1
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự (TTHS), thẩm quyền của Tòa án (TA) các cấp là
một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng đợc phân định rõ ràng, khoa học, sát
với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan, chính xác, đúng
ngời, đúng tội bấy nhiêu. Với tầm quan trọng đó, các quy phạm pháp luật về
thẩm quyền của TA luôn luôn đợc chú ý từ khi ban hành pháp luật. Bộ luật Tố
tụng hình sự (BLTTHS) của nớc ta quy định tơng đối đầy đủ các quy phạm pháp
luật về thẩm quyền của TA các cấp. Việc áp dụng chúng hơn 10 năm qua tạo điều
kiện cho TA các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự. Tuy
nhiên, do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, trớc yêu cầu đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan t pháp, một số quy định về thẩm quyền của
TA các cấp bộc lộ nhiều điểm bất cập không còn phù hợp gây khó khăn cho hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND). Đó là sự phân định thẩm quyền xét
xử giữa TA cấp huyện và TA cấp tỉnh không hợp lý, vẫn giao cho TA cấp tỉnh xét
xử sơ thẩm quá nhiều việc nên tình trạng tồn đọng án từ năm này sang năm khác
còn nhiều. Ngoài ra, một số quy định của BLTTHS không cụ thể, các văn bản h-
ớng dẫn chậm đợc ban hành nên việc nhận thức và áp dụng vào thực tiễn xét xử
vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm; phạm vi xét xử phúc thẩm; giám đốc thẩm, tái
thẩm; quyền hạn của TA cấp phúc thẩm và Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm ch-
a thống nhất.
Thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy có nhiều tội phạm ít nghiêm trọng,
ngời phạm tội bị bắt quả tang, chứng cứ rõ ràng rất cần thiết phải đợc giải quyết
theo thủ tục rút gọn, nhiều vụ án qua xét xử sơ thẩm bị cáo đã nhận tội, không
kháng cáo kêu oan chỉ xin giảm nhẹ, Viện kiểm sát (VKS) không kháng nghị,
ngời bị hại không kháng cáo theo hớng tăng nặng nên không cần triệu tập ngời
tham gia tố tụng đến phiên tòa mà chỉ cần xét xử dựa trên hồ sơ, giảm bớt một số
2
thủ tục trong xét xử để vụ án đợc kết thúc nhanh, tiết kiệm công sức mà vẫn đảm
bảo tính công minh, chính xác, đúng pháp luật của bản án. Nhng pháp luật tố
tụng không quy định thủ tục rút gọn, thủ tục xét xử phúc thẩm dựa trên hồ sơ vụ
án nên những vụ án đó vẫn đợc tiến hành theo thủ tục thông thờng dẫn đến kéo
dài thời gian giải quyết vụ án một cách không cần thiết. Để nhanh chóng phát
hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, tiết kiệm thời gian và công sức cần
nghiên cứu quy định thủ tục rút gọn và xét xử phúc thẩm theo thủ tục bút lục
trong pháp luật TTHS.
Hiện nay, cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội, các cơ
quan t pháp cũng đợc đổi mới theo hớng tăng cờng hiệu quả, chất lợng hoạt
động. Đối với TAND, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ơng (BCHTW) Đảng đã
có chỉ thị cụ thể về việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động theo hớng
"từng bớc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện trên cơ sở
kiện toàn tổ chức và cán bộ cho TA cấp này. Kiện toàn đến đâu, mở rộng thẩm
quyền xét xử đến đó" [1]. Các Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khóa
VII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII, Nghị quyết
hội nghị lần 3 BCHTW Đảng khóa VIII đều chỉ rõ phơng hớng củng cố, kiện
toàn bộ máy các cơ quan t pháp, phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND;
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng
định phải "cải cách tổ chức, nâng cao chất lợng và hoạt động của các cơ quan t
pháp sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của TA các
cấp". Vì vậy, việc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về thẩm quyền của TA, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện thẩm
quyền của TA các cấp để nâng cao chất lợng xét xử là một yêu cầu cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chủ trơng của Đảng và Nhà nớc về "cải cách tổ chức, nâng cao
chất lợng và hoạt động của các cơ quan t pháp sắp xếp lại hệ thống TAND,
phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án các cấp", đã có nhiều công trình khoa
3
học, nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở những mức độ khác nhau đề cập
đến các vấn đề về tổ chức và hoạt động của TA, thủ tục tố tụng, thẩm quyền của TA
mỗi cấp Trong số các công trình nghiên cứu khoa học phải kể đến Đề tài khoa học
cấp Bộ "Nâng cao chất lợng hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn
giám đốc thẩm" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) năm 1997 đã đề
cập nhiều về thực trạng xét xử giám đốc thẩm; đề án "Đổi mới công tác đào tạo và
bồi dỡng cán bộ t pháp" của Bộ T pháp về vấn đề đào tạo Thẩm phán. Các công
trình khoa học: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự
Việt Nam" của VKSNDTC năm 1995; "T pháp hình sự so sánh" của Viện Nghiên
cứu khoa học pháp lý, 1999; "Tìm hiểu về nhà nớc pháp quyền" của tập thể tác giả
Viện Nhà nớc và Pháp luật do PGS.TSKH Đào Trí úc làm chủ biên. Các bài viết
của GS.TS Hoàng Văn Hảo "Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực
nhà nớc"; PGS.TS Trần Ngọc Đờng "Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân"
trong cuốn "Tìm hiểu về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc theo
Hiến pháp năm 1992", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994 đã nêu bật
cơ sở lý luận của việc tổ chức nhà nớc, thẩm quyền của TA và cơ quan t pháp. Một
số luận văn thạc sĩ luật chuyên ngành hình sự đợc công bố trong thời gian qua đã
nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về thẩm quyền của TA các cấp. Đó là luận
văn của ThS. Đàm Văn Dũng về "Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự" năm
1998, luận văn của ThS. Trần Văn Tín về "Giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự"
năm 1997, luận văn của ThS. Nguyễn Văn Tiến về "Thẩm quyền của TA cấp phúc
thẩm trong tố tụng hình sự" năm 1998, luận văn của ThS. Nguyễn Văn Trợng về
"Giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự" năm 1996. Đối với thẩm quyền xét xử
sơ thẩm của TAND và TAQS các cấp, chúng tôi cũng có dịp nghiên cứu và đã viết
luận văn thạc sĩ về vấn đề này từ năm 1996.
Về những vấn đề liên quan đến đề tài đã có các bài viết của TS. Nguyễn
Đình Lộc: "Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan t pháp ở nớc
ta", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6/1995; Phạm Hng: "Tiếp tục đổi mới tổ
4
chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân", Tạp chí Cộng sản, số 16/1997;
TS. Nguyễn Văn Hiện: "Về thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn thiện thẩm quyền
xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án các cấp", "Vấn đề giới hạn
xét xử của Tòa án nhân dân", Tạp chí TAND, số 4/1997 và 8/1999; TS. Đặng
Quang Phơng: "Tìm hiểu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về rút truy tố",
Tạp chí TAND, số 4/1992; TSKH. Lê Cảm: "Các đặc điểm của tội phạm và tính
quyết định xã hội của chúng", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7/2000; PGS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa: "Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam - Một số
vấn đề lý luận", Tạp chí TAND, số 1/1993; PGS.TS Kiều Đình Thụ: "Một số vấn
đề về phân loại tội phạm trong phần chung của luật hình sự", Tạp chí TAND, số
2/1992; TS. Võ Khánh Vinh: "Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm khi quyết định hình phạt", Tạp chí TAND, số 12/1990; TS. Trần
Văn Độ: "Một số vấn đề về tái thẩm", "Về các căn cứ đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án các cấp", Tạp chí Luật học, số 3/1995 và 3/1997; TS. Phạm
Hồng Hải: "Một số nét lịch sử và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam
trong 50 năm qua", "Bàn về quyền công tố", Tạp chí Nhà nớc và Pháp luật, số
3/1995 và 12/1999 và một số bài khác. Các công trình đã phân tích ở nhiều khía
cạnh khác nhau về tổ chức và hoạt động của TA, lịch sử phát triển, thủ tục tố tụng
trong xét xử, thẩm quyền xét xử.
Mặc dù đã có một số công trình, bài viết đợc công bố, nhng cho đến nay
cha có một công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về thẩm quyền
của TA các cấp. Các công trình, bài viết mới dừng lại ở những nội dung khác nhau,
phân tích theo từng góc độ nhất định về thẩm quyền của TA. Luận án là công
trình khoa học đầu tiên nghiên cứu toàn diện cả về cơ sở lý luận cũng nh thực tiễn
vấn đề "Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam".
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS, thực tiễn xét xử
của TA, mục đích của luận án nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, bản
5
chất, nội dung của chế định thẩm quyền của TA các cấp, chỉ ra những điểm
không hợp lý, những vớng mắc khi áp dụng chúng, qua đó đề xuất những giải
pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS về thẩm quyền của TA các cấp,
kiện toàn về tổ chức và cán bộ, tăng cờng các biện pháp bảo đảm để thực hiện
thẩm quyền.
Để đạt đợc mục đích trên luận án có nhiệm vụ:
- Phân tích những vấn đề lý luận để làm rõ các quan niệm, quan điểm
khoa học, nhận thức chung về thẩm quyền của TA trong TTHS; luận giải những
căn cứ để quy định thẩm quyền của TA. Đây là cơ sở khoa học để dựa vào đó
phân định thẩm quyền cho TA các cấp.
- Phân tích quá trình hình thành, phát triển các quy định của pháp luật
TTHS về thẩm quyền của TA các cấp trớc khi ban hành BLTTHS làm tiền đề cho
việc nghiên cứu đánh giá các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật
TTHS sau này.
- Phân tích các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử,
giới hạn, phạm vi xét xử, thẩm quyền quyết định của TA các cấp; làm rõ thực tiễn
áp dụng các quy định đó, chỉ ra những vớng mắc trong quá trình thực hiện,
những bất cập của pháp luật cần bổ sung, sửa đổi.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định
của BLTHS về thẩm quyền của TA các cấp.
4. Phạm vi, đối tợng nghiên cứu của luận án
Thẩm quyền của TA là một chế định lớn trong luật TTHS. Tính phức tạp
và nhiều mặt về nội dung, về sự thể hiện của nó ở các giai đoạn xét xử không cho
phép trong phạm vi của một luận án tiến sĩ xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề.
Do vậy, luận án chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nội dung thẩm quyền xét xử,
giới hạn và phạm vi xét xử, thẩm quyền quyết định của TA các cấp (riêng thẩm
quyền tái thẩm, luận án chỉ nghiên cứu những nét khái quát nhất). Việc nghiên
6
cứu thẩm quyền: áp dụng biện pháp ngăn chặn; kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm; xem xét chứng cứ và thẩm quyền xử lý hành chính của TA,
chúng tôi hy vọng đợc nghiên cứu tiếp về sau.
Với phạm vi trên, đối tợng nghiên cứu của đề tài là thẩm quyền xét xử,
giới hạn, phạm vi xét xử và thẩm quyền quyết định của TA các cấp, trong đó luận
án tập trung nghiên cứu nhiều hơn về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vì nó là cơ sở
xác định thẩm quyền của TA các cấp.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận án là triết học Mác -
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh về Nhà nớc và pháp luật, những quan điểm của Đảng
và Nhà nớc ta về xây dựng Nhà nớc pháp quyền về cải cách t pháp và cải cách
nền hành chính quốc gia.
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử của TA các cấp trên cơ
sở khảo sát nghiên cứu một số lợng lớn các vụ án do các TAND, Tòa án Quân sự
(TAQS) xét xử, các số liệu thống kê về xét xử, về tổ chức cán bộ của các cơ quan
chức năng nh TANDTC, VKSNDTC, Bộ T pháp v.v để đánh giá, chỉ rõ những
bất cập trong các quy định của pháp luật để kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù
hợp.
Phơng pháp nghiên cứu đề tài cụ thể là đi từ cái chung đến cái riêng và các
phơng pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống khác nh: Phơng pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, tiếp cận hệ thống, lịch sử, điều tra xã hội học và ph-
ơng pháp thống kê v.v
6. Những vấn đề mới của luận án
Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học TTHS nghiên
cứu một cách toàn diện, hệ thống về thẩm quyền của TA các cấp. Luận án có
những điểm mới sau:
- Luận án làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thẩm quyền của TA; góp phần thống
nhất nhận thức về nội dung, bản chất chế định thẩm quyền của TA. Luận án đã
7
luận giải những căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc phân định thẩm quyền của
TA các cấp. Những căn cứ này giúp cho các nhà lập pháp có điều kiện lựa chọn,
cân nhắc để tìm ra phơng án tối u khi quy định thẩm quyền cho TA các cấp.
- Luận án phân tích lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp
luật TTHS về thẩm quyền của TA các cấp trớc khi ban hành BLTTHS làm tiền đề
cho việc nghiên cứu đánh giá các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật
TTHS sau này.
- Luận án phân tích các quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA
các cấp, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về thẩm quyền của TA khi xét
xử và chỉ ra những bất cập cần phải bổ sung, sửa đổi.
Trên cơ sở nghiên cứu, luận án đề xuất những giải pháp hoàn thiện các
quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền của TA, những biện pháp kiện toàn tổ
chức và cán bộ, bảo đảm cơ sở vật chất để các TA thực hiện thẩm quyền. Các giải
pháp mà luận án đa ra góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực của TA
các cấp và việc sửa đổi, bổ sung toàn diện BLTTHS trong thời gian tới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Các kết quả nghiên cứu của luận án là những bổ sung quan trọng vào lý
luận về thẩm quyền của TA, góp phần thống nhất nhận thức về bản chất, nội
dung chế định thẩm quyền của TA. Trên cơ sở đó có cách nhìn nhận, đánh giá
khoa học thấy rõ những mặt đợc, những điểm còn tồn tại bất cập của các quy
định về thẩm quyền của TA trong pháp luật TTHS.
Dựa vào những căn cứ khoa học đề cập trong luận án, các nhà làm luật có
điều kiện cân nhắc để tìm ra một phơng án tốt nhất khi sửa đổi, bổ sung các quy
định của BLTTHS về thẩm quyền của TA.
Bằng các kết quả nghiên cứu, luận án góp phần khẳng định chủ trơng,
quan điểm của Đảng về kiện toàn tổ chức, sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định
hợp lý thẩm quyền của TA các cấp theo hớng từng bớc mở rộng thẩm quyền xét
8
xử của TA cấp huyện trên cơ sở kiện toàn tổ chức và cán bộ để việc xét xử sơ
thẩm đợc thực hiện chủ yếu ở TA cấp này, TA cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm,
TANDTC chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hớng dẫn
các TA các địa phơng áp dụng thống nhất pháp luật là hoàn toàn đúng đắn, phù
hợp với sự trởng thành, phát triển của TA cấp huyện, phù hợp với thực tiễn xét xử,
yêu cầu của xã hội và pháp luật quốc tế.
Với những đề xuất, kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
luật, kiện toàn tổ chức và cán bộ, tăng cờng các biện pháp bảo đảm thực hiện
thẩm quyền của TA, luận án có những đóng góp nhất định vào công cuộc cải
cách t pháp đang đợc thực hiện ở nớc ta.
Luận án có thể đợc dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và học tập
trong các cơ sở đào tạo luật và nghề t pháp.
8. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án đợc chia thành 3 chơng, 8 mục.
9
Chơng 1: một số vấn đề chung về thẩm quyền
của Tòa án các cấp
1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án
Từ thời kỳ cổ đại đã xuất hiện các quan niệm về Nhà nớc pháp quyền
ở những nhà t tởng. Các quan niệm này đợc đa ra để chống lại sự mơ hồ ấu
trĩ cho rằng sự công bằng, pháp luật là do trời định, lẽ phải bao giờ cũng
thuộc về kẻ mạnh Họ mơ ớc xây dựng một nhà nớc gắn liền với xã hội
công dân mà ở đó bộ máy quyền lực đợc hình thành trên cơ sở của luật,
hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, các thành viên trong xã hội hành
động phù hợp với pháp luật; luật pháp là cơ sở cho việc phân công, tổ chức
và thực hiện quyền lực nhà nớc. Để thực hiện đợc sự mơ ớc đó, các nhà t t-
ởng kêu gọi mọi ngời phải đấu tranh loại bỏ chế độ nhà nớc độc đoán
chuyên quyền, xây dựng Nhà nớc có pháp luật. Nhà t tởng cổ đại Hêraclit
đã nói: "Nhân dân phải đấu tranh bảo vệ luật nh bảo vệ chỗ nơng thân của
mình thể hiện sự tôn trọng luật" [90, tr. 6].
Cùng với việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật, các nhà t tởng cổ đại
còn chú ý tới sự tổ chức hợp lý hệ thống quyền lực nhà nớc, tổ chức các cơ quan
nhà nớc với sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của các cơ quan đó. Theo họ cần
phải tổ chức nhà nớc theo nguyên tắc phân quyền. Arixtôt cho rằng trong bất kỳ
nhà nớc nào cũng đều có ba yếu tố: lập pháp, hành pháp và t pháp. Lập pháp là
quyền của cơ quan làm ra luật, hành pháp là quyền thi hành pháp luật, còn t pháp
chỉ thực hiện xét xử theo quy định của luật. Ông cho rằng ba yếu tố trên tạo
thành cơ sở của Nhà nớc. Quan niệm của ông hoàn toàn đối lập với cách tổ chức
nhà nớc mà quyền lực chỉ tập trung trong tay một ngời. Theo ông cách tổ chức
thực hiện quyền lực đó khó tránh khỏi sự lạm quyền và tùy tiện trong quản lý và
điều hành xã hội. Nhận xét về sự tùy tiện trong chế độ quân chủ chuyên chế
10
C.Mác đã viết: "Sự tùy tiện là quyền lực của nhà Vua" hay "quyền lực của Vua là
sự tùy tiện" [10, tr. 319]
Sau khi cuộc cách mạng t sản nổ ra, giai cấp t sản lên nắm chính quyền thì
một yêu cầu cấp bách đặt ra là tổ chức lại bộ máy nhà nớc thay cho hình thức
quân chủ chuyên chế. Trớc yêu cầu đó, nhà xã hội học ngời Pháp Montesquieu
thế kỷ XVIII đã nêu ra học thuyết "Tam quyền phân lập". Theo học thuyết này
thì quyền lực nhà nớc phải đợc phân chia để quyền lực hạn chế quyền lực. Mỗi
một loại cơ quan nhà nớc chỉ đợc thực hiện một loại quyền lực (quyền lập pháp,
hành pháp và t pháp) để chúng ràng buộc lẫn nhau, không cho phép cơ quan nào
đợc lạm dụng quyền lực. Theo ông, "cũng không có gì là tự do nếu quyền t pháp
không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền t pháp nhập lại
với quyền lập pháp thì ngời ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của
công dân; t pháp nhập với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh
của kẻ đàn áp" [44, tr. 101].
Học thuyết của Montesquieu về phân quyền có ảnh hởng lớn đến các quan
điểm về tổ chức nhà nớc, quá trình lập hiến và thực tiễn pháp luật của nhiều nớc
t sản. "ảnh hởng đó đợc thể hiện rõ nét trong Hiến pháp Mỹ năm 1787, trong
tuyên ngôn của Pháp về quyền con ngời và của công dân năm 1789. Đặc biệt,
tuyên ngôn 1789 nêu rõ ở Điều 16: Một xã hội trong đó không bảo đảm việc sử
dụng các quyền và không thực hiện sự phân quyền thì không có Hiến pháp" [90,
tr. 37]. Học thuyết về phân quyền đợc nhiều nhà t tởng và xã hội học của chế độ
t sản ủng hộ. Kant (1724-1804) là ngời đã lập luận về mặt triết học cho lý luận về
Nhà nớc pháp quyền cũng triệt để tán thành áp dụng thuyết phân quyền. Theo
ông thì ở đâu có sự phân quyền thì ở đó có Nhà nớc pháp quyền còn nếu không
thì là chuyên quyền. Hegel cũng cho rằng t tởng về tự do tồn tại dới chính thể
quân chủ lập hiến dựa trên cơ sở của nguyên tắc phân quyền. Ông cho rằng, "sự
phân quyền trong Nhà nớc là sự bảo đảm của tự do công cộng" [90, tr. 14].
11
J.Locke (1632-1704) thì đa ra t tởng về khế ớc xã hội ủng hộ thuyết phân quyền
và nói về vai trò chủ đạo của quyền hành pháp trong Nhà nớc.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong khi xây dựng học
thuyết của mình về Nhà nớc kiểu mới đã kế thừa những hạt nhân hợp lý của
các học thuyết chính trị và trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm đấu tranh giai
cấp để đa ra quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nớc. Đó là quyền lực nhà n-
ớc thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền
lực ấy cho cơ quan đại diện cao nhất của mình là Quốc hội nh
V.I. Lênin đã nói: "Đó không phải là một cơ quan đại nghị, mà là một cơ
quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp các nghị sĩ tự mình cộng tác,
tự mình thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng
của những pháp luật ấy, tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trớc cử tri
của mình" [83, tr. 33]. Nhng cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nớc không
trực tiếp làm tất cả mà phân công cho các cơ quan nhà nớc khác, mỗi cơ quan
có thẩm quyền hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Toàn bộ hoạt động của
các cơ quan đó đều nhằm thực hiện một chu trình quản lý nhà nớc, trong đó cơ
quan quyền lực (Quốc hội) có thẩm quyền tối cao thực hiện chức năng lập
pháp và giám sát tối cao, còn các cơ quan khác (Chính phủ, TA, VKS) thực
hiện chức năng hành pháp và t pháp. Theo GS.TS Hoàng Văn Hảo thì "sự phân
công nói trên thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nớc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Tập quyền không mâu
thuẫn với sự phân công và sự phân biệt chức năng giữa các loại cơ quan nhà n-
ớc" [72, tr. 16]. PGS.TSKH Đào Trí úc khẳng định:
Sự thống nhất đó không phải là sự tập trung quyền lực cao độ vào
một "nhánh" quyền lực nào theo kiểu phân lập quyền lực mà là sự thống
nhất ở mục tiêu chung là phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nớc, của
dân tộc sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là phơng
thức để đạt đợc sự thống nhất của quyền lực nhà nớc [81, tr. 4-5].
12
Trong nhà nớc pháp quyền, mỗi một loại cơ quan nhà nớc có chức năng
nhiệm vụ riêng. Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà
nớc do pháp luật quy định đợc hiểu là thẩm quyền của cơ quan nhà nớc đó. Ph.
Ăngghen viết: "Phân quyền xét cho cùng không phải là cái gì đó khác hơn là
phân công lao động thiết thực, đợc áp dụng trong cơ chế nhà nớc nhằm mục đích
giản đơn và kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nớc" [72, tr. 11].
Theo định nghĩa của Từ điển Luật học thì "thẩm quyền" đợc hiểu là "tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc
hệ thống bộ máy nhà nớc do pháp luật quy định" [75, tr. 459]. Khái niệm "thẩm
quyền" gồm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết định. Quyền
hành động là quyền đợc làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là
quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép. Giáo trình
Luật tố tụng hành chính Trờng Đại học Luật Hà Nội năm 2001 cũng định nghĩa:
"Thẩm quyền là quyền hạn theo pháp luật quy định, của cơ quan công quyền và
công chức giữ chức vụ nhà nớc nhất định [79, tr. 29]. Từ sự phân tích trên, ta có
thể hiểu thẩm quyền là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một tổ
chức hoặc một cán bộ, công chức nhà nớc đợc thực hiện công việc trong các lĩnh
vực và phạm vi nhất định.
Bộ máy nhà nớc ta đợc tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nớc là
thống nhất không phân chia, nhng có phân công rành mạch giữa ba quyền lập
pháp, hành pháp và t pháp. Quyền T pháp theo nghĩa rộng bao gồm cả điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án và bổ trợ t pháp đợc giao cho các CQĐT, VKS, TA
thực hiện. Trong đó "TA là biểu hiện tập trung của quyền t pháp - nơi mà kết quả
của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa v.v. đợc kiểm tra, xem xét một cách
công khai thông qua thủ tục tố tụng do luật định để đa ra những phán quyết cuối
cùng mang tính chất quyền lực nhà nớc; nơi phản ánh một cách đầy đủ và sâu
sắc nhất bản chất nền công lý của chế độ ta " [29, tr. 1]. GS.TS Hoàng Văn Hảo
cho rằng: "TA là cơ quan xét xử, là chức năng trung tâm của quyền t pháp" [91,
13
tr. 117]. TA là cơ quan đợc Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền t pháp
có chức năng xét xử để bảo vệ pháp luật, bảo đảm lẽ phải và công bằng xã hội.
Bởi vậy, quyền t pháp theo nghĩa hẹp còn đợc hiểu là quyền xét xử của TA. Thực
hiện chức năng này, TA có thẩm quyền xét xử và nhân danh Nhà nớc để ra bản
án giải quyết vụ án. Nh vậy hoạt động xét xử của TA có vai trò hết sức to lớn
trong việc bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Nhà nớc, tập thể và công dân tránh
những xâm hại của tội phạm. PGS.TS Trần Ngọc Đờng nhận xét: "Hơn bất kỳ
một dạng hoạt động nào của Nhà nớc, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu
sắc bản chất của Nhà nớc. Sai lầm của TA trong việc giải quyết vụ án chính là sai
lầm của Nhà nớc. Vì thế đòi hỏi xét xử phải chính xác công minh, thể hiện đợc ý
chí nguyện vọng của nhân dân" [72, tr. 103].
Việc nghiên cứu để đa ra một khái niệm khoa học, chính xác về thẩm
quyền của TA có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định quyền hạn thụ lý và giải
quyết từng vụ án cụ thể của TA các cấp. Khái niệm này cũng đợc đề cập trong
pháp luật của nhiều nớc trên thế giới. Tuy cách hiểu có khác nhau nhng điểm
chung về thẩm quyền đều đợc các nớc thừa nhận là quyền xét xử và quyền quyết
định của TA. ở Pháp, thẩm quyền đợc hiểu là quyền của một cơ quan nhà nớc,
một quan chức nhà nớc hay t pháp đợc làm những việc và có quyền quyết định
về những vấn đề trong phạm vi đợc pháp luật cho phép. Theo Lemeunier, tác giả
cuốn từ điển pháp luật thì thẩm quyền của TA đợc hiểu là "khả năng của một TA
xem xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép" [34, tr. 74].
ở Anh, thuật ngữ Jurisdiction đợc dùng để chỉ thẩm quyền hoặc quyền
phán quyết về một vụ việc nào đó của TA trong phạm vi pháp luật cho phép.
Theo TS. Wolf Ruecliger Schenke, Giáo s Trờng Đại học Tổng hợp Mannheim -
Cộng hòa Liên bang Đức sau khi nghiên cứu thẩm quyền của TA đã đặt vấn đề
là: "Đối với thẩm quyền của TA thì cần phân biệt sự khác nhau giữa thẩm quyền
vụ việc, địa điểm và thẩm quyền phẩm cấp" [20, tr. 227]. ở nớc ta thẩm quyền
của TA đợc hiểu theo những góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích của việc
14
nghiên cứu. Chẳng hạn, trong tố tụng dân sự, thẩm quyền chung về dân sự của
TA đợc hiểu là "tổng hợp các loại việc về dân sự mà TA có thẩm quyền thụ lý
giải quyết" [77, tr. 39]. Thẩm quyền chung về dân sự của TA phân biệt thẩm
quyền của TA với thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức khác; phân biệt thẩm
quyền của TA trong việc giải quyết các loại việc về dân sự với thẩm quyền của
TA trong việc giải quyết các loại việc khác. Trong tố tụng kinh tế, thẩm quyền
giải quyết các vụ án kinh tế đợc hiểu là "quyền và nghĩa vụ của TA kinh tế trong
lĩnh vực giải quyết các tranh chấp kinh tế" [78, tr. 422]. Trong tố tụng hành
chính, thẩm quyền của TA là "phạm vi thực hiện quyền lực nhà nớc của một chủ
thể (Tòa hành chính) để giải quyết những tranh chấp hành chính giữa một bên là
công dân và bên kia là cơ quan công quyền theo thủ tục tố tụng hành chính mà
pháp luật tố tụng hành chính đã quy định" [79, tr. 30]. Trong TTHS, ThS. Nguyễn
Đức Mai cho rằng, thẩm quyền của TA là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố
có liên quan chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về
nội dung. Thẩm quyền về hình thức đợc thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi
xem xét của TA (thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn thẩm quyền về nội
dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết, quyết định của TA đối với những vấn đề đã
đợc xem xét [39, tr. 2]. ThS. Nguyễn Văn Tiến quan niệm phạm vi - giới hạn hoạt
động của TA và quyền năng pháp lý của TA có mối liên quan chặt chẽ với nhau
tạo thành thẩm quyền của TA. Thẩm quyền của TA bao gồm: thẩm quyền xét xử,
phạm vi - giới hạn xét xử và quyền hạn quyết định của TA [71, tr. 8]. Khi nghiên
cứu thẩm quyền giám đốc thẩm các vụ án hình sự, TS. Nguyễn Văn Hiện đa ra
khái niệm thẩm quyền giám đốc thẩm là:
Tập hợp các quy phạm pháp luật TTHS liên quan đến việc giao
vụ án mà bản án có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị cho TA cấp nào
giải quyết, phạm vi các vấn đề cần giải quyết và quyền ra các quyết
định của TA cấp giám đốc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án nhằm
đạt đợc yêu cầu và mục đích của giám đốc thẩm [27, tr. 1].
15
Dới một góc độ chung hơn, Từ điển tiếng Việt định nghĩa thẩm quyền của
TA là "quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp
luật" [86, tr. 890]
Nh vậy, thẩm quyền của TA là một khái niệm có nội dung rất rộng bao
gồm nhiều quyền của TA khi giải quyết vụ án. Đó là quyền xét xử đối với từng
vụ án cụ thể, trong một phạm vi (giới hạn) do pháp luật quy định (gọi là thẩm
quyền xét xử), là quyền ra các quyết định khi xét xử vụ án (gọi là thẩm quyền
quyết định hay quyền hạn của TA). Thẩm quyền quyết định hay quyền hạn là
một nội dung quan trọng của thẩm quyền. Nói đến thẩm quyền của TA không thể
không đề cập đến quyền hạn. Thiếu nội dung quyền hạn thì quyền xét xử của TA
cũng trở thành vô nghĩa. TA xét xử nhng không có quyền ra các quyết định cụ
thể thì vụ án cha đợc giải quyết. Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt thì
quyền hạn là "quyền đợc xác định về nội dung, phạm vi, mức độ" [86, tr. 786] Từ
điển Pháp luật cũng định nghĩa, quyền hạn là "quyền đợc xác định lại trong
phạm vi không gian, thời gian, lĩnh vực hoạt động" [75, tr. 402]. Các định nghĩa
trên đều xác định nội dung quyền hạn của TA chỉ trong những phạm vi, mức độ
do pháp luật quy định. ở các thủ tục xét xử khác nhau, phạm vi, mức độ quyền
hạn của TA cũng khác nhau và đợc gọi là phạm vi xét xử và giới hạn xét xử. Theo
Từ điển Tiếng Việt thì "giới hạn" là sự hạn chế trong một mức độ nhất định, là
ranh giới phải dừng lại không đợc phép vợt qua còn "phạm vi" là lĩnh vực đợc
giới hạn cho một hành động, sự việc [86, tr. 390-738]. Trong TTHS khái niệm
"phạm vi xét xử" đợc dùng khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để
giới hạn TA cấp phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ xét xử những
vấn đề đã đợc TA cấp dới xét xử (có thể toàn bộ hoặc từng phần của vụ án); còn
"giới hạn xét xử" dùng để hạn chế TA cấp sơ thẩm chỉ đợc xét xử trong nội dung
bản cáo trạng do VKS truy tố. Xác định đúng quyền xét xử của TA trong giới hạn
và phạm vi pháp luật cho phép sẽ tạo điều kiện thuận lợi để TA thực hiện quyền
quyết định đối với các vấn đề cụ thể của vụ án. Thẩm quyền xét xử và thẩm
16
quyền quyết định của TA là hai nội dung quan trọng có mối liên hệ mật thiết với
nhau tạo thành thẩm quyền của TA. Có thể nghiên cứu thẩm quyền của TA theo
hai góc độ khác nhau: góc độ hành chính và góc độ tố tụng. Dới góc độ hành
chính nghiên cứu thẩm quyền của TA theo cách tổ chức hệ thống TA bao gồm:
Thẩm quyền của TANDTC, thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, thẩm quyền của
TAND cấp huyện và thẩm quyền các TAQS. Dới góc độ tố tụng nghiên cứu
thẩm quyền của TA theo cấp xét xử bao gồm: thẩm quyền của TA cấp sơ thẩm,
thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm.
Theo góc độ hành chính, nếu chỉ nghiên cứu thẩm quyền xét xử của TA các cấp
sẽ rất thuận lợi, nhng nghiên cứu cả thẩm quyền quyết định của TA khi xét xử
lại khó khăn vì BLTTHS chỉ quy định quyền hạn của HĐXX sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm mà không quy định quyền hạn khi xét xử cho
TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh, TANDTC hoặc TAQS. Còn dới góc độ tố
tụng sẽ có điều kiện làm rõ cả thẩm quyền xét xử và thẩm quyền quyết định của
TA các cấp. Một mặt phân biệt đợc thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa TAND cấp
tỉnh với TAND cấp huyện, giữa TAQS cấp quân khu với TAQS khu vực; phân
biệt thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm giữa TAND cấp
tỉnh với TANDTC, giữa TAQS cấp quân khu với Tòa án quân sự trung ơng
(TAQSTW). Mặt khác, cũng làm rõ đợc thẩm quyền quyết định của từng cấp
xét xử, theo đó các TA khác nhau nhng xét xử một thủ tục giống nhau đều có
thẩm quyền quyết định nh nhau. Nh vậy, dới góc độ tố tụng thì sẽ có điều kiện
nghiên cứu toàn diện cả thẩm quyền xét xử và thẩm quyền quyết định của TA
nên luận án nghiên cứu thẩm quyền của TA theo góc độ này.
1.1.1. Thẩm quyền xét xử
Điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức TA năm 1992 quy định
TANDTC, các TAND địa phơng, các TAQS và các TA khác do luật định là những
cơ quan xét xử của nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quy định của
pháp luật thì chỉ có TA mới có thẩm quyền xét xử các vụ án mà không một cơ
17
quan nhà nớc nào có đợc quyền này. Để bảo đảm cho TA thực hiện tốt chức năng
xét xử, Nhà nớc trao cho TA nhiều quyền năng pháp lý, theo đó giải quyết các vụ
án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính đều thuộc thẩm quyền của TA.
Trong lĩnh vực hình sự, thẩm quyền xét xử của các TA ở mỗi quốc gia
cũng có sự quy định khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố nh hệ thống pháp luật
nói chung và luật vật chất (luật hình sự) nói riêng, bộ máy tổ chức của các cơ
quan t pháp, năng lực Thẩm phán, điều kiện kinh tế - xã hội. Qua tìm hiểu pháp
luật của một số nớc thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa và hệ thống luật án
lệ thì thấy các TA đợc tổ chức theo cấp xét xử: TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc
thẩm và TA tối cao. Tơng ứng với các cấp xét xử đó luật quy định thẩm quyền xét
xử cho từng cấp TA. Ví dụ: ở nớc Pháp hệ thống TA đợc tổ chức thành TA cấp sơ
thẩm (Tòa vi cảnh) có thẩm quyền xét xử các vụ tiểu hình, TA cấp sơ thẩm (Tòa
Hình sự hoặc Tòa cải tạo) có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự về tội ít nghiêm
trọng và có thể xử phạt mức án đến 5 năm tù, TA cấp sơ thẩm (Tòa đại hình) có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội phạm nghiêm trọng và tuyên
hình phạt đến tù chung thân, TA cấp phúc thẩm (các Tòa phúc thẩm) có thẩm
quyền xét xử các vụ án của TA cấp dới bị kháng cáo hoặc kháng nghị, TA cấp
phúc thẩm (Tòa Thợng thẩm - Tòa phúc thẩm tối cao) có thẩm quyền làm vô hiệu
bản án đã có hiệu lực pháp luật khi TA cấp dới sai lầm trong việc áp dụng pháp
luật. ở nớc Anh hệ thống TA gồm có: TA cấp sơ thẩm (Tòa vi cảnh) xét xử các tội
phạm ít nghiêm trọng, TA cấp sơ thẩm (TA Hoàng gia) xét xử các tội phạm
nghiêm trọng, TA cấp phúc thẩm (TA phúc thẩm) xét xử phúc thẩm tất cả các vụ án
đã xét xử sơ thẩm nhng bị kháng cáo, kháng nghị, TA cấp phúc thẩm (TA tối cao)
xét xử các vụ án bị kháng cáo vì có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật. ở
Nigeria hệ thống TA bao gồm TA tối cao liên bang, TA liên bang khác và hệ thống
của TA bang. Thẩm quyền xét xử cũng đợc phân định rõ cho các TA tơng ứng: các
Tòa vi cảnh, Tòa phúc thẩm liên bang và TA tối cao [89, tr. 207-217]. ở nớc ta các
TA đợc tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, các TAND cấp huyện và TAQS
khu vực (gọi chung là TA cấp huyện) chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm còn các
18
TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu (gọi chung là TA cấp tỉnh) và TA tối cao vừa
có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vừa có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm. Theo Từ điển Luật học thì thẩm quyền xét xử là "sự phân định
thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các TA với nhau" [75, tr. 459].
Nghiên cứu về
thẩm quyền xét xử của TA các cấp theo luật TTHS của nớc ta và một số nớc trên
thế giới thì thấy tuy có sự quy định khác nhau nhng pháp luật các nớc đều có
điểm chung là dựa vào một số dấu hiệu của vụ án để phân định thẩm quyền xét
xử. Đó là dấu hiệu về tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm, địa điểm phạm
tội và ngời thực hiện tội phạm. Muốn xác định một vụ án xảy ra có thuộc thẩm
quyền xét xử của một TA hay không phải xem xét đến các dấu hiệu này. Chỉ trên
cơ sở xem xét từng dấu hiệu mới có thể xác định thẩm quyền xét xử đợc chính
xác.
Khi đã xác định chính xác thẩm quyền xét xử sơ thẩm thì có thể dễ dàng
xác định đợc thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Vì xét xử theo các
thủ tục này đều do các TA cấp trên của TA cấp sơ thẩm thực hiện. Xét ở một góc
độ khác, khi VKS đã truy tố bị cáo trớc TA và xét thấy có đủ căn cứ để xét xử thì
vụ án đợc xét xử sơ thẩm, nhng cha hẳn vụ án này sẽ đợc xét xử theo thủ tục
phúc thẩm và giám đốc thẩm. Việc xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm chỉ đặt ra khi có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu. Xét xử theo thủ
tục phúc thẩm, nhất là thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm gọn nhẹ hơn, một số thủ
tục ở cấp sơ thẩm đợc lợc bỏ.
Vì vậy, muốn xác định thẩm quyền của TA các cấp, trớc hết phải xác định
thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác định
thẩm quyền của TA các cấp.
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, trong khoa học luật TTHS thẩm quyền
xét xử thờng đợc phân loại. Việc phân loại giúp cho ngời áp dụng pháp luật xác
định đúng thẩm quyền của TA. Có nhiều cách phân loại dựa trên những căn cứ và
mục đích nghiên cứu khác nhau. Đối với những ngời áp dụng pháp luật thì cách
19
phân loại sau đây nhằm phân biệt rõ thẩm quyền xét xử của TA các cấp là phổ
biến nhất:
- Dựa vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm để phân biệt
thẩm quyền của TA cấp huyện với TA cấp tỉnh, thẩm quyền của TAQS khu vực
với TAQS quân khu.
- Dựa vào địa điểm hoặc không gian thực hiện tội phạm, thực hiện hành vi
tố tụng để phân biệt thẩm quyền xét xử của các TA cùng cấp (TA huyện này với
huyện khác, tỉnh này với tỉnh khác). Trong trờng hợp có bị cáo phạm tội ở nớc ngoài
nếu xét xử ở Việt Nam thì cách phân loại này cũng là căn cứ để phân biệt thẩm
quyền xét xử của TA các cấp.
- Dựa vào ngời thực hiện tội phạm để phân biệt thẩm quyền xét xử giữa
TAQS và TAND, giữa TAQS các cấp với nhau và xác định thẩm quyền của TA
đặc biệt.
1.1.2. Thẩm quyền quyết định của Tòa án các cấp
Dựa vào những quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử, có thể xác
định một vụ án xảy ra thuộc thẩm quyền của TA nào; nếu có tranh chấp thì căn
cứ các dấu hiệu về sự việc, lãnh thổ và ngời thực hiện tội phạm để xác định thẩm
quyền xét xử. Nhng chỉ có quy định về thẩm quyền xét xử, các TA sẽ gặp khó
khăn khi phải quyết định những vấn đề cụ thể trong quá trình giải quyết vụ án.
Cùng với việc quy định thẩm quyền xét xử, Nhà nớc giao những quyền năng
(quyền quyết định) cho TA các cấp. Các TA sử dụng những quyền này để ra các
phán quyết khi xét xử. Nhng thẩm quyền ra quyết định không phải là vô hạn, các
TA chỉ xem xét và quyết định những vấn đề trong giới hạn, phạm vi pháp luật
cho phép. Thẩm quyền quyết định của TA bao gồm:
a) Thẩm quyền quyết định đối với những vấn đề về nội dung vụ án
20
Thẩm quyền này đợc TA thực hiện sau khi xét xử vụ án. ở thủ tục xét xử
sơ thẩm, TA ra bản án giải quyết mọi vấn đề của vụ án nh: Quyết định bị cáo
phạm tội hay không phạm tội (nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều
khoản nào của BLHS, nếu bị cáo không phạm tội thì ra bản án tuyên bố bị cáo vô
tội); quyết định miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt; quyết định áp dụng
hình phạt đối với bị cáo; quyết định xử lý vật chứng; quyết định bồi thờng thiệt hại;
TA cũng có thể ra quyết định đình chỉ vụ án nếu có căn cứ do luật quy định.
ở thủ tục phúc thẩm, TA xét xử trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị đối với
bản án sơ thẩm, chỉ trong những trờng hợp cần thiết TA cấp phúc thẩm mới xem
xét những phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị. Vì không phải
vụ án nào cũng yêu cầu xem xét lại mọi vấn đề mà TA cấp sơ thẩm đã giải quyết
nên TA cấp phúc thẩm cũng không có quyền quyết định về mọi vấn đề của vụ án
nh khi xét xử sơ thẩm. Khi xét xử, TA cấp phúc thẩm có quyền quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản
án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ
thẩm và đình chỉ vụ án.
ở thủ tục giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm xét lại bản án và quyết
định đã có hiệu lực pháp luật nhng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp
luật trong việc xử lý vụ án. Với mục đích bảo đảm cho việc xét xử đợc chính xác,
xét xử giám đốc thẩm kiểm tra tính hợp pháp của các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Do đó, Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét
và quyết định những vấn đề mà kháng nghị yêu cầu. Đối với những phần của vụ
án không bị kháng nghị nhng có liên quan đến kháng nghị, Hội đồng giám đốc
thẩm cũng phải xem xét vì xét xử giám đốc thẩm là một hoạt động của giám đốc
xét xử nên có trách nhiệm xem xét toàn bộ vụ án. Khi xét xử, Hội đồng giám đốc
thẩm có quyền ra các quyết định: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu
21
lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại; sửa bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật.
b) Thẩm quyền quyết định đảm bảo cho việc giải quyết vụ án
Cùng với việc ra bản án hoặc quyết định để giải quyết những vấn đề về nội
dung vụ án, TA còn có quyền ra quyết định đảm bảo cho việc xét xử. Thực hiện
thẩm quyền này, trong khi chuẩn bị xét xử, TA ra các quyết định sau: Quyết định
áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (bắt để tạm giam, cấm đi
khỏi nơi c trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm); quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Ngoài thẩm quyền ra quyết định giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án
hoặc đảm bảo cho việc xét xử, để thực hiện các nhiệm vụ khác của TTHS, khi
xét xử TA còn có quyền ra quyết định khởi tố vụ án, ra các quyết định xử lý
hành chính nh cảnh cáo, phạt tiền đối với những ngời vi phạm trật tự phiên tòa.
Nh vậy, thẩm quyền của TA là một chế định lớn trong TTHS bao gồm
những nội dung chính nh sau:
- Thẩm quyền xét xử để xác định TA đợc xét xử những vụ án nào;
- Giới hạn và phạm vi xét xử để xác định quyền của TA đợc xem xét
những vấn đề gì khi xét xử;
- Thẩm quyền quyết định để xác định quyền hạn giải quyết những vấn đề
về nội dung vụ án đã đợc xem xét, những vấn đề đảm bảo cho việc xét xử hoặc
các vấn đề khác của TTHS liên quan đến hoạt động xét xử.
Trong các nội dung trên, thẩm quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử là
cơ sở để xác định thẩm quyền quyết định của TA vì TA chỉ có thể quyết định
những vấn đề trong phạm vi cho phép và đã đợc xem xét. Mặt khác, những vấn
đề thuộc thẩm quyền xem xét của TA cũng chỉ có ý nghĩa khi đợc giải quyết
bằng những quyết định của Hội đồng xét xử (HĐXX).
22
Từ những phân tích trên có thể đa ra khái niệm thẩm quyền của TA nh sau:
Thẩm quyền của TA là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho TA đợc xét
xử những vụ án cụ thể và quyết định đối với các vấn đề về nội dung vụ án hoặc
đảm bảo cho việc xét xử trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định.
1.2. Những căn cứ để quy định thẩm quyền của Tòa án
Muốn quy định thẩm quyền đợc chính xác phải dựa vào những căn cứ (cơ
sở) có tính khoa học đợc đúc rút từ thực tiễn. Việc xác định các căn cứ này có ý
nghĩa quan trọng khi phân định thẩm quyền. Dựa vào những căn cứ để quy định
thẩm quyền của TA, các nhà làm luật tính toán cân nhắc đến mọi khả năng, dự
liệu các tình huống để quy định thẩm quyền cho mỗi cấp TA. Các căn cứ này càng
cụ thể, chi tiết thì quy định thẩm quyền càng chính xác. Qua nghiên cứu khảo sát
thực tiễn thì đã có một số bài viết trực tiếp hay gián tiếp nghiên cứu về vấn đề này
nhng các tác giả thờng tập trung vào các căn cứ: trình độ, năng lực của Thẩm
phán, số lợng án tồn đọng hàng năm ở TA cấp này hay cấp khác để đề nghị phân
định thẩm quyền. Chúng tôi cho rằng, phân định thẩm quyền của TA mà chỉ dựa
trên cơ sở về tổ chức, con ngời thôi là cha đầy đủ mà còn phải căn cứ vào nhiều
yếu tố khác nữa. Theo chúng tôi, có thể dựa vào các căn cứ sau đây để quy định
thẩm quyền của TA các cấp.
1.2.1. Căn cứ vào đờng lối, chính sách của Đảng
Pháp luật là một trong những hình thức thể hiện của chính trị. Cụ thể
hơn, pháp luật là sự thể chế hoá đờng lối, chính sách của Đảng thành những
quy định chung, thống nhất trong toàn xã hội. ở nớc ta, vai trò lãnh đạo của
Đảng đã đợc khẳng định trong suốt chiều dài lịch sử gần một thế kỷ qua. Đ-
ờng lối, chính sách của Đảng thể hiện nguyện vọng của toàn thể nhân dân
trong đó có yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm phù hợp với từng thời kỳ
nhất định. Là một công cụ hữu hiệu trong đấu tranh chống tội phạm, pháp luật
tố tụng hình sự phải thể hiện đúng đờng lối, chính sách của Đảng. Có nh vậy,
mỗi quy định đợc ban hành mới phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đáp
23
ứng đợc yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Nếu văn bản pháp luật tố tụng hình sự xa
rời hoặc đi chệch quan điểm của Đảng thì nó sẽ không đợc nhân dân đồng
tình, xã hội chấp nhận và không đợc thực hiện. Thực tiễn hoàn thiện pháp luật
tố tụng hình sự nói chung và chế định thẩm quyền của TA nói riêng cho thấy
đờng lối, chính sách của Đảng luôn luôn là một căn cứ quan trọng để xây
dựng các quy phạm pháp luật cụ thể.
Năm 1988, BLTTHS đầu tiên của nớc ta đợc ban hành nhằm đáp ứng
những yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Để góp phần thực hiện mục tiêu làm
trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nớc; đẩy lùi và xóa
bỏ các hiện tợng tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và thực hiện
công bằng xã hội [24, tr. 146], BLTTHS đã nâng thẩm quyền của TA các cấp
lên một bớc đáng kể so với trớc đây. Nếu nh năm 1960 TA cấp huyện chỉ có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các tội có thể phạt từ 2 năm tù trở xuống, đến năm
1981 đợc xét xử các tội có khung hình phạt đến 5 năm tù thì BLTTHS đã
nâng thẩm quyền cho TA cấp huyện đợc xét xử những tội phạm mà BLHS quy
định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống. Điều đó hoàn toàn phù hợp với chủ tr-
ơng xây dựng cấp huyện vững mạnh về mọi mặt của Đảng ta.
Những thay đổi lớn lao của tình hình kinh tế - xã hội và thực tiễn xét
xử thời gian qua cho thấy những quy định về thẩm quyền của TA các cấp trong
BLTTHS không còn phù hợp. Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết về công tác t
pháp trong đó nhấn mạnh yêu cầu phân định hợp lý thẩm quyền của TA các
cấp. Cụ thể là Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khoá VII, Nghị
quyết hội nghị lần thứ 3, hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng khoá VIII, Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Các Nghị quyết của Đảng đã định
hớng việc phân định thẩm quyền của TA các cấp là thực hiện hai cấp xét xử,
tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp quận, huyện theo hớng việc xét xử sơ
thẩm đợc thực hiện chủ yếu ở TA cấp này, TA cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc
thẩm, TANDTC chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử,
24
hớng dẫn các TA địa phơng thực hiện xét xử thống nhất pháp luật. Mới đây,
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác t pháp trong thời gian tới lại khẳng định cần khẩn trơng
chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho TA cấp
huyện, đổi mới tổ chức của TANDTC để tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc
thẩm, tổng kết thực tiễn xét xử, hớng dẫn các TA áp dụng pháp luật thống
nhất. Những định hớng chiến lợc nêu trên là kết quả của hoạt động nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng ta. Nó đã phản ánh đúng đắn yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm, tạo tiền đề cho những nghiên cứu cụ thể về thẩm
quyền của TA các cấp. Chính vì vậy, tuân theo đờng lối, chính sách của Đảng
là một trong những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng và sửa đổi
các quy định về thẩm quyền của TA các cấp.
1.2.2. Căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS
Trong hệ thống các quy phạm TTHS, nguyên tắc TTHS chiếm một vị trí
quan trọng. Nó thể hiện bản chất của TTHS, là cơ sở cho mọi hoạt động TTHS.
Các nguyên tắc của TTHS liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất
để hớng các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thực hiện đúng mục
đích của tố tụng. Các nguyên tắc của TTHS là cơ sở để xây dựng các chế định
của luật TTHS. Thẩm quyền của TA là một chế định lớn của luật TTHS, nên khi
quy định phải căn cứ vào các nguyên tắc của TTHS, đặc biệt là những nguyên tắc
làm cơ sở cho hoạt động xét xử của TA.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; nguyên tắc không
ai có thể bị coi là có tội, nếu cha có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của
TA là những nguyên tắc dân chủ trong luật TTHS, tạo điều kiện thuận lợi cho bị
can, bị cáo đa ra chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
giúp cho việc xử lý vụ án đúng đắn, tránh đợc những oan sai không đáng có. Vì
thế quy định thẩm quyền của TA phải cân nhắc đến các nguyên tắc này. Khi xét
xử, nếu TA không chứng minh đợc bị cáo thực hiện tội phạm thì phải tuyên bố họ
25
vô tội; tất cả những nghi ngờ về trách nhiệm hình sự của bị cáo phải đợc giải
thích theo hớng có lợi cho bị cáo; việc xét xử phúc thẩm theo hớng làm xấu hơn
tình trạng của bị cáo phải có kháng cáo của ngời bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc
kháng nghị của VKS; TA cấp giám đốc thẩm không thể tự mình quyết định sửa
tăng hình phạt hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn đối với bị cáo.
Nguyên tắc xác định sự thật vụ án, nguyên tắc giám đốc việc xét xử là
những nguyên tắc cho phép Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xét lại bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án; cho phép Hội đồng giám đốc thẩm đợc
ra quyết định nhằm bảo đảm cho việc xét xử của TA đúng pháp luật.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét
xử, đề cao trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Nguyên tắc này
không cho phép bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào đợc can thiệp vào việc xét
xử của TA làm cho việc xét xử không công bằng. TA cấp trên cũng không có
quyền buộc TA cấp dới phải xét xử theo ý kiến chủ quan của mình. Sau khi
xét xử nếu bản án có sai sót sẽ đợc giải quyết theo các thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nếu quy định thẩm quyền của TA không chú ý
đến nguyên tắc xét xử độc lập thì TA cấp trên có thể buộc TA cấp dới phải
xét xử theo mình và nh vậy sẽ làm cho việc xét xử không chính xác. Quy định
của BLTTHS về thẩm quyền của TA cấp phúc thẩm đã cân nhắc và bảo đảm
nguyên tắc "xét xử độc lập". Ví dụ: Khoản 3 Điều 222 BLTTHS quy định rõ:
"Khi hủy án sơ thẩm để xét xử lại, TA cấp phúc thẩm không quyết định trớc
những chứng cứ mà TA cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ,
cũng nh không quyết định trớc về điều khoản BLHS và hình phạt mà TA cấp
sơ thẩm sẽ phải áp dụng".
Các nguyên tắc khác của luật TTHS ở những mức độ khác nhau cũng ảnh
hởng đến việc xác định thẩm quyền của TA. Do vậy, khi quy định thẩm quyền
của TA phải căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS.