triển đã trở thành một vấn đề cấp bách cần phải giải
quyết. Bước sang thời kỳ mới kinh tế ngoài quốc doanh trong nước phát triển mạnh
mẽ, các CTNN dần mất vị trí độc quyền trong các ngành nghề lĩnh vực. Các CTNN
lúc này không những phải đương đầu với các thành phần kinh tế khác trong nước mà
còn phải đương đầu cạnh tranh với hàng hóa và kỹ thuật nước ngoài. Cải cách CTNN
trong bối cảnh đó được coi là khâu trung tâm để xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, Đảng và
Nhà nước thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao
hiệu quả của CTNN. Nhưng các CTNN vẫn còn tồn tại những mạt hạn chế yếu kém
nhất định như: quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa tập trung vào ngành
lĩnh vực then chốt; trình độ công nghệ còn lạc hậu; quản lý còn yếu kém; chưa thực
sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, kết quả sản xuất kinh
doanh chưa tương xứng với sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước; v.v..
3.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Như đã phân tích ở trên, qua một thời gian Đảng và Nhà nước cũng đã có
những điều chỉnh với khối CTNN cho phù hợp với nền kinh tế thị trường. Tuy đã đạt
được một số kết quả nhất định, nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường thì sự chuyển
biến như vậy là chưa đủ. Với sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh,
của hoạt động đàu tư nước ngoài tại Việt Nam thì CTNN đã gặp khó khăn và bộc lộ
những hạn chế của nó. Đặt ra việc chuyển đổi loại hình thức của CTNN sẽ tìm ra giải
pháp mới cho vấn đề sản xuất kinh doanh của CTNN. Từ đó, giúp nó hoạt động hiệu
quả hơn, khẳng định được vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế hướng tới xây
dựng nó theo mô hình kinh tế hiện đại là hết sức cần thiết.
Mặt khác, Việt Nam đã gia nhập ASEAN, APEC, ASEM, WTO, nhưng việc
gì cũng có hai mặt của nó. Việc tham gia các tổ chức đã và sẽ đặt ra những thời cơ
cũng như thách thức trong việc thực hiện thể chế kinh tế vủa nước ta. Đặc biệt đối
với WTO, để có thể tận dụng được hết những điều kiện thuận lợi khi đã trở thành
thành viên của WTO, Việt Nam cần phải hiểu các nguyên tắc, thủ tục gia nhập
WTO, cũng như những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam sẽ gặp phải trong quá
trình gia nhập của mình, để từ đó đưa ra những đối sách thích hợp. Một trong những
yêu cầu quan trọng là Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách hệ thống pháp luật và đổi
mới quản lý Nhà nước bằng pháp luật, với nền kinh tế theo hướng minh bạch, bình
đẳng. Trong đó, có vấn đề về chuyển đổi khối CTNN.
Mặc dù, các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế, trong đó có WTO không
quy định việc điều chỉnh cơ cấu, phạm vi CTNN đối với các thành viên gia nhập,
nhưng việc tạo ra một “sân chơi công bằng” trong sản xuất và kinh doanh cho xí
nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân là một trong những vấn đề mà WTO và
các thành viên hết sức quan tâm.
Điều XVII Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) quy định: “
Các quốc gia phải cam kết rằng nếu muốn thành lập DNNN, cho dù đặt ở đâu, hay
trao cho bất cứ doanh nghiệp nào những ưu đãi dù là hình thức hay thực tế thì các
doanh nghiệp đó trong các hoạt động mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu phải ứng
xử phù hợp với các nguyên tắc không phân biệt đối xử được thỏa thuận này quy định
với các biện pháp của Chính phủ áp dụng với các nhà xuất nhập khẩu tư nhân”.
Từ quy định trên cho thấy, yêu cầu đối với các nước gia nhập WTO là phải
bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử giữa các DNNN
và công ty tư nhân, giữa các CTNN với các công ty nước ngoài trong hoạt động kinh
doanh. Ngoài ra, các thành viên còn phải cam kết giảm dần vai trò của các DNNN,
còn đối với một số lĩnh vực cần phải giữ lại sự độc quyền của Nhà nước thì phải xác
định lộ trình bãi bỏ và phải thông báo với các thành viên của WTO. Có thể thấy, đây
chính là một trong các yêu cầu khách quan của việc chuyển đổi từ mô hình DNNN
nói chung hay CTNN nói riêng.
Do đó, việc cải cách kinh tế là yêu cầu bắt buộc. Trong đó, yêu cầu cải cách
toàn diện khối CTNN cả về cơ cấu và cơ chế quản lý để nâng cao khả năng cạnh
tranh trước hết là trong nước và cao hơn là trên trường quốc tế.
3.2. Tính chủ quan của việc chuyển đổi CTNN.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước quản lý các hoạt
động doanh nghiệp nói chung, CTNN nói riêng bằng các công cụ quản lý vĩ mô như
pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế v.v.. Do đó,
việc chuyển đổi hình thức CTNN ở nước ta còn xuất phát từ nội tại phát triển nền
kinh tế ở nước ta. Nó thể hiện ở những khía cạnh:
- Đây là phương thức hữu hiệu nhất để tách bạch hoạt động quản lý nhà nước
và hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các CTNN.
- Việc chuyển đổi CTNN là phân biệt quan trọng nhằm xác lập địa vị pháp lý
của CTNN nói riêng và DNNN nói chung trong nền kinh tế, đồng thời quy định các
quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ sở hữu nhà nước đối với CTNN.
- Việc chuyển đổi các CTNN góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
CTNN, từ đó đưa hệ thống DNNN chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo
vệ lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
4. Đặc điểm của công ty TNHH một thành viên.
Với việc chọn công ty TNHH một thành viên là một hình thức chuyển đổi
xuất phát từ các ưu thế của công ty TNHH một thành viên (theo quy định tại LDN
năm 2005). Đó là:
Một là, Công ty do một tổ chức hay một cá nhân là chủ sở hữu (được gọi là
chủ sở hữu công ty), không có quyền phát hành cổ phiếu, chủ sở hữu công ty không
được rút một phần hoặc toàn bộ vốn đã góp và công ty mà chỉ có quyền rút vốn bằng
cách chuyển nhượng một phần hay toàn bộ số vốn cho tổ chức, cá nhân khác; chủ sở
hữu không được rút lợi nhuận khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả; chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Hai là, cơ cầu tổ chức của công ty được tổ chức theo một trong hai mô hình
sau (tùy thuộc vào quy mô và ngành nghề kinh doanh):
- Mô hình: Hội đồng thành viên và Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm soát
viên.
- Mô hình: Chủ tịch công ty và Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm soát viên.
Quyền hạn của Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc (Giám
đốc), Kiểm soát viên do điều lệ công ty quy định căn cứ vào LDN (2005) và các quy
định khác có liên quan.
Ba là, quyền và nghĩa vụ của CTTNHH tương tự như các loại hình doanh
nghiệp khác là đối tượng của LDN 2005 (công ty cổ phần, CTTNHH hai thành viên
trở lên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân). Nhìn chung quyền của công ty
được mở rộng hơn so với CTNN, nhất là về quyền sử dụng, định đoạt tài sản của
công ty, quyền quyết định các dự án đầu tư hay bán tài sản có giá trị trên 50% tổng
giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty.
Cuối cùng, đặc điểm quan trọng và là đặc điểm khác biệt về chủ sở hữu của
CTTNHH một thành viên so với CTNN là công ty chỉ có một tổ chức hay một cá
nhân làm chủ sở hữu đối với nó, thay vì nhiều cơ quan tổ chức cùng thực hiện chức
năng đại diện chủ sở hữu.
Chính vì CTTNHH một thành viên mang những đặc điểm như vậy nên việc
chuyển đổi CTNN sang CTTNHH một thành viên chính là thực hiện tổng thể các
biện pháp nhằm tạo môi trường và điều kiện để các CTNN chuyển đổi có các đặc
điểm đó. Đây sẽ là một quá trình thực hiện gồm những nội dung theo một trình tự thủ
tục nhất định, trong đó không chỉ bao gồm nhứng thủ tục hành chính – pháp lý mà