Chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước sang
Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
ở Việt Nam hiện nay
Ngô Thị Ngọc Hương
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về các quy định của
pháp luật về vấn đề chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. Nghiên
cứu thực trạng pháp luật về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên:
Trình tự, thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên; tổ chức
quản lý DNNN sang công ty TNHH một thành viên sau chuyển đổi; quyền lợi của
người lao động khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên; thực tiễn
chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. Đưa ra kiến nghị nhằm đem
lại hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi sang công ty TNHH một
thành viên và phương hướng tiếp theo sau chuyển đổi.
Keywords. Luật kinh tế; Chuyển đổi doanh nghiệp; Doanh nghiệp nhà nước; Công
ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Pháp luật Việt Nam
Content
MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Từ sau khi giành được độc lập, nền kinh tế nước ta bị tàn phá nặng nề, đất nước rơi vào
tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Trong suốt thời gian dài nước ta đã áp dụng mô hình kinh tế kế
hoạch tập chung mang tính bao cấp. Không thể phủ nhận trong thời gian đầu khi đất nước
vẫn còn trong thời chiến, mô hình kinh tế này đã phát huy tác dụng và mang lại những hiệu
quả nhất định. Tuy nhiên, sau khi kết thúc chiến tranh thì mô hình này lại trở nên lạc hậu và
cản trở sự phát triển của kinh tế, chính vì vậy nước ta đã rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm
trọng vào cuối những năm bảy mươi đầu những năm tám mươi của thế kỷ hai mươi. Để đưa
đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng tại Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12
năm 1986) đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước toàn diện. Đại hội đã đưa ra những quan
niệm mới về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa
nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường. Đại hội chủ trương phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp. Tuy nhiên, phải trải
qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trải qua nhiều kỳ Đại
hội Đảng thì cụm từ “kinh tế thị trường” mới chính thức được Đại hội IX của Đảng (tháng 04
năm 2001) đề cập đến, tại Đại hội đã khẳng định việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt
thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa thì thành phần kinh tế Nhà nước được xem là đóng vai trò chủ đạo, định
hướng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong những năm trước đây thành phần
kinh tế nhà nước đã phần nào thực hiện được nhiệm vụ cũng như mục tiêu phát triển của
mình. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan nhất trong giai đoạn đổi mới đất nước, mặc
dù đã nhận được nhiều ưu đãi, đặc quyền, nhưng thành phần kinh tế này vẫn chưa phát huy
hết được lợi thế của mình điều đó được thể hiện qua hoạt động của các DNNN, nhiều doanh
nghiệp làm ăn không hiệu quả, thua lỗ nặng nề. Đứng trước yêu cầu của phát triển cũng như
nhu cầu của hội nhập. Đảng và Nhà nước ta cũng đã đưa ra nhiều giải pháp cải cách, đổi mới
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, cũng như tạo ra những cơ sở pháp lý bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số giải pháp được đề ra như: Đối với những DNNN
hoạt động trong các ngành nghề, lĩnh vực mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn điều lệ thì
tiến hành Cổ phần hóa, bán toàn bộ hoặc một phần DNNN, giao DNNN cho tập thể người lao
động để chuyển thành Công ty Cổ phần hoặc Hợp tác xã; Đối với những DNNN thuộc ngành,
lĩnh vực, địa bàn mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ thì chuyển sang hình thức công
ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong các giải pháp trên thì việc chuyển DNNN
sang công ty TNHH một thành viên là một trong những giải pháp quan trọng và cần thiết
trong việc đổi mới DNNN. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 thì các DNNN phải
tiến hành chuyển đổi trước ngày 01 tháng 07 năm 2010, nhận thức được vai trò quan trọng
của công cuộc chuyển đổi mà Nhà nước đã ban hành rất nhiều Văn bản pháp luật quy định về
vấn đề này và cũng có rất nhiều bài viết liên quan đến việc chuyển đổi tuy nhiên các bài viết
chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nhất định. Trên thực tế, mặc dù việc chuyển đổi đã xong tuy
nhiên những vấn đề tồn tại của các doanh nghiệp sau chuyển đổi đang còn nhiều vì vậy tôi
chọn đề tài “Chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nước sang công ty Trách nhiệm hữu hạn một
thành viên ở Việt Nam hiện nay” nhằm nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến vấn
đề này để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2- Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về các quy định của
pháp luật về vấn đề chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên, đánh giá hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp sau chuyên đổi cũng như việc thực hiện chức năng, vai trò
của doanh nghiệp đối với nền kinh tế, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm đem lại hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp sau chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên và phương hướng
tiếp theo sau chuyển đổi.
3- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập chung nghiên cứu các quy định của pháp luật trong quá trình chuyển đổi
DNNN sang công ty TNHH một thành viên để từ đó đưa ra một số kiến nghị cho hoạt động
của DNNN sau khi chuyển đổi nhằm đem lại hiệu quả hơn cho hoạt động của các công ty.
4- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đó là:
Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các văn bản pháp luật trước đây cũng như hiện
hành nhằm thấy được những ưu điểm cũng như hạn chế trong các văn bản pháp luật
Phương pháp phân tích tổng hợp: phân tích các quy định được dẫn giải trong các văn
bản pháp luật, tổng hợp các quy định của pháp luật quy định liên quan đến hoạt động chuyển
đổi và sau chuyển đổi để có được cái nhìn khái quát nhất.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp duy vật lịch sử
để xem xét quá trình chuyển đổi và bản chất của chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một
thành viên
5- Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận thì luận văn được kết cấu làm 3 chương lớn:
Chương 1- Khái quát chung về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên.
Chương 2- Thực trạng pháp luật về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành
viên.
Chương 3- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động của các DNNN sau khi
chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên.
Chương 1- Khái quát chung về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên:
1.1- Quan niệm về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên .
Chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên là một quá trình thay đổi về
mặt nội dung cũng như hình thức trong các DNNN. Trong đó thay đổi cơ bản nhất là thay đổi
về khung pháp lý, theo đó DNNN trở thành những doanh nghiệp có địa vị pháp lý như những
doanh nghiệp dân doanh khác, hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 và
không còn được nhận những ưu tiên từ phía Nhà nước trong quá trình hoạt động đầu tư và
kinh doanh. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn đầu tư, doanh nghiệp tự
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình mà cơ quan nhà nước không chịu trách nhiệm
thay cho doanh nghiệp. Có thể nói đây là một quá trình “công ty hóa” các DNNN, về bản
chất pháp lý thì khi đó DNNN mới thực sự là công ty.
1.2-Sự cần thiết của việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên
Về mặt pháp lý thì theo quy định tại điều 166, Luật doanh nghiệp 2005 thì chậm nhất là
trong thời hạn bốn năm kể từ ngày Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực (tức là ngày
01/7/2006) các công ty Nhà nước thành lập theo Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 phải
chuyển đổi thành công ty TNNN hoặc công ty cổ phần theo quy định của luật doanh nghiệp
năm 2005. Như vậy, thời hạn 01/7/2010 là thời hạn mà Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003
hết hiệu lực pháp luật, việc chuyển đổi tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các DNNN
Về mặt kinh tế thì với việc chuyển đổi những DNNN mà nhà nước cần nắm giữ 100%
vốn sang công ty TNHH một thành viên nhằm mục đích đổi mới tổ chức quản lý, cơ chế hoạt
động, tạo ra sự bình đẳng trong đầu tư kinh doanh với các loại hình doanh nghiệp khác.
DNNN trở thành một thực thể kinh tế độc lập, có quyền tự chủ trong kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy, DNNN sẽ hoạt động có hiệu quả
hơn mà không phải phụ thuộc vào các mệnh lệnh hành chính. DNNN có vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân khi mà nắm giữ một lượng tài sản khổng lồ của đất nước, nguồn
nhân lực có trình độ cao, việc hoạt động có hiệu quả hay không của DNNN có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của đất nước. Hơn nữa, bước vào xu hướng hội nhập kinh tế quốc
tế bằng việc gia nhập WTO thì Việt Nam phải tạo nên một “sân chơi” bình đẳng cho các
doanh nghiệp đó là một yêu cầu chung, như vậy việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH
một thành viên là một việc làm cần thiết.
1.3- Quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên
Việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên là là một nhiệm vụ vô
cùng quan trọng nhưng đồng thời nó cũng là nhiệm vụ rất khó khăn trong quá trình phát triển
kinh tế-xã hội của nước ta, bằng chứng là nó đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước, hàng loạt các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này đã được ban hành tạo
ra cơ sở pháp lý cho quá trình chuyển đổi. Tiêu biểu phải kể đến một số Nghị định cụ thể:
Ngày 14/09/2001 Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2001/NĐ-CP về chuyển đổi DNNN,
doanh nghiệp tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội thành Công ty TNHH một thành. Sau
một thời gian thực hiện thì nghị định số 95/2006/NĐ-CP (08/9/2006) của Chính phủ về
chuyển đổi Công ty Nhà nước thành Công ty TNHH một thành ra đời thay thế Nghị định
63/2001/NĐ-CP. Và để hoàn thành công việc chuyển đổi thì nghị định số 25/2010/NĐ-CP
(19/3/2010) về chuyển đổi công ty Nhà nước thành Công ty TNHH một thành viên và tổ chức
quản lý Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu được ban hành thay thế
các nghị định truớc đó về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. Sự ra đời
của Nghị định 25/2010/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra những quy định mới, tạo sự thuận
tiện, dễ dàng hơn cho các DNNN trong quá trình chuyển đổi sang công ty TNHH một thành
viên, nhằm thực hiện đúng với lộ trình chuyển đổi mà Luật doanh nghiệp đã quy định và phù
hợp với cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của nước ta.
Chương 2- Thực trạng pháp luật về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành
viên
2.1- Trình tự, thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên:
Chuyển đổi DNNN sang Công ty TNHH một thành viên là một việc làm cần thiết trong
nền kinh tế thị trường cũng như trong việc hội nhập kinh tế quốc tế, chính vì vậy như phần
trên đã nói, có rất nhiều văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho quá trình chuyển đổi. Vì
vậy, việc chuyển đổi phải tuân theo trình tự thủ tục theo luật định.
2.1.1- Đối tượng chuyển đổi
2.1.2- Chủ sở hữu
2.1.3- Điều kiện chuyển đổi
2.1.4- Thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên
2.2 Tổ chức quản lý DNNN sang công ty TNHH một thành viên sau chuyển đổi:
2.2.1- Tổ chức quản lý công ty theo mô hình Hội đồng thành viên:
Chủ sở hữu công ty quyết định áp dụng cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình Hội đồng
thành viên. Hội đồng thành viên nhân danh chủ sở hữu công ty tổ chức thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty; có quyền nhân danh công ty thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của công ty; chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu công ty về việc thực
hiện các quyền và nhiệm vụ được giao theo quy định của Luật doanh nghiệp và pháp luật có
liên quan.
2.2.2 Tổ chức quản lý công ty theo mô hình Chủ tịch công ty:
Chủ tịch công ty do chủ sở hữu công ty bổ nhiệm với nhiệm kỳ không quá 05 năm; có
thể được bổ nhiệm lại hoặc thay thế. Chủ tịch công ty có thể kiêm Tổng giám đốc công ty.
Điều lệ công ty quy định Chủ tịch công ty hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp
luật của công ty.
2.3 Quyền lợi của người lao động khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành
viên
Khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên thì có rất nhiều đối tượng
chịu ảnh hưởng trong đó chịu ảnh hưởng trực tiếp là người lao động. Do vậy, để đảm bảo
quyền lợi của người lao động Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp
lý cho người lao động khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên.
2.4 Thực tiễn chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên
2.4.1 Những kết quả đạt được trong quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một
thành viên:
Có thể nói việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên là một bước
trong quá trình đổi mới DNNN, một giải pháp trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế quốc
gia.
Trong thời gian qua, hệ thống pháp lý tạo điều kiện cho việc đổi mới DNNN đã đạt
được những kết quả nhất định đó là:
Thiết lập một hệ thống khung pháp lý tương đối đồng bộ theo hướng tạo môi trường bình
đẳng, không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giảm thiểu các thủ tục khi gia nhập thị
trường; hoàn thiện tổ chức quản lý, quản trị doanh nghiệp. Đã xây dựng và phê duyệt các đề
án tổng thế sắp xếp, đổi mới DNNN phù hợp với vai trò của khu vực nhà nước trong cơ chế
thị trường làm cơ sở cho các Bộ ngành, địa phương thực hiện được tốt hơn.
Báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp cho biết, hiệu quả hoạt
động, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước được nâng lên; cơ bản đáp ứng được
nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng, an ninh; là một trong những công cụ quan trọng để Nhà
nước điều tiết vĩ mô. Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã xây dựng được đội ngũ lao
động kỹ thuật với trình độ tay nghề cao; góp phần quan trọng xây dựng các kết cấu hạ tầng
kinh tế-xã hội, các dự án trọng điểm của Nhà nước phục vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội dài hạn của đất nước, những dự án lớn hoặc có ý nghĩa chính trị và hiệu quả xã hội lớn
mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không làm hoặc không đủ khả năng
làm. Năng lực, trình độ của nhiều cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ,
công nhân kỹ thuật được nâng lên, chuyên nghiệp hơn. Mô hình tổ chức và phương thức lãnh
đạo của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước được đổi mới phù hợp hơn với điều kiện
doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường; tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước
đóng góp thiết thực vào hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bảo
đảm quyền lợi hợp pháp, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên đã hoàn thành, các DNNN
đã chuyển sang công ty TNHH một thành viên hoặc chuyển sang một hình thức khác, về cơ
bản chúng ta đã thực hiện theo đúng lộ trình đưa ra. Từ đây, các doanh nghiệp không phân
biệt công hay tư đều vận hành theo một khuôn khổ pháp lý chung, bình đẳng, không có sự
phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp, từ đó tạo cơ sở cho DNNN hoạt động có hiệu quả
hơn, xứng đáng với vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
2.4.2 Những mặt hạn chế của DNNN sau khi chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên
Thứ nhất, sự ra đời của Nghị định 25/2010/NĐ-CP đã cụ thể hóa những quy định về
chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. Đây là một sự kiện được rất nhiểu
người quan tâm, với nhiều ý kiến khác nhau, liệu DNNN có chuyển đổi đúng hạn và sau
chuyển đổi hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp sẽ như thế nào? liệu có phải tình trạng
“bình mới rượu cũ ” hay “chỉ là thay áo khoác bề ngoài” mà thôi?…và còn nhiều câu hỏi
tương tự như vậy. Tuy nhiên, cho đến nay trong Báo cáo của ban chỉ đạo đổi mới và phát
triển doanh nghiệp thì việc chuyển đổi đã hoàn thành, các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước
đã chuyển sang công ty TNHH một thành viên. Và sau một thời gian rầm rộ, thì câu chuyện
chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên đã được lắng xuống. Mặc dù vậy,
không phải chúng ta đã hoàn toàn thành công, đã làm được những điều tưởng chừng như
không thể, bởi đây chỉ là một điểm “dừng chân” của con tàu DNNN trên con đường hội nhập
vào sân chơi chung cùng các loại hình doanh nghiệp khác mà thôi. Sau khi chuyển đổi sang
công ty TNHH một thành viên, về cơ bản doanh nghiệp chưa có sự thay đổi đáng kể nào về
quản trị doanh nghiệp, điểu này có thể lý giải bởi vì thời gian chuyển đổi là gấp gáp khi mà
thời hạn chuyển đổi đã đến thì các doanh nghiệp mới tiến hành chuyển đổi, mà thực tế là từ
sau khi Nghị định 25/2010/NĐ-CP ra đời thì công cuộc chuyển đổi mới thực sự có sự chuyển
biến, chính vì vậy việc chuyển đổi mới chỉ là “thay tên, đổi họ”, là hình thức bên ngoài mà
thôi.
Thứ hai, chưa có sự rõ ràng về chủ sở hữu công ty, tại Điều 3 Nghị định 25/2010/NĐ-
CP quy định "Nhà nước là chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
mình nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ. Chính phủ thống nhất tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ toàn bộ vốn điều
lệ". Tuy nhiên, Nhà nước lại là một danh từ chung, một phạm trù rộng lớn, trừu tượng và nó
không chỉ đích danh là ai. Vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu vẫn không được xác định
cụ thể. Nghị định 25/2010/NĐ-CP cũng quy định: "Mỗi công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên được chuyển đổi từ công ty nhà nước hoặc thành lập mới chỉ do một tổ chức được
phân công, phân cấp dưới đây thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu (sau đây gọi
tắt là chủ sở hữu)…". Và các tổ chức đó là: Thủ tướng Chính phủ hoặc một tổ chức chuyên
trách được Chính phủ phân công; Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); Công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ –
công ty con, công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước và Tổng công ty Đầu tư và Kinh
doanh vốn nhà nước trong một số trường hợp. Như vậy, so với trước thì việc xác định chủ sở
hữu vẫn chưa rõ ràng, các cơ quan quản lý quản lý hành chính vẫn là chủ sở hữu của các
doanh nghiệp kinh doanh, liệu rằng hoạt động kinh doanh của công ty có vận hành được tốt
hay không, trong khi việc kinh doanh hằng ngày của công ty liên quan đến nhiều vấn đề từ
kinh tế, lao động kỹ thuật, đất đai, tập quán quốc tế…mặt khác, kinh doanh phải tính đến yếu
tố năng động, nhanh chóng nắm bắt được cơ hội kinh doanh mà cứ chờ xin ý kiến của chủ sở
hữu doanh nghiệp cũng đồng thời đang kiêm nhiệm chức danh quản lý hành chính Nhà nước
theo quy định thì thời cơ có lẽ sẽ vụt mất trong khi nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước
đang ngày càng năng động phát triển. Còn trong trường hợp chủ sở hữu không phải là cơ
quan quản lý hành chính Nhà nước mà là công ty mẹ hoặc là Tổng công ty Đầu tư và Kinh
doanh vốn Nhà nước thì liệu rằng họ có dám “cho ý kiến” hay không khi mà nguồn vốn của
Nhà nước lại thuộc sự quản lý của các cơ quan Nhà nước mà chính họ cũng chịu sự quản lý,
nếu giả sử ý kiến họ đưa ra là kịp thời, nhanh chóng nhưng việc kinh doanh lại gặp rủi ro,
thua lỗ thì họ lại phải chịu trách nhiệm về “cố ý làm trái, gây hậu quả nghiêm trọng”, còn để
tránh bị chịu trách nhiệm họ lại phải đi “xin ý kiến” cấp trên, vậy vẫn phải lòng vòng trong cơ
chế xin cho, mà điều này lại không phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, một vấn đề nữa đó là sau khi chuyển đổi nhiều doanh nghiệp sẽ có tâm lý yên
tâm và “dậm chân tại chỗ” hay chây ỳ mà không thực hiện các công việc cho việc thực hiện
cổ phần hóa doanh nghiệp, bởi việc chuyển đổi sang công ty TNHH Nhà nước một thành
viên chỉ là tạm thời chứ không phải là trạm dừng chân vô thời hạn của các doanh nghiệp.
Chính vì vậy Nhà nước phải có những chế tài cứng rắn để các doanh nghiệp thực hiện cổ
phần hóa theo đúng lộ trình Nhà nước đã đưa ra.
Như vậy, có thể thấy về cơ bản chúng ta đã chuyển đổi các doanh nghiệp 100% vốn
Nhà nước sang công ty TNHH một thành viên, đã tạo nên một khung khổ pháp lý chung cho
các loại hình doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu tăng hiệu quả hoạt động cho các doanh
nghiệp có vốn sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên, không phải chuyển đổi xong là chúng ta đã hoàn
thành mọi công việc mà sau chuyển đổi cũng còn có rất nhiều vấn đề cần phải quan tâm.
Trong đó chúng ta cần phải xậy dựng được một khuôn khổ pháp luật hoàn thiện để cho hoạt
động các doanh nghiệp được thuận lợi hơn.
Chương 3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động của các DNNN sau khi
chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên:
3.1 Một số nhận xét về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên
Đến thời điểm này việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên đã hoàn
thành, DNNN tuy đã giảm về số lượng nhưng trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng thì
mạnh lên, quy mô vốn tăng, hiệu quả hoạt động tốt hơn. Về cơ bản DNNN thực hiện được vai
trò là lực lượng nòng cốt, có vị trí then chốt, làm công cụ vật chất để Nhà nước định hướng
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo
nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong hoạt động
của mình DNNN vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhiều DNNN đầu tư dàn trải, việc phát triển một số ngành nghề mới không liên quan
đến ngành nghề chính của doanh nghiệp dẫn đến phân tán nguồn vốn đã ít và chứa đựng thêm
nhiều rủi trong kinh doanh, trình độ công nghệ, năng suất lao động của nhiều doanh nghiệp
còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và tương xứng với đầu tư của
Nhà nước.
Sau khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên thì tất nhiên hàng loạt
các văn bản pháp luật sẽ hết hiệu lực, chính vì vậy cần phải có một hệ thống pháp luật mới
đảm bảo sự đồng thuận thống nhất trong các quy định, ví dụ Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội đã ban hành thông tư số 12/2011/TT-BLĐTBXH ngày 26 tháng 04 năm 2011 hướng dẫn
thực hiện mức lương tối thiểu chung đối với công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu, Thông tư ra đời đảm bảo sự thống nhất trong việc quản lý lao động, tiền lương,
thưởng sau chuyển đổi, bởi vì trước đó có sự khác biệt nhất định về vấn đề này tại các công
ty TNHH một thành viên là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước và các công ty TNHH
một thành viên khác.
Để việc đổi mới DNNN thật sự có ý nghĩa và nâng cao hoạt động kinh doanh của
DNNN thì cần tới sự thay đổi, đồng thuận từ nhiều phía khác nhau, một trong những thay đổi
quan trọng đó là các quy định của pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều
kiện mới.
3.2 Một số kiến nghị cụ thể về hoạt động của DNNN sau chuyển đổi sang công ty TNHH
một thành viên
3.2.1 Về các quy định của pháp luật về hoạt động của DNNN sau khi chuyển đổi sang công ty
TNHH một thành viên:
Cần đảm bảo sự đồng bộ giữa các văn bản pháp luật khác so với Nghị định
25/2010/NĐ-CP và vị thế của công ty TNHH một thành viên sau chuyển đổi.
Thực tế khi chuyển đổi các công ty đa số đều lựa chọn mô hình Chủ tịch công ty và hầu
hết Chủ tịch công ty và Tổng giám đốc là kiêm nhiệm với lý do thói quen trong quản lý, điều
hành hoặc viện lý do tránh chồng chéo dễ gây mâu thuẫn, mất đoàn kết. Vì vậy, cần có những
quy định pháp luật rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng thành
viên hoặc Chủ tịch công ty với Tổng giám đốc nhằm hạn chế việc tập chung quyền lực về
một người mà không chú trọng giám sát dẫn đến những vi phạm nguyên tắc quản trị doanh
nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường và khi rủi ro tới lại mới xử lý trong khi thiếu cơ chế
giám sát, phòng ngừa.
Về kiểm soát viên: Kiểm soát viên là những người có vai trò quan trọng gắn với chủ sở
hữu, giúp chủ sở hữu kiểm soát được tình hình tổ chức, thực hiện quyền chủ sở hữu trong
quản lý, điều hành công ty. Việc bổ nhiệm, lựa chọn, thực thi nhiệm vụ, tăng cường năng lực
của các kiểm soát viên, tách riêng nguồn trả lương, thưởng; cơ chế động lực, trách nhiệm của
kiểm soát viên là những vấn đề quan trọng đối với công ty TNHH một thành viên, nó ảnh
hưởng đến tính đổi mới, sự khác biệt, sức sống của mô hình công ty TNHH một thành viên so
với DNNN trước đây. Chính vì vậy cần có những quy định pháp luật hết sức chặt chẽ về việc
lựa chọn, bổ nhiệm cũng như trách nhiệm của kiểm soát viên đối với công ty TNHH một
thành viên phải ban hành quy chế hoạt động của kiểm soát viên.
Quy định về chủ sở hữu của doanh nghiệp thì pháp luật cần có quy định cụ thể chủ sở hữu
của công ty.
Ban hành các quy chế đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty TNHH một thành viên có
vốn Nhà nước, quy chế kiểm soát, giám sát và nhất là cơ chế tuyển chọn người quản lý công
ty cũng như nguồn lao động có trình độ cao.
Cần có quy định rõ ràng, cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng loại doanh
Đối với những doanh nghiệp độc quyền thì cần có những quy định để ràng buộc, quản
lý các doanh nghiệp này không dùng vị trí độc quyền để chi phối thị trường, hoặc lợi dụng vị
trí độc quyền để gây tổn hại cho người tiêu dùng bằng cách tạo nên sự khan hiếm hàng hóa,
tăng giá, tăng phí…Nhà nước điều tiết thị trường là phải quản lý được giá và phí của những
loại doanh nghiệp này và phải đảm bảo cung cấp một cách công bằng cho mọi đối tượng xã
hội.
Một vấn đề nữa là cần phải thống nhất các quy định về cơ chế hoạt động tài chính, lao
động, tiền lương của công ty TNHH một thành viên, không nên có những quy định riêng cho
công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; thống nhất áp dụng
chế độ hợp đồng lao động đối với Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng và các chức danh
quản lý điều hành của công ty TNHH một thành viên bởi lẽ mục đích chuyển đổi là tạo nên
sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp nên cần phải hoạt động trên một mặt bằng pháp
lý chung cùng với các doanh nghiệp khác.
Cần có những quy định xử lý đối với những công ty do quản lý, điều hành yếu kém dẫn
đến kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ kéo dài…phải cho giải thể, phá sản hoặc chuyển sang
một hình thức sở hữu khác mà Nhà nước không còn nắm giữ 100% vốn điều lệ, để giảm bớt
gánh nặng cho Nhà nước.
Trong thời gian này để thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 07 năm 2011 của Chính phủ về chuyển doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần, vì vậy cần phải hướng dẫn thực hiện
Nghị định này để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuận lợi trong việc chuyển đổi.
3.2.2 Về quá trình tổ chức thực hiện hoạt động của DNNN sau chuyển đổi sang công ty
TNHH một thành viên:
Một là, cần đưa việc giám sát thực hiện cổ phần hóa các công ty TNHH một thành viên
vào chương trình giám sát của Quốc hội
Hai là, cần phải có những quy định về chế tài xử lý đối với các vi phạm trong việc giám
sát, đánh giá hiệu quả doanh nghiệp.
Ba là, phải thực hiện công khai, minh bạch trong bổ nhiệm các vị trí quan trọng của
doanh nghiệp,
Bốn là, cần mạnh dạn giao cho tư nhân những lĩnh vực nhà nước làm ăn không hiệu
quả.
Năm là, phải đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Tổng công ty đầu tư
và kinh doanh vốn Nhà nước để làm tốt chức năng đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước tại các
doanh nghiệp.
Sáu là, cần nghiên cứu và chỉ định một cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước và giám sát vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp.
Trên đây là một số kiến nghị cụ thể về quy định của pháp luật cũng như về tổ chức thực
hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau chuyển đổi sang công ty TNHH một
thành viên, để việc chuyển đổi thật sự có ý nghĩa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên được xem là một bước
đệm tạo ra một cú bứt phá cho tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sau nhiều năm
bị đình trệ. Trong khi Đảng và Nhà nước vẫn xác định kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là
thành phần kinh tế chủ đạo thì việc đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước là một việc vô cùng quan trọng nó quyết định tới sự phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước, bên cạnh đó việc đổi mới DNNN tạo nên một khung khổ
pháp lý bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, thực hiện đúng cam kết WTO
của chúng ta, chính vì vậy tất cả sẽ cùng hoạt động trong một luật chung đó là Luật doanh
nghiệp. Việc đảm bảo cho các DNNN sau chuyển đổi hoạt động theo đúng nguyên tắc của
Luật doanh nghiệp chính là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp sau chuyển đổi hoạt động
có hiệu quả hơn so với trước. Bên cạnh những kết quả đạt được của quá trình chuyển đổi
DNNN sang công ty TNHH một thành viên thì sau chuyển đổi chúng ta còn cần phải thực
hiện rất nhiều vấn đề để hoạt động doanh nghiệp đạt hiệu quả hơn từ các quy định của pháp
luật cho đến việc tổ chức thực hiện các quy định đó. Chuyển đổi xong các DNNN sang công
ty TNHH một thành viên, chúng ta lại tiếp tục chặng đường tiếp theo cũng vô cùng quan
trọng đó là cổ phần hóa, hoặc chuyển sang hình thức quản lý khác như công ty TNHH hai
thành viên trở lên đối với những công ty mà Nhà nước không cần thiết phải nắm giữ 100%
vốn điều lệ, hoặc những công ty hoạt động chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trọng tâm của
việc đổi mới được thực hiện trong giai đoạn 2012-2015, và việc này cần sự nổ lực của nhiều
phía để đảo bảo thực hiện theo đúng kế hoạch.
References
1. Hiến pháp năm 1992;
2. Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995;
3. Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003;
4. Luật Doanh nghiệp 1999;
5. Luật Doanh nghiệp 2005;
6. Nghị định số 63/2001/NĐ-CP ngày 14/09/2001 của Chính phủ về chuyển đổi DNNN,
doanh nghiệp tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội thành Công ty TNHH một thành viên;
7. Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao
động dôi dư do sắp xếp lại DNNN;
8. Nghị định số 95/2006/NĐ-CP ngày 08/9/2006 của Chính phủ về chuyển đổi Công ty Nhà
nước thành Công ty TNHH một thành viên;
9. Nghị định 86/2007/NĐ-CP ngày 28/5/2007 của Chính phủ quy định về quản lý lao động và
tiền lương trong công ty TNHH một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ;
10. Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/03/2010 của Chính phủ về chuyển đổi công ty Nhà
nước thành Công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý Công ty TNHH một thành viên
do Nhà nước làm chủ sở hữu;
11. Nghị định 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010 của Chính phủ quy định chính sách đối với
người lao động dôi dư khi sắp xếp lại công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở
hữu;
12. Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 07 năm 2011 của Chính phủ về chuyển doanh
nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần;
13. Thông tư 01/2002/TT-BKH ngày 28/01/2002 của Bộ kế hoạch và Đầu tư về việc hướng
dẫn quy trình chuyển đổi DNNN thành Công ty TNHH một thành viên;
14. Thông tư số 09/2002/TT-BLĐTBXH ngày 11/6/2002 của Bộ lao động - thương binh và
xã hội hướng dẫn thực hiện cơ chế quản lý lao động. tiền lương và thu nhập đối với Công ty
TNHH một thành viên Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ;
15. Thông tư số 26/2002/TT-BTC ngày 22/03/2002 của Bộ tài chính hướng dẫn xử lý tài
chính khi chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp của tổ chức chinh trị, tổ chức chính trị - xã hội
thành Công ty TNHH một thành viên,
16. Thông tư 58/2002/TT-BTC ngày 28/6/2002 của Bộ tài chính hướng dẫn quy chế tài chính
của Công ty TNHH một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội.
17.Thông tư số 25/2007/TT-BTC ngày 02/4/2007 của Bộ tài chính của hướng dẫn xử lý tài
chính khi chuyển đổi công ty Nhà nước sang Công ty TNHH một thành viên;
18. Thông tư 24/2007/TT-BTC ngày 27/03/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn quy chế tài
chính của Công ty TNHH một thành viên thuộc sỡ hữu Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội;
19. Thông tư 79/2010/TT-BTC ngày 24/05/1010 của Bộ tài chính hướng dẫn xử lý tài chính
khi chuyển đổi công ty Nhà nước thành công ty TNHH một thành viên ;
20. Thông tư 27/2010/TT-BLĐTBXH ngày 14/9/2010 của Bộ lao động Thương binh và Xã
hội hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương, thù lao và tiền thưởng trong công ty
TNHH do Nhà nước làm chủ sở hữu;
21. Thông tư số 38/2010/TT-BLĐTBXH ngày 24/12/2010 của Bộ lao động Thương binh và
Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 91/2010/NĐ-CP ngày 20 tháng 8
năm 2010 của Chính phủ quy định chính sách đối với người lao động dôi dư khi sắp xếp lại
công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu;
22. Thông tư số 12/2011/TT-BLĐTBXH, ngày 26/4/2011 của Bộ lao động Thương binh và
Xã hội hướng dẫn thực hiện mức lương tối thiểu chung đối với công ty TNHH một thành
viên do Nhà nước làm chủ sở hữu;
23. Chỉ thị số 20/1999/CT-TTg ngày 20/07/1999 về triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp;
24. Chỉ thị số 27/2001/CT-TTg ngày 22/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai
thực hiện chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
thành Công ty TNHH một thành viên;
25. Chỉ thị 03/ CT-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2012 của Thủ tướng về việc đẩy mạnh tái cơ
cấu doanh nghiệp Nhà nước;
26. Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí phân loại
DNNN;
27. Nhật Bắc (2011), “Tổng kết 10 năm sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp”, Chinhphu.vn;
28. Trương Văn Bân (1996), Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp Nhà nước, NXB Chính
trị Quốc gia;
29. Mỹ Dung (2010), “Doanh nghiệp Nhà nước kéo lùi GDP ? ”, Baodatviet.vn ;
30. Võ Văn Đức (2000), Đổi mới các doanh nghiệp thương mại Nhà nước ở nước ta hiện
nay, NXB Chính trị Quốc gia;
31. Đ.H (2012), “Tái cấu trúc Doanh nghiệp Nhà nước để tăng khả năng kiểm soát nền kinh
tế Nhà nước” Dangcongsan.vn;
32. Việt Hà (2011), “Tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty theo hướng gắn liền đổi mới cơ
chế”, Dangcongsan.vn;
33. Nguyễn Thu Hà (1997), Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều
thành phần, NXB Chính trị Quốc gia;
34. Nguyễn Yến (2010), “Hơn 1000 doanh nghiệp Nhà nước lỗi hẹn với Luật doanh nghiệp”,
Baomoi.com ;
35. Võ Đại Lược (1997), Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc
gia;
36.Hoài Ngân (2011), “Cả năm chỉ cổ phần hóa được…6 doanh nghiệp”, Vneconomy.vn;
37. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà nội;
38. LG.Vũ xuân Tiền (2010), “Chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước sang loại hình công ty
Trách nhiệm hữu hạn một thành viên còn nguyên vẹn những nút thắt”, Nhaquanly.vn;
39. Vũ Huy Từ (1994), Doanh nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị trường ở Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia;
40. Duy Phương (2011), “Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước: Đầu tư nhiều,
hiệu quả thấp”, Đại đoàn kết.