Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

QUÁCH MẠNH HỒNG

PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ RA
NƯỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN
PGS.TS.TRẦN ĐÌNH HẢO

HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC
Trang

Phần mở đầu ........................................................................................................i
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ................................................i
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .....................................................................ii
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.................................................................iv
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài...............................................................v
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ...............................................................v
6. Kết quả mới đạt được của luận văn .........................................................v
7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn .................................................vi
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư ra nước ngoài
và pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài .........................................1
1.1. Nhu cầu về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam...............1


1.1.1. Nguyên nhân thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên thế giới .....1
1.1.2. Nhu cầu đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam .................5
1.2. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài và hình thức đầu tư ra nước ngoài .......7
1.2.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài ...............................................7
1.2.2. Khái niệm về đầu tư gián tiếp nước ngoài ..............................................13
1.2.3. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài ..............................................................17
1.2.4. Khái niệm về hình thức đầu tư ra nước ngoài .........................................20
1.3. Pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài ...........................................23
1.3.1. Khái niệm pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài .........................23
1.3.2. Điều chỉnh pháp luật của quốc gia đầu tư đối với hình thức đầu tư ra
nước ngoài ...............................................................................................25
1.4. Một số giao dịch đặc biệt có tính chất đầu tư..........................................33
1.4.1. Sử dụng nguồn lực bên ngoài (Outsourcing) ..........................................36


1.4.2. Nhượng quyền kinh doanh quốc tế (cross-border franchising)...............40
1.5. Thiết chế hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài .....................................................45
1.5.1. Xây dựng chiến lược quốc gia về đầu tư ra nước ngoài..........................45
1.5.2. Các hiệp định đầu tư quốc tế ...................................................................47
1.5.3. Công ty xuyên quốc gia (TNCs)..............................................................49
1.5.4. Quỹ đầu tư quốc tế...................................................................................54
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hình thức đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam ........................................................58
2.1. Thực trạng hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam..................................................................................................58
2.2. Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về hình thức đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam ....................................................60
2.2.1. Nội dung quy định pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam ....................................................................60
2.2.2. Đánh giá các quy định pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài

của doanh nghiệp Việt Nam ....................................................................63
2.2.3. Cơ sở điều chỉnh pháp luật đối với hình thức đầu tư ra nước ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam ..............................................................73
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt
Nam .....................................................................................................................................78
3.1. Các yêu cầu đặt ra đối với pháp luật về hình thức đầu tư ra nước
ngoài trong giai đoạn hiện nay ................................................................80
3.2. Một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam .............81
3.2.1. Xác định hình thức đầu tư ra nước ngoài theo quy định của pháp
luật quốc gia tiếp nhận đầu tư..................................................................82
3.2.2. Điều chỉnh pháp luật đối với hình thức đầu tư ra nước ngoài .................84
3.2.3. Điều chỉnh pháp luật đối với các giao dịch đặc biệt ...............................85


3.2.4. Thúc đẩy việc hình thành các thiết chế hỗ trợ đầu tư..............................86
Kết luận ..................................................................................................................88
Danh mục tài liệu tham khảo .........................................................................90


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN:

Tổ chức các quốc gia Đông Nam á

BITs:

Hiệp định đầu tư song phương


BTA:

Hiệp định giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về quan hệ thương mại

EU:

Cộng đồng Châu Âu

FDI:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FPI:

Đầu tư gián tiếp nước ngoài

IIA:

Hiệp định đầu tư quốc tế

IMF:

Quỹ tiền tệ quốc tế

M&A:

Sáp nhập và mua lại

MFN:


Chế độ đối xử tối huệ quốc

NT:

Chế độ đối xử quốc gia

OECD:

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

R&D:

Nghiên cứu và Phát triển

UNCTAD: Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
USD:

Đồng Đô la Mỹ

TNCs:

Các công ty xuyên quốc gia

WIR:

Báo cáo đầu tư thế giới (World Investment Report)

WTO:


Tổ chức Thương mại thế giới


i

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Đầu tư nước ngoài hiện nay đã trở thành một nhu cầu của chính các
doanh nghiệp Việt Nam nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh và các ưu đãi
đầu tư trong tiến trình hội nhập kinh tế. Tính đến thời điểm tháng 4/2006, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài cho 153 dự án với
số vốn đăng ký 655,3 triệu USD tại 33 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hiện nay,
nhiều dự án lớn đang trong quá trình thẩm định cấp phép đầu tư.
Chính phủ Việt Nam chủ trương khuyến khích việc đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp trong nước nhằm mở rộng thị trường sản xuất,
tiêu thụ hàng hóa. Tháng 4/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định
22/1999/NĐ-CP về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp
theo đó, các văn bản hướng dẫn về hoạt động đầu tư ra nước ngoài và những
ưu đãi đối với doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài cũng được ban hành. Mặc
dù các văn bản này mới xây dựng khung pháp lý ban đầu nhưng đã tạo ra
động lực thúc đẩy, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng hoạt
động kinh doanh tiếp cận thị trường đầu tư quốc tế và khu vực.
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 đã thông
qua Luật Đầu tư (Luật số 59/2005/QH11). Luật Đầu tư 2005 sẽ có hiệu lực áp
dụng kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2006. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài được
quy định khá cụ thể trong một chương riêng (Chương VIII) của Luật Đầu tư.
Đây là lần đầu tiên các quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh
nghiệp Việt Nam được luật hóa bằng một đạo luật được đánh giá có nhiều
điểm tiến bộ trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.



ii

Qua thời gian 6 năm thực hiện đầu tư ra nước ngoài, mặc dù một số
thành tựu ban đầu đã được ghi nhận nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp
Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tiếp cận với thị trường
nước ngoài thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Thiếu một chính sách
khuyến khích đầu tư ra nước ngoài đồng bộ, sự hạn chế trong việc áp dụng
các công cụ đầu tư, quan điểm, thái độ không thỏa đáng của các cơ quan quản
lý nhà nước về hoạt động đầu tư ra nước ngoài, thiếu cơ chế bảo đảm cho hoạt
động đầu tư ở nước ngoài đã và đang là những nguyên nhân chính cản trở
dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
Với sự phát triển của quan hệ đầu tư quốc tế và hoạt động hội nhập
mạnh mẽ của Việt Nam vào dòng chảy của nền kinh tế quốc tế, trước áp lực
mạnh mẽ của nhu cầu đầu tư ra nước ngoài của nền kinh tế, đã đến lúc hoạt
động đầu tư ra nước ngoài không thể tiếp tục mang tính thử nghiệm mà phải
nhanh chóng bắt nhịp với sự phát triển của dòng đầu tư quốc tế, thúc đẩy tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trên phương diện pháp luật, đã và
đang đặt ra những yêu cầu nghiên cứu về lý luận và thực tiễn điều chỉnh pháp
luật đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài và một trong những yêu cầu đó là
mở rộng hơn nữa các hình thức đầu tư ra nước ngoài để đảm bảo cho nhà đầu
tư Việt Nam được sử dụng tối đa các công cụ đầu tư khi thực hiện hoạt động
đầu tư ra nước ngoài. Nghiên cứu Pháp luật về hình thức đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam với tính chất là một hướng tiếp cận vấn đề
còn khá mới mẻ này nhằm phân tích thực trạng pháp luật về hình thức đầu tư ra
nước ngoài của Việt Nam, nhận diện những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến điều chỉnh pháp luật đối với hình thức đầu tư ra nước ngoài là hoạt
động cần thiết trong bối cảnh hiện nay cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI



iii

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam mới được
triển khai trong thời gian 6 năm và mang tính chất thử nghiệm với nhiều giới
hạn trong chính sách đầu tư ra nước ngoài. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài
của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua được chủ yếu do các
doanh nghiệp tự tìm hiểu và triển khai, còn mang nhiều tính chất tự phát và
manh mún. Ngược lại, cũng trong thời gian này, Chính phủ Việt Nam tập
trung nhiều hơn vào hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đặc
biệt sau khủng hoảng tài chính khu vực. Những nỗ lực cải cách chính sách,
sửa đổi pháp luật về thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã thu hút nhiều
hơn sự chú ý của giới chuyên môn và giới nghiên cứu kinh tế và pháp lý.
Trong bối cảnh đó, hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung và hình thức
đầu tư ra nước ngoài nói riêng chưa thu hút được sự quan tâm của giới nghiên
cứu.
Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào về đầu
tư ra nước ngoài và hình thức đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt
Nam. Việc nghiên cứu hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt
Nam mới chỉ được đề cập như một động thái trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm thúc đẩy việc mở rộng thị trường cũng như khai thác tối đa các
lợi thế của doanh nghiệp dưới dạng các bài viết được đăng tải rải rác trên các
tạp chí chuyên ngành hoặc dưới hình thức các ý kiến tản mạn của các chuyên
gia, các đại diện của các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư nước
ngoài trong các cuộc trả lời phỏng vấn của các cơ quan báo chí. Cụ thể, đề
cập đến hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài có bài viết của tác giả An
Thị Hoàng Hoang với tiêu đề “Cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu
tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam”, đăng tải trên Tạp chí Công
nghiệp số tháng 4/2005; hoặc đề cập đến chính sách chung về đầu tư ra nước

ngoài của Việt Nam có bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Hữu Huy Nhựt “Hoạt


iv

động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam: Khó khăn và thách thức” đăng trên
tạp chí Phát triển Kinh tế số 3/2005.
Nhìn chung, nội dung nghiên cứu về hoạt động đầu tư ra nước ngoài
của doanh nghiệp Việt Nam của các tác giả, các nhà nghiên cứu mới chỉ dừng
lại ở việc nhận diện và phân tích những khó khăn, trở ngại, các hạn chế về
pháp luật đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài và đề xuất các yêu cầu về
cải thiện môi trường chính sách chung cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài
như cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Luật đầu tư ra nước ngoài, cải cách
quản lý ngoại hối,... mà không đi sâu vào phân tích trên bình diện lý luận và
thực tiễn bản chất của hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các hình thức đầu tư ra
nước ngoài cũng như đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật đầu tư ra
nước ngoài của Việt Nam về những vấn đề cơ bản nêu trên. Vì vậy, có thể nói
đề tài “Pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt
Nam” là một đề tài độc lập và không trùng lặp các đề tài đã được nghiên cứu
trên. Tuy nhiên, tác giả luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả mà các
công trình khoa học, các bài viết, và các ý kiến của các chuyên gia cũng như
các kinh nghiêm thực tiễn có liên quan đến đề tài trong quá trình thực hiện đề
tài.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

- Tên gọi của đề tài nghiên cứu là Pháp luật về hình thức đầu tư ra
nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam được xác định trong bối cảnh thực
tiễn pháp lý của Việt Nam (Nghị định 22/1999/NĐ-CP) chỉ điều chỉnh hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam (không bao gồm
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ gia đình và cá nhân). Tuy nhiên,

trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả không giới hạn phạm vi nghiên cứu
chỉ trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài của chủ thể đầu tư là doanh nghiệp
Việt Nam mà mở rộng phạm vi nghiên cứu của đề tài đối với tất cả chủ thể


v

của hoạt động đầu tư ra nước ngoài được quy định tại Luật Đầu tư 2005 (nhà
đầu tư Việt Nam), bao gồm doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành
lập theo Luật doanh nghiệp; Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo
Luật hợp tác xã; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập
trước khi Luật Đầu tư 2005 này có hiệu lực; Hộ kinh doanh, cá nhân; Tổ
chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước
ngoài thường trú ở Việt Nam; Các tổ chức khác theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
- Việc nghiên cứu các quy định pháp lý và thực tiễn triển khai hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của một số quốc gia khác được đề cập trong Luận
văn này chỉ mang tính chất tham khảo, đối chiếu và mang tính chất minh họa
cho những luận điểm nghiên cứu.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tư ra nước ngoài
và hình thức đầu tư ra nước ngoài, đề tài đánh giá khái quát thực trạng các
quy định pháp luật của Việt Nam về hình thức đầu tư ra nước ngoài của nhà
đầu tư Việt Nam trong sự so sánh với các khuyến nghị của các tổ chức quốc
tế về lĩnh vực đầu tư nước ngoài, quy định pháp luật của Trung Quốc điều
chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài và một số điều ước quốc tế liên quan
như Hiệp định giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về quan hệ thương mại;
- Bên cạnh việc đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về
hình thức đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam, đề tài nêu ra và phân

tích một số vấn đề liên quan đến hình thức đầu tư ra nước ngoài chưa được đề
cập hoặc chưa được điều chỉnh bởi pháp luật về đầu tư ra nước ngoài.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Các phương pháp nghiên cứu đề tài được sử dụng trong quá trình thực
hiện Luận văn bao gồm:


vi

- Phương pháp duy vật biện chứng;
- Phương pháp duy vật lịch sử;
- Các phương pháp khác như phương pháp thống kê, so sánh.
6. KẾT QUẢ MỚI ĐẠT ĐƢỢC CỦA LUẬN VĂN

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận đầu tư ra nước ngoài và hình thức đầu
tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam;
- Phân tích thực trạng pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài của
nhà đầu tư Việt Nam, đánh giá mức độ phù hợp của các quy định pháp luật
đó với thực tiễn phát triển hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam,
mức độ tương thích, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam có hoặc
sẽ có nghĩa vụ thực thi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đưa ra
những đề xuất, kiến nghị một số sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật của
Việt Nam hiện nay.
7. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được kết cấu thành ba chương với nội dung cơ bản như sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư ra nước ngoài và pháp
luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài.

Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp Việt Nam.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
hình thức đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.


1

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƢ RA NƢỚC
NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƢ RA NƢỚC
NGOÀI

1.1. NHU CẦU VỀ ĐẦU TƢ RA NƢỚC NGOÀI CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM

1.1.1. Nguyên nhân thúc đẩy hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài trên
thế giới
Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang đặt ra cho mỗi quốc
gia những yêu cầu và thách thức trong việc tiếp cận và hội nhập vào chu trình
sản xuất và kinh doanh toàn cầu. Tiếp cận kinh doanh quốc tế vừa là cơ hội
vừa là thách thức đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam để phát
triển nền sản xuất trong nước, thu hẹp khoảng cách phát triển với các quốc gia
phát triển trên thế giới và trong khu vực. Hướng tới các nguồn lực từ bên
ngoài quốc gia đã và đang trở thành chiến lược phát triển kinh tế của nhiều
quốc gia đang phát triển nhằm cải thiện lực lượng sản xuất trong nước thông
qua việc thu hút vốn và kỹ thuật từ nước ngoài, mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm và thị trường cung cấp nguyên vật liệu ra nước ngoài, khai thác tối
đa lợi thế thương mại của quốc gia trong quan hệ thương mại quốc tế.
Lý luận về đầu tư quốc tế được dựa trên học thuyết về phân công lao

động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh và thương mại quốc tế được phát triển
bởi Adam Smith (1776) và David Ricardo (1817), theo đó mỗi quốc gia trên
thế giới đều chuyên môn hóa sản xuất ra một hoặc một nhóm sản phẩm với
chi phí sản xuất thấp hơn so với quốc gia khác và tiến hành xuất khẩu hàng
hóa này sang quốc gia đó. Lợi thế so sánh chính là cơ sở hình thành, phát triển
quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia. Sự chênh lệch về lực lượng


2
sản xuất giữa các quốc gia và những trở ngại trong hoạt động thương mại
quốc tế đã hình thành và phát triển quan hệ đầu tư giữa các quốc gia [25, tr.
12-13]. Đầu tư quốc tế không chỉ đáp ứng yêu cầu của quốc gia đầu tư nhằm
tìm kiếm cơ hội tối đa hóa lợi nhuận ở các quốc gia khác nơi có chi phí sản
xuất thấp để tránh tình trạng tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư thấp do mức độ
cạnh tranh gay gắt trong nước mà còn đáp ứng được yêu cầu của quốc gia
nhận đầu tư nhằm phát triển những ngành sản xuất có lợi thế thương mại
nhưng chưa hội tụ đủ các điều kiện về vốn và kỹ thuật.
Với sự phát triển ở trình độ cao của hoạt động thương mại quốc tế hiện
nay bên cạnh mục tiêu khai thác lợi thế thương mại của các quốc gia có chi
phí sản xuất thấp, ngày càng có nhiều nguyên nhân buộc doanh nghiệp trong
nước phải cân nhắc đến quyết định đầu tư ra nước ngoài. Nhà đầu tư quyết
định đưa hoạt động sản xuất của mình ra nước ngoài có thể do không cạnh
tranh được tại thị trường nội địa hoặc có thể đơn giản là do sự hạn chế của
Chính phủ đối với mở rộng quy mô kinh doanh trên thị trường nội địa. Ví dụ
điển hình là trường hợp của tập đoàn SK Telecom Hàn Quốc hiện đang chiếm
lĩnh 51% thị phần dịch vụ viễn thông tại Hàn Quốc, tuy nhiên, luật pháp Hàn
Quốc quy định khống chế sự phát triển thêm thuê bao đối với những trường
hợp như SKT, nhằm bảo vệ các doanh nghiệp nhỏ và mới thành lập trước sự
cạnh tranh của các “đại gia” trên thị trường, và đây chính là một trong những
nguyên nhân chính khiến tập đoàn này phải đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài,

trong đó có S-Fone Việt Nam [41].
Hiện nay, những lĩnh vực là lợi thế của các doanh nghiệp trong nước
cũng chính là những lĩnh vực mà các doanh nghiệp này đầu tư ra nước ngoài.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc có thể được xem là một ví
dụ điển hình. Mức đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc tăng từ 0,4 tỷ USD
thập kỷ 80 lên 2,3 tỷ USD thập kỷ 90, và đã lên tới 35 tỷ USD trong năm


3
2004. Trung Quốc hiện đang nổi lên như là một quốc gia đầu tư quốc tế lớn
đồng thời cũng là quốc gia thu hút được số lượng đầu tư nước ngoài hàng đầu
thế giới. Trong năm 2003, 12 doanh nghiệp của Trung Quốc có mặt trong
danh sách 500 tập đoàn hùng mạnh nhất thế giới. Đến nay, đã có 7.500 doanh
nghiệp Trung Quốc thành lập những cơ sở làm ăn ở nước ngoài và nhiều hãng
trong số đó rất phát đạt như TCL, Huawi, Haier, Ningbo Bird, D'Long... Có 3
yếu tố thúc đẩy Trung Quốc khuyến khích việc đầu tư ra nước ngoài. Đầu tiên
là do dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc hiện đã lên đến hơn 400 tỉ USD và điều
này có thể thúc đẩy việc định giá lại đồng nhân dân tệ mà Trung Quốc không
mong muốn. Để giảm bớt áp lực, Chính phủ Trung Quốc chủ trương chuyển
bớt tư bản ra nước ngoài. Thứ hai là do yêu cầu cấp thiết về dự trữ nguyên
liệu để phục vụ cho nền kinh tế đang đạt mức tăng trưởng nhanh. 3 Công ty
dầu lửa quốc gia Trung Quốc là Sinopec, Petrochina và CNOOC đã mua cổ
phần tại 14 quốc gia Châu Á, Trung Đông, châu Phi và Mỹ La-tinh. Nguyên
nhân cuối cùng là tình hình cạnh tranh khốc liệt ở thị trường Trung Quốc
khiến lợi nhuận của các công ty bị sụt giảm nên họ đi tìm lợi nhuận lớn hơn
bằng việc đầu tư ra nước ngoài [54].
Một nguyên nhân khác dẫn đến sự gia tăng của đầu tư ra nước ngoài là
việc các nhà đầu tư tìm thấy ở việc đưa hoạt động sản xuất ra nước ngoài là
một biện pháp hữu hiệu nhằm xâm nhập vào thị trường thế giới mà vẫn tránh
được các rào cản thương mại, bao gồm chính sách hạn ngạch và thuế quan.

Đặc biệt trong thời gian gần đây, việc Cộng đồng châu Âu (EU), Canada và
Hoa Kỳ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm, hàng hóa
của một số nước nhập khẩu vào thị trường của các quốc gia này đã và đang
tạo ra một sức ép lớn đối với các quốc gia xuất khẩu các mặt hàng thuộc diện
bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Một trong những cách thức để giải quyết
vấn đề này là nhà đầu tư đưa dây chuyền sản xuất của mình sang một quốc gia


4
chưa bị áp dụng thuế chống bán phá giá để sản xuất và tiếp tục xuất khẩu
hàng hóa vào các thị trường nước ngoài truyền thống. Tập đoàn Haier của
Trung Quốc đã xây dựng chiến lược đầu tư vào Hoa Kỳ để củng cố vị thế của
tập đoàn tại thị trường Hoa Kỳ và là cách để tránh các vụ kiện chống bán phá
giá [42, tr.54-55]. Trung Quốc đã từng bị EU áp dụng thuế chống bán phá giá
đối với mặt hàng bóng đèn compact. Một số doanh nghiệp sản xuất bóng đèn
compact của Trung Quốc như ECO Industry International Inc, đã tìm đến thị
trường Việt Nam, xây dựng nhà máy sản xuất và tiếp tục xuất khẩu sản phẩm
sang thị trường EU (Công ty này đã thành lập Doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài tại Khu công nghiệp Đình Vũ, Hải Phòng, năm 2003, xuất khẩu 80%
sản phẩm). Hãng dệt may Dunsky của Thượng Hải đang tìm kiếm cơ hội xây
dựng một nhà máy ở miền bắc Việt Nam với lợi thế giá nhân công rẻ hơn
40% so với thị trường nội địa. Tuy nhiên, lý do chính là một môi trường xuất
khẩu mặt hàng dệt may tại Việt Nam bị áp dụng ít hơn các biện pháp tự vệ
thương mại của các thị trường lớn trên thế giới, trong đó có thị trường Hoa
Kỳ. Tương tự như vậy, các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ nội thất của Trung
Quốc cũng đang ráo riết đầu tư sang Indonesia để tránh bị áp dụng thuế bán
phá giá tại thị trường Hoa Kỳ và khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Những ưu thế thương mại, ưu đãi đầu tư được thiết lập dành cho các
quốc gia thành viên của các liên kết kinh tế khu vực cũng có sức hấp dẫn nhất
định đối với các nhà đầu tư của các quốc gia nằm ngoài liên kết kinh tế.

Nhiều nhà đầu tư Hàn Quốc và Trung Quốc đã không che giấu mục đích của
họ khi đầu tư vào Việt Nam hoặc các quốc gia trong khu vực ASEAN là
nhằm khai thông cửa ngõ cho hoạt động đầu tư của mình với khu vực hợp tác
kinh tế này để được hưởng những ưu đãi đối với hàng hóa và dịch vụ có xuất
xứ từ các quốc gia thành viên ASEAN, đặc biệt là chính sách thuế xuất nhập
khẩu, cũng như những đãi ngộ đối với hoạt động đầu tư giữa các quốc gia


5
thành viên. Một trong những ví dụ điển hình là chiến lược kinh doanh của SK
Telecom, Huyndai (Hàn Quốc) và TCL (Trung Quốc) tại Việt Nam với mục
tiêu sử dụng Việt Nam như “cửa ngõ” hướng tới cung cấp sản phẩm và dịch
vụ tới các quốc gia trong khu vực ASEAN [44].
1.1.2. Nhu cầu đầu tƣ ra nƣớc ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đầu tư ra nước ngoài đang được
xem là một cách tiếp cận mới để thâm nhập thị trường quốc tế [45]. Các
doanh nghiệp Việt Nam đã tìm thấy ở thị trường nước ngoài những thuận lợi
hơn so với môi trường kinh doanh trong nước để có thể tối đa hóa lợi nhuận.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam cũng không
nằm ngoài cơ sở của hoạt động đầu tư quốc tế, đó là mục tiêu khai thác sự
chênh lệch về trình độ lực lượng sản xuất và chi phí sản xuất tại các quốc gia
nhận đầu tư để tăng tỷ suất lợi nhuận. Bên cạnh đó, trong cuộc cạnh tranh
khốc liệt thu hút vốn đầu tư nước ngoài của các nước đang phát triển trên thế
giới và ngay trong khu vực Đông Nam Á, một mức ưu đãi hơn về tài chính
hay thủ tục cấp phép cũng có thể là một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp
Việt Nam hướng tới việc đưa hoạt động sản xuất của mình ra nước ngoài.
Trên thực tế, một số dự án xây dựng nhà máy xi măng lò đứng của Việt
Nam đang rất thành công tại Lào, sản phẩm sản xuất ra thậm chí có thể cạnh
tranh được với xi măng của Việt Nam và Thái Lan nhập khẩu vào thị trường
Lào. Sản phẩm mì ăn liền của các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất tại thị

trường Nga đã và đang chiếm ưu thế hơn hẳn mì ăn liền của Việt Nam xuất
khẩu sang thị trường Nga và các nước Châu Âu. Tại các quốc gia có sức cạnh
tranh kém hơn Việt Nam, nhà đầu tư Việt Nam được hưởng những ưu đãi đầu
tư có sức hấp dẫn hơn rất nhiều so với chính sách khuyến khích đầu tư trong
nước. Công ty TNHH hóa mỹ phẩm VICO chỉ cần mở tài khoản ở một ngân
hàng tại Campuchia và được xác nhận trong tài khoản có 6.000USD là đã


6
được cấp phép đầu tư chỉ sau 3 ngày với thời hạn đầu tư 99 năm. Công ty
Thương mại và công nghệ T&T đã đưa toàn bộ dây chuyền lắp ráp xe máy và
dây chuyền sản xuất hàng điện lạnh tiêu dùng sang Angola với lý do nếu xuất
khẩu sang thị trường Angola sẽ rất khó thanh toán, nhưng tiến hành các hoạt
động sản xuất tại nước này thì được Chính phủ sở tại rất hoan nghênh với rất
nhiều ưu đãi về giá thuê đất rẻ, thời gian miễn, giảm các nghĩa vụ tài chính
kéo dài hàng chục năm [47]. Luật Đầu tư nước ngoài của Peru quy định
nguyên tắc đối xử bình đằng giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài, không đòi hỏi về tỷ lệ góp vốn, chuyển tiền hoặc chuyển lợi
nhuận, khuyến khích lập các khu chế xuất với ưu đãi miễn thuế hải quan và
một số loại thuế khác trong vòng 15 năm, đồng thời Chính phủ Peru cũng mở
cửa nhiều lĩnh vực trọng điểm như dầu khí, khai khoáng, điện, nước, tài chính
ngân hàng và du lịch cho các nhà đầu tư nước ngoài [48].
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam nhằm khai
thác nguyên liệu thô cũng đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực
khai thác dầu khí và trồng cao su. Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam
(PetroVietnam) đã tham gia vào 7 dự án nước ngoài. PetroVietnam trực tiếp
điều hành 2 dự án tại Iraq và Angieria, tham gia 3 dự án tại Malaysia và 2 dự
án tại Indonesia; đang giành được quyền lựa chọn sẽ tham gia vào 1 dự án tại
Mông Cổ. Tổng trữ lượng dầu khí của các phát hiện từ các hợp đồng đầu tư ra
nước ngoài hiện có khoảng 120 triệu mét khối quy dầu, trong đó phần mang

về nước (tính theo tỉ lệ PetroVietnam tham gia) khoảng 80 triệu mét khối quy
dầu [49]. Ngành cao su đang triển khai một số dự án đầu tư ra nước ngoài lớn
tại Lào. Công ty cao su Đăk Lăk đã được cấp phép cho dự án trồng cao su tại
Nam Lào với trị giá 32,3 triệu USD. Công ty cổ phần Cao su Việt - Lào cũng
đã triển khai dự án phát triển 10.000 ha cao su tại tỉnh Champasak của Lào
với tổng trị giá 25,8 triệu USD [50].


7
Như vậy, có thể thấy rằng, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường trong nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động đầu tư
ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam xuất phát từ chính nhu cầu nội
tại của bản thân doanh nghiệp và trên thực tế, hoạt động này cũng không nằm
ngoài quy luật của hoạt động đầu tư quốc tế. Điều này đã và đang đặt ra yêu
cầu đối với Việt Nam trong việc xây dựng một chiến lược đầu tư ra nước
ngoài phù hợp để khuyến khích và thúc đẩy hơn nữa các doanh nghiệp Việt
Nam tiếp cận với thị trường quốc tế. Chính phủ Việt Nam đã nhận thức và có
những động thái nhất định trong việc khuyến khích các doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài trước khi chính thức ban hành Nghị định
22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài
của doanh nghiệp Việt Nam. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
110/TTg ngày 22 tháng 2 năm 1997 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển
ngành Bưu chính - Viễn thông giai đoạn 1996-2000 đã nêu rõ: “Tăng cường
các mối quan hệ song phương; mở rộng hợp tác đa phương; ưu tiên phát
triển các mối quan hệ với khối ASEAN và các nước láng giềng; tham gia vào
các chương trình phát triển thông tin khu vực, tiểu khu vực và ASEAN; cho
phép các doanh nghiệp của ngành thực hiện đầu tư ra nước ngoài khi có cơ
hội đầu tư”. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một chiến lược
rõ nét cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.
Các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam và những

thành tựu đạt được bước đầu chủ yếu do những nỗ lực tự thân của các doanh
nghiệp mang lại trong công cuộc tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường thế giới.
1.2. KHÁI NIỆM ĐẦU TƢ RA NƢỚC NGOÀI VÀ HÌNH THỨC ĐẦU TƢ
RA NƢỚC NGOÀI

1.2.1. Khái niệm về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng một vai trò quan trọng
trong thương mại toàn cầu. Đây là một hoạt động đầu tư có thể đem lại cho


8
doanh nghiệp trong nước các thị trường và các kênh tiêu thụ mới cho hàng
hóa và dịch vụ, các trang thiết bị sản xuất giá rẻ, khả năng tiếp cận với công
nghệ mới, sản phẩm, các kỹ năng kinh doanh và quan trọng nhất là nguồn tài
chính.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo định nghĩa cổ điển, được định nghĩa là
một công ty từ một quốc gia tiến hành đầu tư vật chất để xây dựng một nhà
máy tại một quốc gia khác. Trong những năm gần đây, với sự phát triển và thay
đổi nhanh chóng trong môi trường đầu tư toàn cầu, định nghĩa về đầu tư trực
tiếp nước ngoài đã được mở rộng, bao quát hoạt động đầu tư nhằm thu được lợi
ích quản lý lâu dài trong một công ty hoặc doanh nghiệp ở một quốc gia khác.
Hoạt động đầu tư này có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như trực tiếp
mua lại một công ty nước ngoài, xây dựng nhà máy hoặc đầu tư dưới dạng liên
doanh hoặc liên kết chiến lược với doanh nghiệp tại quốc gia nhận đầu tư kèm
theo việc chuyển giao công nghệ và li-xăng quyền sở hữu trí tuệ.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) và Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD)
đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài với nội dung chính như sau: đầu
tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa là sự đầu tư với một quan hệ dài hạn
phản ánh lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một chủ thể thường trú trong một

nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hay công ty mẹ) tại một doanh
nghiệp trong một nền kinh tế khác không phải là nền kinh tế của nhà đầu tư
nước ngoài (doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh
nghiệp chi nhánh hoặc cơ sở chi nhánh ở nước ngoài). Đầu tư trực tiếp nước
ngoài hàm ý nhà đầu tư có ảnh hưởng đáng kể đến việc quản lý, điều hành của
doanh nghiệp ở nền kinh tế khác. Sự đầu tư như vậy bao gồm các giao dịch
ban đầu và các giao dịch vốn sau đó giữa hai chủ thể và giữa các cơ sở chi


9
nhánh ở nước ngoài, cả chi nhánh gắn kết và không gắn kết. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài có thể do các cá thể cũng như các chủ thể kinh doanh thực hiện.
Một số quốc gia không căn cứ theo tỷ lệ nắm giữ cổ phần hoặc quyền
biểu quyết của một nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp trong nước
(thường là 10%) để xác định hình thức đầu tư trực tiếp mà căn cứ vào sự kết
hợp của một số các yếu tố như:


Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào Hội đồng quản trị của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;



Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào quá trình ra quyết định
của doanh nghiệp;



Sự can thiệp của nhà đầu tư nước ngoài vào việc bổ nhiệm các vị trí
chủ chốt của doanh nghiệp;




Việc cung cấp các thông tin công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài;



Việc cung cấp các khoản vay dài hạn của nhà đầu tư nước ngoài với
mức lãi suất thấp hơn thị trường [60, page 8].

Theo Hiệp định giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về quan hệ thương mại, hoạt
động đầu tư có nội dung khá rộng: tất cả các đầu tư trên lãnh thổ của một bên
do các công dân của bên kia sở hữu và kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, bao
gồm các hình thức:
(i)

một công ty hoặc một doanh nghiệp;

(ii)

cổ phần, cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy
ghi nợ và các quyền lợi đối với các khoản nợ dưới các hình thức
khác trong công ty;

(iii)

các quyền theo hợp đồng như quyền theo hợp đồng chìa khoá
trao tay, hợp đồng xây dựng hoặc hợp đồng quản lý, các hợp



10
đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân chia doanh thu, tô nhượng
hoặc các hợp đồng tương tự khác;
(iv)

tài sản hữu hình, gồm cả bất động sản và tài sản vô hình, gồm cả
các quyền như giao dịch thuê, thế chấp cầm cố và quyền lưu giữ
tài sản;

(v)

quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyền tác giả và quyền có liên quan,
nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, tín
hiệu vệ tinh mạng chương trình đã được mã hoá, thông tin bí
mật, bí mật thương mại, kiểu dáng công nghiệp và quyền với
giống cây trồng; và

(vi)

các quyền theo quy định của pháp luật như các giấy phép và sự
cho phép [22, tr. 439- 440].

Theo UNCTAD, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm vốn do
một nhà đầu tư nước ngoài cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các doanh
nghiệp liên quan) cho một doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
hoặc là vốn nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ một doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có ba thành phần trong luồng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ
công ty. Vốn cổ phần là cổ phần của một doanh nghiệp ở một nước khác được
nhà đầu tư nước ngoài mua lại. Thu nhập tái đầu tư bao gồm cổ phần của nhà

đầu tư trực tiếp nước ngoài (theo tỷ lệ đối với phần vốn góp) của thu nhập chưa
được phân phối hoặc thu nhập chưa được trích cho nhà đầu tư trực tiếp. Các
khoản lợi nhuận giữ lại này bởi các cơ sở chi nhánh được tái đầu tư. Các khoản
vay nội bộ công ty là các khoản vay và cho vay ngắn hạn hoặc dài hạn giữa các
nhà đầu tư trực tiếp (công ty mẹ) và các doanh nghiệp thành viên [62, page
275-276].


11
Cho đến trước ngày 1 tháng 7 năm 2006 (ngày có hiệu lực của Luật
Đầu tư 2005), hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn được hiểu chỉ là
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mặc dù khái niệm về đầu tư nước
ngoài đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung. Năm 1977, Điều lệ Đầu tư nước
ngoài ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 của Chính phủ
đã nêu rõ: đầu tư nước ngoài ở Việt Nam là „„việc đưa vào sử dụng ở Việt
Nam những tài sản và vốn sau đây, nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi
mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
- Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ dùng cho việc thí
nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật... cần thiết cho mục đích nói trên;
- Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh, phương
pháp công nghệ, bí mật kỹ thuật (know-how), nhãn hiệu chế tạo,..
- Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ, nếu phía Việt Nam
thấy cần thiết;
- Vốn bằng ngoại tệ để chi lương cho nhân viên và công nhân làm việc
ở các cơ sở hoặc tiến hành những dịch vụ theo quy định của Điều lệ này”.
Theo quy định này, không phải mọi sự vận động về vốn nào từ nước
ngoài vào Việt Nam đều là đầu tư nước ngoài, mà chỉ những sự vận động của
vốn gắn với việc đưa vào sử dụng ở Việt Nam những tài sản và vốn đã được
quy định tại Điều 2 của Điều lệ.
Trong Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam năm 1987, khái niệm đầu

tư nước ngoài được quy định trong khoản 3 Điều 2. Luật quy định “đầu tư
nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập
xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của
Luật này”. Theo quy định này, nội dung khái niệm đầu tư nước ngoài đã


12
được mở rộng so với khái niệm đầu tư nước ngoài trong Điều lệ Đầu tư nước
ngoài năm 1977. Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và
trong lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ngày
09/6/2000 (Điều 2, khoản 1): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu
tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”.
Trên góc độ quản lý cán cân thanh toán quốc tế và góc độ quản lý ngoại
hối của Việt Nam, hoạt động đầu tư trực tiếp được quy định như sau:
“Đầu tư trực tiếp là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư
theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hay nhà đầu tư Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành
hoạt động đầu tư theo pháp luật đầu tư của Việt Nam và nước ngoài”.
(Điều 4, Nghị định của Chính phủ số 63/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 8 năm
1998 về quản lý ngoại hối).
“Các giao dịch về đầu tư trực tiếp là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa
vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hay nhà
đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành hoạt động đầu tư theo pháp luật đầu tư của Việt Nam và nước
ngoài”; (điểm g, mục 1, Thông tư số 05/2000/TT-NHNN1 ngày 28 tháng 3

năm 2000 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành một số điểm về lập
cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP
ngày 16/11/1999 của Chính phủ).
Điều 3, khoản 12, Luật Đầu tư 2005 quy định: “Đầu tư nước ngoài là
việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản
hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”, trong đó hoạt động đầu tư


13
được hiểu là “hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các
khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư” (khoản 7, Điều 3)
theo các hình thức đầu tư trực tiếp (là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư bỏ vốn
đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư - khoản 2, Điều 3) hoặc đầu tư
gián tiếp (là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định
chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý
các hoạt động đầu tư - khoản 3, Điều 3).
Theo quy định của Luật Đầu tư 2005, đầu tư nước ngoài không còn đồng
nhất và không bị giới hạn trong hình thức đầu tư trực tiếp. Khái niệm đầu tư
trực tiếp nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư 2005 đã tiếp cận gần hơn
với khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được đưa ra bởi các thiết chế thương
mại quốc tế và thông lệ trong hoạt động đầu tư quốc tế. Với việc bãi bỏ quy
định về tỷ lệ góp vốn tối thiểu của nhà đầu tư nước ngoài, theo quan điểm của
các nhà soạn thảo Luật Đầu tư 2005, để đánh giá một hoạt động đầu tư có được
xem là đầu tư trực tiếp hay không, Việt Nam không xem xét theo tiêu chí nhà
đầu tư có sở hữu một tỷ lệ cổ phần hoặc quyền biểu quyết nhất định nào đó
trong một thực thể kinh doanh được thành lập tại nước nhận đầu tư mà chỉ xem
xét tiêu chí nhà đầu tư có hay không tham gia vào việc quản lý hoạt động đầu
tư. Như vậy, theo các quy định hiện nay của Luật Đầu tư 2005, có thể hiểu rằng
để được cơ quan cấp phép đầu tư Việt Nam xác định một hoạt động đầu tư tại

Việt Nam là đầu tư trực tiếp nước ngoài thì nhà đầu tư phải thể hiện trong hồ sơ
xin cấp phép ý định tham gia quản lý hoạt động đầu tư của mình tại Việt Nam.
Tuy nhiên, việc xem xét và đánh giá hoạt động nào được coi là việc nhà đầu tư
nước ngoài tham gia hoạt động quản lý hoạt động đầu tư đối với dự án đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam vẫn chưa có một cơ chế rõ ràng.


14
Trên thực tế, việc nhà đầu tư quyết định tham gia hay không tham gia
quản lý hoạt động đầu tư của mình phụ thuộc vào nhiều yếu tố và tùy thuộc
giai đoạn đầu tư. Có trường hợp trong thời gian đầu thực hiện dự án đầu tư,
nhà đầu tư tham gia quản lý hoạt động đầu tư để dự án triển khai đúng với kế
hoạch và mục đích đầu tư, sau đó, khi dự án đầu tư đã đi vào vận hành, nhà
đầu tư có thể quyết định không tham gia quản lý hoạt động đầu tư nữa. Cũng
có những trường hợp ngược lại, trong đó, nhà đầu tư không tham gia quản lý
hoạt động đầu tư trong giai đoạn xin cấp phép đầu tư nhưng lại quyết định
tham gia quản lý hoạt động đầu tư sau khi đã được cấp phép đầu tư, điển hình
là việc nhà đầu tư nước ngoài mua tăng dần một số lượng vốn góp hoặc cổ
phần hoặc quyền biểu quyết của một công ty được thành lập để thực hiện dự
án đầu tư đến một tỷ lệ nhất định cho phép nhà đầu tư đó được tham gia quản
lý, điều hành công ty. Trong những trường hợp nêu trên, các quy định hiện
nay của Luật Đầu tư 2005 chưa điều chỉnh một cách cụ thể việc xác định hoạt
động đầu tư của nhà đầu tư đó là đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp và việc
quản lý hoạt động đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
được thực hiện như thế nào.
1.2.2. Khái niệm về đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
Theo Từ điển Kinh tế - Thương mại Anh - Việt do Nhà xuất bản Trẻ
Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 1997, đầu tư gián tiếp trong tiếng
Anh được sử dụng với thuật ngữ Portfolio Investment (tạm dịch là Đầu tư
danh mục) [23, tr.482]. Trong hoạt động đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư không

quan tâm đến quá trình sản xuất và kinh doanh thực tế mà chỉ quan tâm đến
lợi tức hoặc sự an toàn của các chứng khoán mà họ đầu tư. Trong lĩnh vực
đầu tư thương mại, đầu tư gián tiếp thường được hiểu theo nghĩa hẹp là các
khoản vốn đầu tư thực hiện qua một định chế tài chính trung gian như các quỹ
đầu tư, hoặc đầu tư trực tiếp vào cổ phần các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán (còn gọi là đầu tư Portfolio).


×