Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Các qui định của bộ luật tố tụng dân sự việt nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn thực hiện tại tòa án nhân dân huyện hoài đức, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỨC THỊ HÒA

CÁC QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ
VIỆT NAM 2004 VỀ HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN
SỰ
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hµ néi - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỨC THỊ HÒA

CÁC QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ
VIỆT NAM 2004 VỀ HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN
SỰ
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI
Chuyên ngành : Luật dân sự


Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình

Hµ néi - 2009


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
khái quát về chế định hòa giải vụ việc dân sự trong Pháp

7

luật tố tụng dân sự Việt nam

1.1.


Khái niệm, cơ sở và vai trò của chế định hòa giải vụ việc
dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

7

1.1.1.

Khái niệm chế định hòa giải vụ việc dân sự trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam

7

1.1.2.

Cơ sở của chế định hòa giải vụ việc dân sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam

12

1.1.2.1. Cơ sở lý luận

12

1.1.2.2. Cơ sở thực tiễn

14

1.1.3.


Vai trò của chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam

18

1.2.

Sơ lược về sự phát triển của chế định hòa giải trong pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay

21

1.2.1.

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

21

1.2.2.

Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1974

24

1.2.3.

Giai đoạn từ năm 1974 đến năm 1989

25


1.2.4.

Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004

28

1.2.5.

Giai đoạn từ năm 2004 đến nay

32

1


Chương 2:

Nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự việt

35

nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự

2.1.

Các quy định chung về hòa giải vụ việc dân sự

36

2.1.1.


Các quy định về phạm vi hòa giải vụ việc dân sự

36

2.1.2.

Các quy định về thẩm quyền hòa giải vụ việc dân sự

40

2.1.3.

Các quy định về thành phần hòa giải vụ việc dân sự

41

2.1.4.

Các quy định về nguyên tắc hòa giải vụ việc dân sự

51

2.1.5.

Các quy định về nội dung hòa giải vụ việc dân sự

54

2.2.


Các quy định về thủ tục hòa giải vụ việc dân sự

54

2.2.1.

Các quy định về chuẩn bị phiên hòa giải vụ việc dân sự

54

2.2.2.

Các quy định về tiến hành phiên hòa giải vụ việc dân sự

56

2.2.3.

Các quy định về quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự

61

2.2.4.

Các quy định về giải quyết trường hợp hòa giải không thành,
không hòa giải được

65


THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA BỘ

68

Chương 3:

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 2004 VỀ HÒA GIẢI
VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN
HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KIẾN NGHỊ

3.1.

Thực tiễn thực hiện các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự ở Tòa án nhân
dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội

68

3.1.1.

Thực tiễn hòa giải vụ án dân sự ở Tòa án nhân dân huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội

69

3.1.2.

Thực tiễn hòa giải việc dân sự ở Tòa án nhân dân huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội


79

3.2.

Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hòa giải vụ việc dân
sự trong tố tụng dân sự

83

2


3.2.1.

Các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự

83

3.2.1.1. Về nguyên tắc tiến hành hòa giải

83

3.2.1.2. Cần bổ sung quy định về mục đích hòa giải

85

3.2.1.3. Cần bổ sung quy định về địa điểm hòa giải

85


3.2.1.4. Cần bổ sung quy định về phương pháp tiến hành hòa giải

86

3.2.1.5. Cần sửa đổi, bổ sung quy định về thành phần phiên hòa giải

87

3.2.1.6. Cần sửa đổi, bổ sung quy định về nội dung hòa giải

88

3.2.1.7. Cần bổ sung quy định về án phí trong từng giai đoạn hòa
giải thành

88

3.2.1.8. Cần bổ sung quy định về hòa giải việc dân sự

89

3.2.1.9. Cần bổ sung quy định về việc công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự ngoài Tòa án

90

3.2.2.

Các kiến nghị về thực hiện pháp luật tố tụng dân sự


92

3.2.2.1. Kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật
Tố tụng dân sự Việt Nam 2004, trong đó có chế định hòa giải

92

3.2.2.2. Đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ
năng hòa giải cho đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử

94

3.2.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân

103

KẾT LUẬN

105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

108

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

PLTTDS

: Pháp luật tố tụng dân sự

PLTTGQCVADS : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự
TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

4


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
3.1

Kết quả giải quyết các vụ án dân sự

69

3.2

Kết quả giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình

70

3.3

Kết quả giải quyết các việc dân sự

82

5


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Như chúng ta đã biết, một trong những nét đặc trưng cơ bản của người
Việt Nam là "coi trọng chữ tình". Tuy nhiên, tình cảm không phải lúc nào
cũng được đặt lên hàng đầu. Trong cuộc sống thường ngày, có thể vì một chút
lợi nhỏ, vì sĩ diện cá nhân hoặc vì một lý do nào đó mà người ta nhất thời
quên đi tình cảm anh em, tình làng nghĩa xóm, để mặc cho những xích mích
và mâu thuẫn nảy sinh, phá vỡ đi cuộc sống yên bình vốn có. Nhất là trong
giai đoạn hiện nay, nền kinh tế thị trường ngày một phát triển, các mối quan
hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, giá trị đạo đức luôn có nguy cơ bị
xói mòn thì những mâu thuẫn và tranh chấp trong xã hội cũng ngày một gia
tăng cả về số lượng và độ phức tạp. Vì vậy, muốn đất nước phát triển ổn định
và bền vững thì yêu cầu khách quan đặt ra là phải giải quyết nhanh chóng và
triệt để các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh. Một trong những biện pháp giải
quyết mâu thuẫn, tranh chấp hiệu quả và tiết kiệm nhất đó là hòa giải.
Kể từ khi giành được chính quyền đến nay, Nhà nước ta luôn chú
trọng kế thừa và phát huy truyền thống hòa giải trong việc giải quyết các
tranh chấp. Hòa giải đã trở thành một nguyên tắc, thủ tục trong tố tụng dân sự
(TTDS) nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết các
tranh chấp và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Thông qua hoà giải, Toà án giúp đỡ
các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự
phù hợp với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội, rút ngắn quá trình tố
tụng, nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự, đồng thời khơi dậy và
phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái của dân tộc Việt
Nam.

6



Hòa giải đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật do Nhà nước
ta ban hành từ trước tới nay như Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974
của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn về công tác hòa giải trong
tố tụng dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989
(PLTTGQCVADS), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994,
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996... Đặc biệt, Bộ
luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) Việt Nam 2004 được ban hành đã đánh dấu
một mốc quan trọng trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta
nói chung và hoàn thiện về chế định hòa giải các vụ việc dân sự nói riêng.
Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng cho thấy nhiều quy định của BLTTDS
vẫn còn hạn chế, trong đó có các quy định về hòa giải vụ việc dân sự. Vì vậy,
việc thực hiện trên thực tế không tránh khỏi lúng túng, thiếu thống nhất.
Chẳng hạn, đối với các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình, nếu hòa giải
vợ chồng về đoàn tụ thành thì ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự hay công nhận hòa giải đoàn tụ? đối với các vụ án tranh chấp về tài
sản hòa giải thành ngay từ khi chưa định giá tài sản thì án phí sẽ được tính
toán dựa trên cơ sở nào? Đối với trường hợp khi tham gia phiên hòa giải, bị
đơn nhất trí với toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn với điều kiện nguyên đơn
phải rút đơn khởi kiện, nhưng nguyên đơn lại không rút đơn vì lo sợ bị đơn sẽ
thay đổi quan điểm sau khi Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ
án thì Tòa án phải làm thế nào?…
Là một cán bộ trực tiếp làm công tác xét xử, tôi muốn thông qua thực
tiễn để xác định những điểm còn chưa hợp lý của các quy định về hòa giải
trong BLTTDS, từ đó có những kiến nghị trong việc sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với tình hình phát triển của đời sống kinh tế, xã hội của nước ta hiện nay
và trong thời gian tới. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Các qui định của Bộ luật
Tố tụng dân sự Việt Nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn thực

7



hiện tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội" làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải là một vấn đề quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự tại Tòa án. Vì vậy, ngoài việc được Nhà nước quan tâm quy định trong
các văn bản về pháp luật tố tụng dân sự (PLTTDS) thì cũng đã có nhiều công
trình nghiên cứu khoa học pháp lý nghiên cứu về vấn đề này như:
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Hòa giải trong tố tụng dân sự - thực tiễn
và hướng hoàn thiện" của Bùi Đăng Huy, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996;
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Hòa giải trong tố tụng dân sự" của
Trương Kim Oanh, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Trung tâm Khoa
học xã hội và nhân văn, 1996;
- Luận án tiến sĩ luật học: "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh
tế tại Tòa án ở Việt Nam" của Đào Thị Xuân Lan, Viện Nhà nước và pháp
luật, Hà Nội, 2004;
- Luận án tiến sĩ luật học: "Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng
dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Trần Văn Quảng, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2004.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều bài viết về thực tiễn hòa giải các vụ việc
dân sự của các tác giả được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Báo Công lý... như:
- "Hoàn thiện chế định hòa giải trong tố tụng dân sự" của Đào Thị
Mai Hường, Tạp chí TAND, số 1, 1998;
- "Hòa giải và tự thỏa thuận trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động"
của Phan Hữu Thư, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 02, 1999;
- "Vai trò và thủ tục hòa giải trong xét xử các tranh chấp lao động"
của Lê Văn Luật, Tạp chí TAND, số 16, 2004;


8


- "Việc áp dụng các quy định về hòa giải trong tố tụng dân sự" của
Nguyễn Thị Thanh Hương, Tạp chí Kiểm sát, số 5, 2006;
- "Tòa án ra quyết định phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các đương
sự" của Nguyễn Quốc Phương, Báo Công lý, số 72, ngày 06/9/2008;
- "Hòa giải trong tố tụng dân sự của Việt Nam và Nhật Bản nhìn từ góc
độ so sánh" của Dương Quỳnh Hoa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02,
2008...
Ngoài ra, hòa giải trong TTDS cũng được đề cập trong Giáo trình Luật
Tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh...
Mỗi công trình và mỗi bài viết trên nghiên cứu về hòa giải trong
TTDS ở một khía cạnh riêng, nhưng phần lớn đều đề cập đến thực trạng của
pháp luật về hòa giải, phản ánh những vướng mắc trong quá trình áp dụng chế
định này và kiến nghị giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định về hòa giải
cũng như các biện pháp nâng cao hiệu quả của hòa giải trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự tại Tòa án. Trong đó, công trình nghiên cứu của tiến sĩ
Trần Văn Quảng đã nghiên cứu một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về
chế định hòa giải trong PLTTDS cũng như thực tiễn áp dụng chế định này.
Tuy nhiên, cũng như các chế định pháp luật khác, chế định hòa giải vụ việc
dân sự được hình thành trên cơ sở kinh tế - xã hội, phản ánh sâu sắc các yếu
tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đương thời. Vì vậy, chế định hòa giải
luôn vận động và phát triển một cách khách quan trước yêu cầu của đời sống
xã hội. Việc ban hành BLTTDS là một bước phát triển vượt bậc của hệ thống
pháp luật TTDS, trong đó có chế định hòa giải vụ việc dân sự. Song từ khi
BLTTDS ra đời đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu
một cách đầy đủ và toàn diện các quy định về hòa giải của Bộ luật này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


9


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về hòa giải,
chế định hòa giải vụ việc dân sự như khái niệm, bản chất, ý nghĩa, cơ sở của
chế định hòa giải vụ việc dân sự; các quy định của BLTTDS về hòa giải vụ
việc dân sự và thực tiễn áp dụng chúng tại TAND huyện Hoài Đức, thành phố
Hà Nội; những giải pháp giải quyết những bất cập của các quy định này để
nâng cao hiệu quả của công tác hòa giải vụ việc dân sự trong TTDS.
Các quy định của BLTTDS về hòa giải vụ việc dân sự là một đề tài
có nội dung nghiên cứu rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy vậy,
phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của
BLTTDS về hòa giải vụ việc dân sự trước khi mở phiên tòa, phiên họp dân
sự với ý nghĩa là một bộ phận của PLTTDS nhằm làm rõ những nội dung cơ
bản của chúng và thực tiễn thực hiện chúng tại TAND huyện Hoài Đức,
thành phố Hà Nội.
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu làm rõ thêm những
vấn đề lý luận về hòa giải, phân tích làm rõ nội dung các quy định về hòa giải
vụ việc dân sự trong BLTTDS cũng như thực tiễn áp dụng những quy định
này tại TAND huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội; từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
hòa giải trong TTDS.
Để đạt được những mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có những
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những cơ sở lý luận của việc giải quyết vụ việc dân sự
bằng phương thức hòa giải tại Tòa án; nghiên cứu nội dung các quy định của
BLTTDS về hòa giải vụ việc dân sự.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về hòa giải

vụ việc dân sự tại TAND huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

10


- Nhận diện những tồn tại, bất cập của các quy định của BLTTDS về
hòa giải vụ việc dân sự và tìm ra những giải pháp hoàn thiện các quy định của
BLTTDS về hòa giải vụ việc dân sự.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra,
việc nghiên cứu đề tài không tách rời các chế định khác của PLTTDS nói
riêng và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phân tích, chứng
minh, tổng hợp, diễn giải, so sánh, điều tra xã hội, lôgíc, lịch sử...
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
Có thể nói rằng, từ khi BLTTDS có hiệu lực đến nay, luận văn này là
công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có
hệ thống các quy định về hòa giải của Bộ luật này. Vì vậy, luận văn có những
đóng góp mới về mặt khoa học là:
- Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về hòa giải vụ việc dân sự;
- Đánh giá đầy đủ thực trạng của các quy định về hòa giải của BLTTDS,
chỉ ra những vướng mắc trong quá trình áp dụng và những tồn tại, bất cập
của chúng.
- Đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của BLTTDS về
hòa giải vụ việc dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về chế định hòa giải vụ việc dân sự trong pháp

luật tố tụng dân sự Việt Nam

11


Chương 2: Nội dung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt
Nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự Việt Nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Hoài
Đức, thành phố Hà Nội và kiến nghị.

12


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, CƠ SỞ VÀ VAI TRÒ CỦA CHẾ ĐỊNH HÒA GIẢI VỤ
VIỆC DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm chế định hòa giải vụ việc dân sự trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam
Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông thường, khi bắt đầu xảy ra
tranh chấp, các bên tranh chấp sẽ cố gắng trực tiếp gặp nhau để dàn xếp, đàm
phán, thương lượng. Nếu không có kết quả, họ sẽ tìm đến người thứ ba để
giúp họ giải quyết tranh chấp. Người thứ ba mà họ tìm đến trước tiên sẽ
không phải là những người xa lạ mà chính là những người gần gũi nhất của
hai bên. Nếu những người thân không giúp họ tự hòa giải được, họ sẽ tìm gặp

và nhờ cậy các hòa giải viên cơ sở hoặc những người làm việc ở chính quyền
và đoàn thể cấp cơ sở mà họ tin tưởng. Việc giải quyết tranh chấp nếu chỉ
dừng lại ở các cấp độ như trên thì đó là giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng.
Nếu các bên không tự thương lượng và hòa giải được với nhau thì họ
sẽ buộc phải khởi kiện ra Tòa án. Tuy nhiên, pháp luật không quy định bắt
buộc các đương sự đều phải khởi kiện ra Tòa. Họ có quyền khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp hoặc không khởi kiện. Tại Điều 4 của BLTTDS
quy định: "Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự,
yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác". Nếu các
bên tranh chấp lựa chọn hình thức khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
lợi của mình thì trong suốt quá trình tham gia tố tụng, họ vẫn có quyền tự

13


định đoạt quyền lợi của mình. Khoản 2 Điều 5 của BLTTDS quy định:
"Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội" [34]. Điều đó có nghĩa là để giải
quyết vụ việc dân sự, ngoài việc xét xử, Tòa án có thể hòa giải để giúp các
bên đương sự thỏa thuận giải quyết vụ việc. Trong hòa giải, Tòa án cũng là
người thứ ba trong việc giải quyết các tranh chấp. Song vai trò người thứ ba
của Tòa án không chỉ dừng lại ở việc tư vấn, đề xuất phương án giải quyết
tranh chấp như Hòa giải viên mà pháp luật còn giao cho Tòa án quyền quyết
định cuối cùng đối với vụ việc, nếu các bên tranh chấp không tự thỏa thuận
được.
Như vậy, hòa giải vụ việc dân sự là một phương thức giải quyết vụ
việc dân sự của Tòa án. Tuy vậy, vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về hòa
giải vụ việc dân sự. Có quan điểm cho rằng: Hòa giải trong giải quyết tranh

chấp tại Tòa án là cách thức tích hợp hòa giải vào tố tụng tư pháp với vai trò
của Tòa án là người trung gian thứ ba giúp đề xuất các cách giải quyết thân
thiện để hai bên tự thỏa thuận, đồng thời công nhận giá trị pháp lý và bảo đảm
thi hành bằng sức mạnh của Nhà nước kết quả thỏa thuận của các bên [18, tr.
21]. Có quan điểm lại cho rằng: Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do
Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải
quyết vụ án dân sự [61, tr. 257].
Cũng có quan điểm cho rằng: Hòa giải trong TTDS là một cách thức
giải quyết các tranh chấp dân sự được pháp luật quy định theo một trình tự
và thủ tục nhất định, theo đó Tòa án giải thích pháp luật làm cho các bên
hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ tranh chấp nhằm mục
đích hướng các đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về giải quyết tranh
chấp giữa họ [16, tr. 43].

14


Từ những quan điểm đã nêu và các quy định của pháp luật hiện hành
cho thấy hòa giải trong TTDS có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hòa giải là một nguyên tắc, thủ tục của quá trình giải quyết
vụ việc dân sự.
Hòa giải đã được PLTTDS Việt Nam quy định là một nguyên tắc, thủ
tục của quá trình giải quyết vụ việc dân sự để các đương sự thực hiện quyền
tự định đoạt của mình và tạo cơ hội rút ngắn thời gian tố tụng, đồng thời góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án. Theo Điều 10 của BLTTDS:
"Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các
đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định
của Bộ luật này". Theo Điều 180 của BLTTDS: "Trong thời hạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc

không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật
này" [34]. Như vậy, hòa giải là một thủ tục bắt buộc trước khi xét xử sơ thẩm
đối với những vụ việc dân sự mà pháp luật quy định phải hòa giải.
Thứ hai, Tòa án là chủ thể trung gian tiến hành hòa giải.
Tòa án tham gia hòa giải với vai trò là chủ thể trung gian trong suốt
quá trình giải quyết vụ việc dân sự không chỉ bảo đảm quyền tự định đoạt của
các đương sự mà còn bảo đảm tính pháp lý của hòa giải. Tòa án là người chủ
động triệu tập đương sự để mở phiên hòa giải. Trong quá trình hòa giải, Tòa
án mà đại diện là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc có nhiệm vụ
giải thích pháp luật liên quan đến quan hệ tranh chấp, phân tích những vướng
mắc của các bên đương sự, đề xuất các phương án để đương sự tự thỏa thuận
với nhau về giải quyết vụ việc. Kết quả của hòa giải được Tòa án công nhận.
Như vậy, sự có mặt của Tòa án trong hòa giải khẳng định vị trí trung gian của
Tòa án trong quá trình hòa giải các vụ việc dân sự tại Tòa án.
Thứ ba, hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự.

15


Khi đương sự đã khởi kiện đến Tòa án thì Tòa án là người chủ động
tiến hành các bước trong quá trình tố tụng. Song các đương sự mới là chủ thể
của các quan hệ pháp luật về nội dung có tranh chấp cần giải quyết nên họ có
quyền thương lượng, điều đình với nhau trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, vấn đề thương lượng, điều đình phải xuất phát từ ý chí chủ quan
và sự tự nguyện của chính đương sự. Không ai, bằng bất kỳ hình thức nào có
thể cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa thuận với nhau giải quyết những mâu
thuẫn, tranh chấp trái với ý chí của họ.
Quyền tự định đoạt của các đương sự là cơ sở của hòa giải. Vì vậy, chỉ
có các đương sự mới có quyền thỏa thuận quyết định về việc giải quyết các
vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ trong quá trình hòa giải vụ việc

dân sự. Đây là điểm khác biệt giữa xét xử và hòa giải. Khi xét xử, Tòa án giữ
vai trò chủ động, quyết định các đương sự phải tuân thủ mọi phán quyết của
Tòa án. Ngược lại, khi hòa giải, Tòa án chỉ có vai trò là người trung gian giúp
các đương sự tự thỏa thuận với nhau mà không được can thiệp vào thỏa thuận
đó. Cũng chính vì hòa giải là sự tự thỏa thuận của các đương sự nên quyết
định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có hiệu lực thi hành ngay, không
bị kháng cáo hoặc kháng nghị như phán quyết của Tòa án.
Thứ tư, hòa giải các vụ việc dân sự được tiến hành theo trình tự, thủ
tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Khi tiến hành hòa giải, Tòa án và các đương sự phải tuân thủ theo
những quy định của pháp luật. Việc quy định trình tự, thủ tục hòa giải trong
TTDS nhằm đảm bảo tính khách quan, công bằng trong hoạt động hòa giải
của Tòa án và bảo đảm hiệu quả của hòa giải vụ việc dân sự. Khi hòa giải vụ
việc dân sự phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nếu
việc hòa giải vượt ra ngoài phạm vi những quy định của pháp luật thì kết quả
hòa giải sẽ không được chấp nhận. Chẳng hạn, nếu quá trình hòa giải chỉ có
các đương sự và Thư ký tòa án, vắng mặt Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải thì

16


phiên hòa giải đó đã vi phạm nghiêm trọng tố tụng và kết quả hòa giải sẽ
không được chấp nhận.
Thứ năm, nội dung của hòa giải không được trái với những quy định
của pháp luật và đạo đức xã hội.
Mặc dù các đương sự được tự do thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết toàn bộ các vấn đề của vụ việc dân sự có tranh chấp nhưng không được
trái pháp luật và đạo đức xã hội. Khi bắt đầu phiên hòa giải, Thẩm phán chủ
trì phiên hòa giải phải có trách nhiệm giải thích pháp luật và hướng dẫn các
đương sự thỏa thuận để họ không có những thỏa thuận trái với những quy

định của pháp luật và đạo đức xã hội. Trường hợp các đương sự thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự thì Thẩm phán cần kiểm tra
lại. Nếu sự thỏa thuận của họ không trái với những quy định của pháp luật và
đạo đức xã hội thì mới ra quyết định công nhận.
Như vậy, có thể thấy rằng hòa giải trong TTDS có rất nhiều đặc trưng
khác biệt so với hòa giải ngoài tố tụng. Mặc dù kết quả hòa giải là sự tự
nguyện thỏa thuận của các đương sự, nhưng sự tự nguyện thỏa thuận đó phải
phù hợp với những quy định của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội và
được Tòa án công nhận. Ngược lại, Tòa án là người chủ động mở phiên hòa
giải, hướng dẫn và tạo điều kiện để các đương sự tự nguyện thỏa thuận với
nhau nhưng mọi hoạt động của Tòa án cũng không thể vượt ra ngoài những
quy định của pháp luật. Quá trình hòa giải phát sinh các mối quan hệ khác
nhau giữa Tòa án và những chủ thể tham gia vào quá trình này. Để đảm bảo
sự công bằng, tính đúng đắn và minh bạch của hòa giải trong TTDS thì cần
phải có một hành lang pháp lý cho hoạt động này. Tức là Nhà nước phải đặt
ra các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình
hòa giải. Tập hợp các quy định này tạo thành chế định hòa giải trong
PLTTDS. Chế định hòa giải trong PLTTDS không chỉ bao gồm những quy

17


định về hòa giải trong các văn bản chuyên biệt về tố tụng dân sự mà còn bao
gồm cả các quy định trong các văn bản khác có liên quan. Do vậy, có thể đưa
ra định nghĩa về chế định hoà giải trong PLTTDS như sau:
Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự là tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hòa giải các
vụ việc dân sự, là cơ sở để Tòa án tiến hành hòa giải và giúp đỡ các đương sự
tự nguyện thỏa thuận với nhau, bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh
chóng, đúng đắn, phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.

1.1.2. Cơ sở của chế định hòa giải vụ việc dân sự trong tố tụng dân
sự Việt Nam
1.1.2.1. Cơ sở lý luận
Chế định hòa giải là một bộ phận của PLTTDS nói riêng và hệ thống
pháp luật nói chung và là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng trong mối
quan hệ biện chứng với cơ sở hạ tầng của xã hội. Vì vậy, chế định hòa giải
trong PLTTDS được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - xã hội, phù
hợp với mỗi một giai đoạn phát triển của đất nước.
Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam đã khẳng định tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của nhân dân
ta. Tuy nhiên, trong cuộc sống thường ngày không thể tránh khỏi những mâu
thuẫn và tranh chấp phát sinh. Song mỗi khi tranh chấp xảy ra, điều đầu tiên mà
các bên nghĩ đến đó là thương lượng, hòa giải để mâu thuẫn được điều hòa. Họ
có thể chấp nhận thiệt thòi một chút để giữ lại tình cảm gia đình hoặc tình làng
nghĩa xóm. Nếu các bên không thể tự hòa giải được, họ sẽ tìm đến người thứ ba
để đứng ra làm trung gian giúp các bên thỏa thuận. Ban đầu, họ tìm đến những
người "cao niên, đức độ" trong họ mạc, làng xã để nhờ họ giúp đỡ. Với mức độ
này, các bên có thể vì nể trọng người trung gian mà nghe lời khuyên của họ,
giải quyết dứt điểm mâu thuẫn. Trường hợp hòa giải nội bộ không thành, các

18


bên tranh chấp sẽ phải nhờ đến sự hỗ trợ của các cơ quan và tổ chức. Khi các
cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp, bước đầu tiên mà họ tiến hành vẫn là
hòa giải để các bên tự thỏa thuận với nhau. Thậm chí, Tòa án là cơ quan xét xử
nhưng trong giải quyết tranh chấp dân sự thì mục tiêu hòa giải vẫn được đặt lên
hàng đầu. Như vậy, hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp được áp
dụng rộng rãi, phổ biến. Hòa giải góp phần tăng cường sự hiểu biết và hòa hợp
chứ không làm tăng thêm sự căng thẳng, đối đầu giữa các bên tranh chấp, góp

phần giữ gìn sự hòa thuận, yên vui cho từng gia đình, làng xóm, sự hòa hợp của
cộng đồng dân tộc, tạo nên nội lực phát triển bền vững của đất nước. Vì thế,
hòa giải được hình thành một cách khách quan từ nhu cầu của đời sống xã hội
và cơ sở của hòa giải chính là quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp.
Trong thời đại ngày nay, khi xã hội dân sự ngày càng được coi trọng
thì hòa giải vẫn tiếp tục được duy trì và phát huy tác dụng. Hòa giải không chỉ
thể hiện trình độ văn hóa trong quan hệ xã hội mà còn góp phần nâng cao chất
lượng của nền tư pháp nói chung và của hoạt động xét xử nói riêng. Hòa nhịp
với phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", mỗi
cán bộ làm công tác xét xử cần phải ghi nhớ lời dạy của Bác: "Xét xử đúng là
tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn" [1].
Cũng như các quan hệ xã hội khác, các quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực hòa giải được Nhà nước thừa nhận và điều chỉnh bằng các quy phạm
pháp luật. Các quy phạm pháp luật về hòa giải trong quá trình giải quyết các
tranh chấp dân sự tạo nên chế định hòa giải trong TTDS.
Chế định hòa giải trong PLTTDS không chỉ đơn thuần mang tính chất
giai cấp của thể chế chính trị đương thời mà nó còn mang ý nghĩa xã hội sâu
sắc. Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định
của pháp luật được khuyến khích. "Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự" [35]. Quy định này

19


không chỉ thể hiện việc Nhà nước bảo vệ quyền tự định đoạt của mỗi cá nhân
mà còn là cơ sở quan trọng cho sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội, chế định hòa giải trong
TTDS được hình thành và hoàn thiện dần, từ chỗ chỉ là những quy định sơ
khai ban đầu đã phát triển thành một bộ phận quan trọng của PLTTDS.
BLTTDS được ban hành đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc

của PLTTDS; đồng thời cũng khẳng định sự ra đời của chế định hòa giải
trong TTDS là một tất yếu khách quan.
1.1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong đời sống pháp luật, thực tiễn xét xử đã khẳng định hòa giải là
một biện pháp truyền thống quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp
dân sự.
Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, quan niệm
"lấy hòa làm trọng" đã hằn sâu thành lối mòn trong cách suy nghĩ của các vị
lãnh tụ và nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm nổi tiếng Đại cáo Bình Ngô
của Nguyễn Trãi đã viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Sự yên dân ở đây
không có nghĩa là mị dân mà chính là sự hòa bình của dân tộc, sự hòa thuận,
bình yên của mỗi gia đình, mỗi làng xóm và của toàn xã hội. Từ thuở xa xưa,
trong xã hội hễ xảy ra mâu thuẫn, trước hết các bên đều tìm phương án giải
hòa với nhau. Nếu việc giải hòa thất bại thì họ mới tìm đến những phương án
giải quyết tranh chấp tiếp theo. Có thể nói rằng, hòa giải đã trở thành một
truyền thống tốt đẹp, góp phần giải quyết các tranh chấp một cách triệt để,
củng cố khối đoàn kết cộng đồng của toàn dân Việt Nam. Hòa giải đã được ghi
nhận trong pháp luật như một biện pháp giải quyết tranh chấp hữu hiệu nhất.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời đã chú trọng xây dựng hệ thống pháp luật mới, trong đó vẫn
duy trì và phát huy biện pháp hòa giải trong giải quyết tranh chấp, đặc biệt là

20


các tranh chấp dân sự. Thực tiễn hoạt động xét xử của TAND các cấp đã cho
thấy thông qua biện pháp hòa giải, một số lượng lớn vụ việc dân sự đã được
giải quyết nhanh chóng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan xét xử.
Tổng kết công tác xét xử hàng năm của TANDTC đã chỉ rõ tầm quan

trọng của công tác hòa giải trong giải quyết các vụ việc dân sự. Việc hòa giải
thành vừa đảm bảo nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự nếu
sự thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội, lại vừa đảm bảo giải
quyết nhanh gọn và triệt để vụ việc; đồng thời bảo đảm được sự đoàn kết, ổn
định trong nội bộ nhân dân. Báo cáo tổng kết công tác xét xử ngành Tòa án
năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2001 đã khẳng định:
"Kiên trì hòa giải, thuyết phục để đương sự thỏa thuận với nhau là một
phương châm công tác của ngành Tòa án" [51].
Báo cáo tổng kết công tác xét xử ngành Tòa án năm 2007 và phương
hướng nhiệm vụ công tác năm 2008 đã chỉ rõ: "Do các Tòa án đã quan tâm
làm tốt công tác hòa giải trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự nên tỷ
lệ các vụ việc dân sự được hòa giải thành chiếm 45% tổng số các vụ việc dân
sự đã giải quyết" [58]. Báo cáo tổng kết công tác xét xử ngành Tòa án năm
2008 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2009 cũng ghi nhận:
Trong quá trình giải quyết, các Tòa án luôn đảm bảo tôn trọng
quyền tự định đoạt của đương sự, coi trọng và làm tốt công tác hòa
giải, giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, qua đó góp
phần hàn gắn, củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Tỷ lệ các
vụ việc dân sự được giải quyết bằng hòa giải thành chiếm 44% [60].
Khi trả lời chất vấn tại phiên họp thứ X Quốc hội khóa VIII, cố Chánh
án TANDTC Trịnh Hồng Dương đã nhấn mạnh: "Việc dân sự cốt ở yên dân".
Có nghĩa là khi giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa án không thể chỉ cứng
nhắc tuân theo các quy định của pháp luật mà cần phải mềm dẻo, tùy cơ ứng

21


biến, tạo điều kiện để các bên đương sự tự hòa giải, cốt làm sao để sự việc
được giải quyết một cách nhanh chóng nhất và các bên không còn ý kiến thắc
mắc hay khiếu kiện gì về kết quả giải quyết đó.

Trong kết luận của Chánh án TANDTC tại hội nghị sơ kết công tác thi
đua 6 tháng đầu năm 2009 đã cho thấy: Hòa giải là một thủ tục bắt buộc phải
tiến hành khi Tòa án giải quyết vụ án dân sự (trừ những vụ án quy định không
được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được). Mục đích của hòa giải là
nhằm đạt được sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết tranh chấp,
đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Hòa giải thành một vụ
án dân sự không chỉ giải quyết mâu thuẫn giữa các đương sự, củng cố đoàn
kết trong nhân dân, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
mà còn làm đơn giản thủ tục, tiết kiệm thời gian và công sức cho các đương
sự và cơ quan nhà nước. Hòa giải thành tốt là góp phần hòa giải các mâu
thuẫn, xung đột, các yếu tố gây bất đồng trong nhân dân (xung đột dòng tộc,
tôn giáo, làng xã...); rèn luyện và nâng cao bản lĩnh của người Thẩm phán,
thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ vào hoạt động xét xử: "Phụng công, thủ
pháp, chí công vô tư", "Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân". Hơn nữa, hòa
giải thành tốt còn giúp cho nhân dân đỡ tốn kém công sức, tiền của, án phí do
phải theo kiện, tập trung thời gian vào lao động sản xuất, ổn định đời sống.
Đặc biệt, làm tốt công tác hòa giải thành thì lượng án mà Tòa án các cấp bị
hủy, sửa sẽ giảm đi rất lớn; ý nghĩa lớn hơn nữa là góp phần nâng cao vị thế
của Tòa án trong hệ thống chính trị và trong xã hội, củng cố niềm tin của
Đảng, của nhân dân đối với ngành Tòa án chúng ta. Về phương thức, biện
pháp để tiến hành hòa giải, TAND thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đã
có sáng kiến, cách làm hay nên đạt hiệu quả hòa giải thành tốt. Ngay từ khâu
thụ lý, Thẩm phán đã phải nghiên cứu hồ sơ các vụ án một cách kỹ lưỡng; phát
huy vai trò của Hội thẩm nhân dân có chuyên môn sâu trong từng lĩnh vực; tranh
thủ sự hỗ trợ của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội ở địa
phương như: Hội Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh

22



niên, thậm chí mời cả đại diện hai bên nội, ngoại của đương sự cùng tham gia
vào phiên hòa giải để giúp cho việc xét xử của Tòa án đạt hiệu quả tốt. Các
đơn vị TAND có tỷ lệ hòa giải thành cao trong Cụm thi đua số III đáng được
biểu dương là: TAND tỉnh Quảng Nam đạt 52,96%, TAND tỉnh Quảng Trị
đạt 67,46% [2].
Từ thực tiễn xét xử của TAND các cấp đã khẳng định hòa giải là một
trong những biện pháp quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc dân sự cần
được tiếp tục duy trì và phát triển. Thông qua thực tiễn này, chế định hòa giải
trong TTDS được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đáp ứng với yêu cầu của đời
sống xã hội đặt ra.
Ngoài ra, ở nhiều nước, hòa giải cũng được coi là chế định quan trọng
của PLTTDS. Điều 21 của BLTTDS Cộng hòa Pháp quy định: "Thẩm phán
có trách nhiệm hòa giải các bên đương sự" [3]. Một trong năm vấn đề cải cách
TTDS của Pháp hiện nay là tăng cường, khuyến khích hòa giải và thỏa thuận.
Hòa giải được tiến hành trước khi xét xử cũng như trong quá trình tiến hành
các thủ tục tố tụng tiếp theo. Theo BLTTDS Liên bang Nga, việc hòa giải các
tranh chấp dân sự được các cơ quan xét xử hết sức chú trọng. Bên cạnh việc
củng cố "Tòa án đồng chí", PLTTDS Nga đã hình thành chế định "Thẩm phán
hòa giải". Tại Điều 23 quy định về thẩm quyền của Thẩm phán hòa giải [64].
Theo đó, thẩm quyền hòa giải các vụ việc dân sự được quy định một cách cụ thể,
phạm vi rộng, tạo điều kiện cho việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp dân
sự trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự. Ngay ở Trung
Quốc - một nước láng giềng gần gũi nhất của nước ta cũng coi hòa giải là một
biện pháp giải quyết tranh chấp hữu hiệu trong hoạt động của Tòa án từ trước
năm 1949. Từ sau tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
được thành lập, hòa giải vẫn được coi trọng và ngày càng phát triển. Tại Điều 9
của BLTTDS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1991 quy định: "Tòa án nhân
dân giải quyết các vụ án dân sự phải tiến hành hòa giải theo nguyên tắc tự
nguyện và hợp pháp. Trường hợp không hòa giải được thì phải kịp thời xét


23


×