Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước ngoài trong quan hệ tố tụng dân sự trước tòa án việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN ĐỨC CƯỜNG

§ÞA VÞ PH¸P Lý CñA C¸ NH¢N Vµ PH¸P NH¢N N¦íC NGOµI
TRONG QUAN HÖ Tè TôNG d©n sù TR¦íC TßA ¸N VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN BÁ DIẾN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Đức Cường



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁ NHÂN VÀ
PHÁP NHÂN NƯỚC NGOÀI TRONG QUAN HỆ TỐ TỤNG
DÂN SỰ .................................................................................................... 4
1.1.

Khái niệm và những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng
dân sự quốc tế........................................................................................... 4

1.1.1.

Khái niệm tố tụng dân sự quốc tế ............................................................... 4

1.1.2.

Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự quốc tế ................................. 9

1.2.

Khái niệm cá nhân và pháp nhân nước ngoài ...................................... 10

1.2.1.

Khái niệm cá nhân nước ngoài ................................................................. 10


1.2.2.

Khái niệm pháp nhân nước ngoài ............................................................. 13

1.3.

Khái niệm địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước ngoài ........ 19

1.3.1.

Định nghĩa ............................................................................................... 19

1.3.2.

Cơ sở xác định địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước ngoài
trong tố tụng dân sự ................................................................................. 20

1.3.3.

Đặc điểm địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân nước ngoài .................... 27

1.4.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng
dân sự của cá nhân, pháp nhân nước ngoài .......................................... 28

1.4.1.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự

của cá nhân nước ngoài ............................................................................ 28

1.4.2.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự
của pháp nhân nước ngoài ........................................................................ 30

1.5.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân
sự của cá nhân, pháp nhân nước ngoài theo pháp luật Việt Nam ........... 31


1.5.1.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự
của cá nhân nước ngoài theo pháp luật Việt Nam ..................................... 32

1.5.2.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự
của pháp nhân nước ngoài trong pháp luật Việt Nam ............................... 35

Chương 2: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁ NHÂN VÀ PHÁP NHÂN
NƯỚC NGOÀI TRONG QUAN HỆ TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................................ 37
2.1.

Khái quát về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ........................... 37


2.1.1.

Các văn bản pháp luật trong nước ............................................................ 37

2.1.2.

Các điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc ký kết ......................... 38

2.1.3.

Tập quán quốc tế ...................................................................................... 43

2.2.

Quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân nước ngoài trong
quan hệ tố tụng dân sự tại Việt Nam..................................................... 43

2.2.1.

Quyền và nghĩa vụ của đương sự ............................................................. 43

2.2.2.

Quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng khác...................... 58

2.3.

Quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân nước ngoài theo quy
định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập và ký kết ............. 64


2.3.1.

Quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân theo các điều ước quốc
tế đa phương ............................................................................................ 64

2.3.2.

Quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong quan hệ tố tụng dân sự theo
các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam ký kết với các nước ........ 76

2.4.

Kinh nghiệm nước ngoài ........................................................................ 86

2.4.1.

Chế định cược án phí trong pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài ................... 86

2.4.2.

Pháp luật tố tụng dân sự nước Cộng hoà Pháp .......................................... 89

2.4.3.

Pháp luật tố tụng dân sự Anh - Mỹ ........................................................... 95

2.4.4.

Pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản ........................................................... 95


Chương 3: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁ NHÂN VÀ PHÁP NHÂN NƯỚC
NGOÀI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM - THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ....................................................................... 98


3.1.

Thực tiễn giải quyết các vụ v i ệc dân sự có yếu tố nước ngoài ........ 98

3.1.1.

Thực trạng giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài ................ 98

3.1.2.

Giải pháp hoàn thiện .............................................................................. 100

3.2.

Về quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân nước ngoài ........... 101

3.2.1.

Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân
nước ngoài ............................................................................................. 101

3.2.2.

Giải pháp hoàn thiện .............................................................................. 112


KẾT LUẬN ........................................................................................................ 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 120


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT

Viết tắt

Nội dung từ

1

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

2

BLDS

Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005

3

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

4


TTDS

Tố tụng dân sự

5

TTTP

Tương trợ tư pháp

6

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, xu thế chung trên thế giới là quá trình quốc tế hóa mọi mặt đời
sống, đặc biệt đời sống kinh tế ngày càng được đẩy mạnh. Do sự phát triển mạnh
mẽ của quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, giao lưu kinh tế,
thương mại, khoa học - công nghệ và văn hoá giữa các quốc gia phát triển với tốc
độ hết sức nhanh chóng đã dẫn đến việc gia tăng số lượng người nước ngoài đầu tư
kinh doanh, lao động, học tập, du lịch… hoặc pháp nhân nước ngoài trực tiếp thực
hiện các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ của mỗi quốc gia.
Trong bối cảnh đó, ngày càng xuất hiện nhiều những vụ việc phát sinh từ các
mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà một bên chủ thể là cá nhân và pháp
nhân nước ngoài. Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về

quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân nước ngoài cũng như các biện pháp
đảm bảo của Nhà nước trong lĩnh vực TTDS, đồng thời chỉ ra những khiếm khuyết,
tồn tại, đối chiếu với các cam kết hội nhập nhằm đưa ra và phân tích các yêu cầu
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là một việc làm cần thiết, có tác động mạnh mẽ
tới quá trình thúc đẩy phát triển giao lưu về mọi mặt giữa các quốc gia, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, pháp nhân nước ngoài khi tham gia vào
quan hệ TTDS tại Việt Nam.
Việc xây dựng quy chế pháp lý cho cá nhân, pháp nhân nước ngoài nói
chung và trong lĩnh vực TTDS nói riêng tại Việt Nam đã được nghiên cứu, sửa đổi
theo hướng ngày càng phù hợp với xu thế chung của thời đại và pháp luật quốc tế.
Song đây vẫn là một vấn đề mang tính lý luận phức tạp và cần không ngừng được
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, để đưa ra những luận chứng có tính
thuyết phục, góp phần tạo một môi trường pháp lý thuận lợi cho cá nhân và pháp
nhân nước ngoài ở Việt Nam đồng thời vẫn giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh
quốc gia. Vì vậy, đề tài: “Địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước ngoài
trong quan hệ tố tụng dân sự trước Toà án Việt Nam” mang tính cấp thiết cả về lý

1


luận và thực tiễn. Đề tài nhằm tìm hiểu, nghiên cứu những nội dung cơ bản về lý
luận và pháp lý liên quan tới địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân nước ngoài
trong TTDS tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này như:
- Quy chế pháp lý dân sự của công dân nước ngoài ở các nước xã hội chủ nghĩa
và Việt Nam, Đoàn Năng, Luận án phó tiến sĩ khoa học Luật, Bacu, 1986.
- Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước đối với người nước
ngoài ở nước ta hiện nay, Bùi Quảng Bạ, Luận án phó tiến sĩ khoa học Luật, Hà
Nội, 1996.

- Địa vị pháp lý của người nước ngoài ở Việt Nam trong tư pháp quốc tế giai
đoạn hiện nay, Trần Hưng Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2002.
- Hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam,
Trần Thị Hồng Thu, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - ĐHQGHN, 2011.
Tuy nhiên, các công trình, bài viết nói trên mới chỉ tiếp cận vấn đề địa vị
pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam một cách khái quát và tổng thể, mà
chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể, phân tích, làm rõ và đưa ra kiến nghị về địa vị
pháp lý của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài trong lĩnh vực TTDS theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận liên quan tới địa vị pháp lý
của cá nhân nước ngoài, pháp nhân nước ngoài trong quan hệ TTDS. Đồng thời làm
rõ những quy định pháp luật hiện hành về năng lực chủ thể, quyền, nghĩa vụ pháp lý
của cá nhân và pháp nhân nước ngoài trong lĩnh vực TTDS tại Việt Nam, đồng thời
chỉ ra những điểm hạn chế, đối chiếu với các cam kết hội nhập để đưa ra phương
hướng hoàn thiện pháp luật. Đề tài cũng sẽ nghiên cứu kinh nghiệm của một số
quốc gia điển hình từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện về địa vị pháp lý của cá
nhân và pháp nhân nước ngoài trong TTDS tại Việt Nam hiện nay.

2


- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước ngoài
trong một lĩnh vực cụ thể: TTDS quốc tế. Bao gồm các nội dung: cơ sở lý luận về
địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước ngoài; phân tích về năng lực chủ thể
của cá nhân và pháp nhân nước ngoài trong TTDS tại Việt Nam; phân tích về quyền
và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân nước ngoài trong TTDS tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, quá trình nghiên
cứu đề tài luận văn các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác
cũng được sử dụng như: phân tích, diễn giải, tổng hợp, thống kê…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về địa vị pháp lý
của cá nhân và pháp nhân nước ngoài trong quan hệ TTDS tại Việt Nam. Luận văn
có thể áp dụng vào thực tế xây dựng và hoàn thiện địa vị pháp lý của cá nhân, pháp
nhân nước ngoài trong lĩnh vực TTDS tại Việt Nam. Luận văn cũng có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu pháp luật về địa vị pháp lý của
cá nhân, pháp nhân nước ngoài trong lĩnh vực TTDS tại Việt Nam và cho những
người quan tâm tới lĩnh vực này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương.
- Chương 1: Khái quát về địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước
ngoài trong quan hệ tố tụng dân sự
- Chương 2: Quyền và nghĩa vụ của cá nhân và pháp nhân nước ngoài trong
quan hệ tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam
- Chương 3: Địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước ngoài trong tố
tụng dân sự tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

3


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁ NHÂN VÀ PHÁP NHÂN
NƯỚC NGOÀI TRONG QUAN HỆ TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự
quốc tế

1.1.1. Khái niệm tố tụng dân sự quốc tế
TTDS quốc tế là hoạt động của Tòa án một nước trong việc giải quyết các vụ
việc phát sinh từ các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án theo một thể thức luật định [33].
Khái niệm “quan hệ dân sự” trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
cũng được hiểu theo nghĩa rộng là các quan hệ phát sinh chủ yếu giữa các cá nhân,
pháp nhân của các nước khác nhau trong lĩnh vực pháp lý thuộc hệ thống pháp luật
tư; bao gồm quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động… Quan hệ pháp luật dân sự được coi là quan hệ
“gốc” của luật tư, còn các quan hệ pháp luật khác trong lĩnh vực thương mại, hôn
nhân và gia đình, lao động… cũng có tính chất luật tư nhưng là các quan hệ luật
riêng (luật chuyên ngành). Đặc trưng lớn nhất của các quan hệ pháp luật thuộc lĩnh
vực tư là các quan hệ pháp luật này có mục đích để điều chỉnh các quan hệ phát sinh
giữa các chủ thể tư, nên trước hết nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ thể tư. Các quan
hệ pháp lý này luôn dựa trên các nguyên tắc tôn trọng sự tự do ý chí, tự do thỏa
thuận, nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ pháp lý… Trong khi các quan hệ pháp
luật thuộc lĩnh vực công lại có mục đích tối cao là bảo vệ lợi ích nhà nước, như các
quan hệ trong lĩnh vực Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Hình sự… Điều này
được quy định rất rõ và sử dụng thống nhất trong hai văn bản pháp lý quan trọng
của tư pháp quốc tế Việt Nam là BLDS và BLTTDS.
Về mặt lý luận cũng như trên thực tế, thuật ngữ “TTDS quốc tế” là thuật ngữ
mang tính ước lệ, bởi vì thực tế, một số lượng khá lớn các vụ việc không thuộc
nhóm vụ việc dân sự (hiểu theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài cũng được giải

4


quyết theo thể thức TTDS quốc tế. Chẳng hạn như việc xác định thẩm quyền xét xử
quốc tế, xác định địa vị pháp lý của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham
gia vào TTDS quốc tế, vấn đề chứng cứ tư pháp và thực hiện các uỷ thác tố tụng

quốc tế riêng biệt, vấn đề công nhận và thi hành các bản án, quyết định dân sự,
thương mại của Toà án nước ngoài… Tuy nhiên, về mặt lý luận, chỉ có các vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài mà luật quy định thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án
mới thuộc phạm vi nghiên cứu của TTDS quốc tế.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 405 BLTTDS năm 2004 thì vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các đương sự là người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các
đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [19]. Theo quy định này, một vụ việc dân sự
được coi là vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài khi có một trong các yếu tố sau:
- Đương sự trong vụ việc dân sự là người nước ngoài, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài;
- Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài;
- Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Khoản 2 Điều 405 BLTTDS năm 2004 không đề cập tới trường hợp đương sự
trong vụ việc dân sự là pháp nhân nước ngoài, tuy nhiên, trong thực tiễn có các
trường hợp phát sinh các việc dân sự có một bên đương sự là pháp nhân nước ngoài
cũng sẽ được coi là TTDS có yếu tố nước ngoài. Như vậy, trong quan hệ TTDS, khi
một bên đương sự là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài, quan hệ TTDS đó sẽ
được xác định là quan hệ TTDS có yếu tố nước ngoài hay TTDS quốc tế.
Theo quy định từ Điều 25 đến Điều 32 của BLTTDS năm 2004 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011, Toà án có thẩm quyền thụ lý và
giải quyết theo thủ tục TTDS đối với những tranh chấp, những yêu cầu về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Cụ thể:

5



- Những tranh chấp về dân sự bao gồm tranh chấp giữa cá nhân
với cá nhân về quốc tịch Việt Nam; tranh chấp về quyền sở hữu tài sản;
tranh chấp về hợp đồng dân sự; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ, giữa các cá nhân, tổ chức với nhau mà chỉ một
bên có mục đích lợi nhuận hoặc các bên đều không có mục đích lợi
nhuận; tranh chấp về thừa kế tài sản; tranh chấp về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng; tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với
đất theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp liên quan đến hoạt
động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật; tranh chấp liên quan
đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự; tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí
tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự; các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định.
- Những yêu cầu về dân sự: Yêu cầu tuyên bố một người mất
năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, huỷ bỏ
quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết
định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự; yêu cầu thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; yêu
cầu tuyên bố một người mất tích, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người
mất tích; yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên
bố một người là đã chết; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết
định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận
bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết
định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi
hành tại Việt Nam; yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; yêu
cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản
chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự;
các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy định.


6


- Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia
đình gồm: Những tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con nuôi, chia
tài sản khi ly hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi
ly hôn; tranh chấp về việc xác định cha, mẹ; tranh chấp về cấp dưỡng;
các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình gồm: Yêu cầu hủy việc kết hôn
trái pháp luật; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản
khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau ly hôn; yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn; yêu cầu chấm
dứt việc nuôi con; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài hoặc
không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án
nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam; các yêu cầu
khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
- Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật về kinh doanh,
thương mại gồm: Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ;
phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng;
tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt,
đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ
có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa công ty

với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,

7


chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Các tranh chấp
khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Những yêu
cầu về kinh doanh, thương mại gồm: Yêu cầu liên quan đến việc Trọng
tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của
pháp luật về Trọng tài thương mại; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước
ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại
của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam; yêu
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài; các yêu cầu khác về kinh doanh,
thương mại mà pháp luật có quy định.
- Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật về lao động gồm:
Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao
động mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ
quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh hoà giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, hoà giải không thành hoặc không hoà giải trong thời hạn do pháp
luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hoà
giải tại cơ sở gồm: Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc
về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; về bồi thường
thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về trợ cấp khi
chấm dứt hợp đồng lao động; giữa người giúp việc gia đình với người sử
dụng lao động; về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao
động; về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ

chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng. Tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với
người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động đã được
Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà
tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết

8


định của Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh hoặc
quá thời hạn mà Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
không giải quyết. Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy
định. Những yêu cầu về lao động gồm: Yêu cầu công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam bản án, quyết định lao động của Toà án nước ngoài hoặc
không công nhận bản án, quyết định lao động của Toà án nước ngoài mà
không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam; yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định lao động của Trọng tài nước ngoài; các yêu
cầu khác về lao động mà pháp luật có quy định [19]; [28].
1.1.2. Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự quốc tế
TTDS quốc tế là một bộ phận của tư pháp quốc tế, cho nên TTDS quốc tế
phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế, đồng thời TTDS quốc
tế cũng có những nguyên tắc cơ bản đặc thù của mình, bao gồm [33]:
- Tôn trọng chủ quyền, an ninh quốc gia của nhau: Chủ quyền quốc gia là
tuyệt đối, không thể bị xâm hại hay phân biệt, vì vậy nếu không hoạt động TTDS
quốc tế đó sẽ bị xem là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế.
- Tôn trọng quyền miễn trừ tư pháp của Nhà nước nước ngoài và những
người được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao.
- Bảo đảm quyền bình đẳng của các bên tham gia tố tụng: Đây là nguyên tắc
quan trọng hàng đầu trong hoạt động TTDS, cho dù quan hệ có yếu tố nước ngoài
hay không có yếu tố nước ngoài, thì hoạt động TTDS luôn phải bảo đảm sự bình

đẳng giữa các chủ thể về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự.
- Nguyên tắc có đi có lại, cùng có lợi.
- Nguyên tắc Luật Toà án (Lex fori): Đây là nguyên tắc đặc thù của TTDS
quốc tế. Theo nguyên tắc này, khi giải quyết các vụ việc dân sự theo nghĩa rộng
có yếu tố nước ngoài, về mặt tố tụng, Toà án có thẩm quyền chỉ áp dụng luật tố
tụng của nước mình (trừ trường hợp ngoại lệ được quy định trong pháp luật của
từng nước hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước đó tham gia). Đây là quan
điểm được tất cả các quốc gia trên thế giới thừa nhận.

9


Ở Việt Nam, khi giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động có yếu tố nước ngoài, về nguyên tắc, Toà án Việt Nam chỉ áp dụng luật TTDS
Việt Nam. Tuy nhiên, trong quan hệ với các nước đã ký kết hiệp định TTTP với
Việt Nam, thì Toà án Việt Nam khi thực hiện uỷ thác tư pháp, theo đề nghị của bên
yêu cầu, có thể áp dụng pháp luật của nước ký kết có cơ quan yêu cầu đó, với điều
kiện chúng không mâu thuẫn với pháp luật Việt Nam.
Những nguyên tắc cơ bản nêu trên của TTDS quốc tế luôn luôn gắn bó
chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ lợi ích quốc gia,
lợi ích chính đáng của các bên tranh chấp, góp phần thúc đẩy phát triển giao lưu
dân sự quốc tế.
1.2. Khái niệm cá nhân và pháp nhân nước ngoài
1.2.1. Khái niệm cá nhân nước ngoài
Khái niệm người nước ngoài xuất hiện từ rất sớm và gắn liền với lịch sử phát
triển của xã hội. Ngay từ thời phong kiến, ngoài những người được gọi là thần dân
của quốc gia, bao giờ cũng còn một số lượng nhất định không phải là thần dân của
quốc gia sở tại. Những người này được gọi là người ngoại quốc hay ngoại kiều. Ngày
nay trên cơ sở lý luận của khoa học pháp lý thì họ chính là “người nước ngoài”.
Thuật ngữ “người nước ngoài” được sử dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên

thế giới nhưng nội dung khái niệm này ở tất cả các nước không phải trong mọi
trường hợp đều giống nhau. Ở Bun-ga-ri, người nước ngoài là người không có quốc
tịch Bun-ga-ri, nghĩa là đối với Bun-ga-ri người nước ngoài gồm cả người có quốc
tịch nước ngoài và người không có quốc tịch của nước nào. Trong khi đó, ở Liên
Xô cũ, trong nhiều năm, khái niệm người nước ngoài đồng nhất với khái niệm công
dân nước ngoài trên lãnh thổ Liên Xô. Như vậy, những người không phải là công
dân Liên Xô cư trú ở ngoài phạm vi lãnh thổ Liên Xô thì không được xác định có
phải là người nước ngoài đối với Liên Xô hay không. Từ khi ban hành Hiến pháp
Liên Xô năm 1917 đến khi chấm dứt tồn tại Liên bang Xô Viết, khái niệm người
nước ngoài được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả công dân nước ngoài và người
không có quốc tịch.

10


Theo các nhà nghiên cứu, từ xa xưa để chỉ những người nước ngoài cư trú
hay làm ăn sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, nhân dân ta dùng thuật ngữ ngoại kiều
hay kiều dân nước ngoài; còn thuật ngữ Việt kiều hay kiều bào ta ở nước ngoài để
chỉ những người của nước ta cư trú, làm ăn sinh sống ở nước ngoài. Trong những
thập kỷ gần đây, những thuật ngữ này không còn được dùng một cách phổ biến nữa,
riêng các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành các thuật ngữ này hoàn toàn không
được sử dụng và thay vào đó là các thuật ngữ người nước ngoài và người Việt Nam
ở nước ngoài.
Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề xác định thống nhất nội dung khái niệm người
nước ngoài không phải lúc nào cũng đạt được. Đáng lưu ý là còn không ít quan
điểm lệch lạc như coi người nước ngoài bao gồm cả pháp nhân nước ngoài, thậm
chí bao gồm cả nhà nước nước ngoài. Trên cơ sở quan điểm khoa học về vấn đề
này, tác giả cho rằng các quan điểm vừa nêu là không hợp lý và không lô gích.
Thứ nhất, nếu coi phạm trù người nước ngoài bao gồm cả pháp nhân nước
ngoài. Theo cách hiểu chung nhất, pháp nhân là tổ chức của những con người

được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập hoặc công
nhận, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ trên cơ sở của điều lệ, có tài sản độc lập với cá
nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, pháp nhân giao dịch
với bên ngoài thông qua người đại diện. Do vậy, khái niệm pháp nhân nói chung
hay pháp nhân nước ngoài nói riêng không thể có các quyền và nghĩa vụ cơ bản
phát sinh từ quyền công dân - một khái niệm luôn gắn với quốc tịch thể hiện
quan hệ của một quốc gia với công dân của quốc gia đó.
Thứ hai, nếu nội dung khái niệm còn bao hàm cả nhà nước nước ngoài thì
càng không hợp lý hơn nữa, bởi vì quốc gia là một thực thể độc lập, có chủ quyền,
bình đẳng trong quan hệ với các quốc gia khác. Do vậy, nếu coi quốc gia nước
ngoài cũng là người nước ngoài thì quốc gia nước sở tại phải xây dựng quy chế
pháp lý của quốc gia nước ngoài đó bao gồm: Quyền năng chủ thể, hệ thống các
quyền và nghĩa vụ, các lợi ích của nước đó tại nước sở tại. Điều này sẽ vi phạm các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, xâm phạm chủ quyền của quốc gia nước ngoài

11


đó. Vì vậy, không có cơ sở, không hợp lý nếu chấp nhận quan điểm cho rằng khái
niệm người nước ngoài gồm cả pháp nhân nước ngoài hoặc cả nhà nước nước
ngoài, cho dù chỉ là quy ước.
Khái niệm người nước ngoài chỉ có thể dùng để chỉ cá nhân (có tài liệu
gọi là tự nhiên nhân hay thể nhân) có quốc tịch nước ngoài hoặc cá nhân không
có quốc tịch.
Trong từ điển Tiếng Việt, chữ “người” được dùng để chỉ cá nhân chứ không
dùng để chỉ các tổ chức của cá nhân như các tổ chức được hưởng tư cách pháp nhân
và nhà nước [37].
Trong pháp luật Việt Nam, khi định nghĩa về người nước ngoài luôn lấy dấu
hiệu quốc tịch làm dấu hiệu đặc trưng để xác định, điều này hoàn toàn phù hợp với
pháp luật và thông lệ của đa số các nước trên thế giới.

Trong Quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ về chính
sách đối với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam quy định tại
Điều 1 như sau: “Người nước ngoài (gọi tắt là ngoại kiều) là những người cư trú và
làm ăn sinh sống ở Việt Nam, có quốc tịch nước khác, hoặc không có quốc tịch” [6].
Theo Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành các quy định của BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
quy định: “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người
có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch” [1, Điều 3, Khoản 2].
Theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, tại khoản 1 quy định: “Quốc tịch
nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không phải quốc tịch Việt Nam”; tại
khoản 5 quy định: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công dân nước ngoài
và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam” [26, Điều 3].
Nghị định số 51/2009/NĐ/CP ngày 03/6/2009 của Chính phủ hướng dẫn
thi hành một số điều của Nghị quyết số 19/2008/QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc
hội về việc thí điểm cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở
tại Việt Nam định nghĩa: “Cá nhân nước ngoài là người không có quốc tịch Việt
Nam” [2, Điều 3, Khoản 1].

12


Theo quy định tại Luật Nhập cảnh, Xuất cảnh, Quá cảnh, Cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam ban hành ngày 16/6/2014 (có hiệu lực ngày 01/01/2015): “Người
nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc
tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam” [31, Điều 3, Khoản 1].
Từ các định nghĩa về người nước ngoài trong các văn bản nói trên, có thể
hiểu người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm hai loại:
người có quốc tịch người nước ngoài và người không quốc tịch.
Như vậy, trong các văn bản pháp luật nêu trên, tiêu chí để xác định một cá
nhân là người nước ngoài đối với Việt Nam không phải là nơi cư trú mà là có quốc

tịch hay không có quốc tịch Việt Nam. Những người không có quốc tịch Việt Nam có
thể định cư hoặc tạm trú trên lãnh thổ Việt Nam. Song vấn đề đặt ra là tại sao chúng
ta xếp người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch vào khái niệm
người nước ngoài? Trước hết phải khẳng định rằng, người nước ngoài là công dân
nước ngoài và người không có quốc tịch là hai khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, nội
dung địa vị pháp lý của công dân nước ngoài và người không quốc tịch tại một quốc
gia giống nhau về cơ bản. Ví dụ: Họ đều không có những quyền và nghĩa vụ gắn liền
với quốc tịch của nước sở tại, đều có những quyền và nghĩa vụ giống nhau trong các
quan hệ dân sự, hôn nhân, gia đình, thừa kế… do pháp luật nước sở tại quy định. Vì
vậy, hoàn toàn có cơ sở khi xét hai khái niệm công dân nước ngoài và người không
quốc tịch vào khái niệm người nước ngoài khi xem xét địa vị pháp lý của họ.
Như vậy, có thể suy ra rằng khái niệm “người nước ngoài” được hiểu là
người không có quốc tịch Việt Nam, họ có thể là người mang quốc tịch một nước
khác, một vài nước khác, hoặc không mang quốc tịch nước nào, họ có thể cư trú
trên lãnh thổ Việt Nam hoặc có thể cư trú ngoài lãnh thổ Việt Nam.
1.2.2. Khái niệm pháp nhân nước ngoài
- Khái niệm pháp nhân
Trước khi tìm hiểu khái niệm pháp nhân nước ngoài, chúng ta cần xác định
khái niệm “pháp nhân”. Có quan điểm cho rằng, khái niệm pháp nhân với tư cách là
một chủ thể pháp luật dân sự có từ thời kỳ La Mã cổ đại. Người ta nhận thấy trong xã

13


hội thời đó có những tổ chức như nhà hát, nhà thờ… có tài sản, mà tài sản này không
phải là của riêng từng thành viên. Sự thay đổi của các thành viên không ảnh hưởng gì
đến tính chất độc lập của tổ chức. Đồng thời, khi tham gia vào các quan hệ dân sự
thời bấy giờ các tổ chức nói trên luôn thể hiện với tư cách là một chủ thể thông qua
người đại diện, nhân danh cho tổ chức chứ không phải cho cá nhân. Tuy nhiên, trong
thời kỳ La Mã cổ đại khái niệm về pháp nhân chưa thực sự hình thành.

Khái niệm pháp nhân và các quy định về pháp nhân chỉ thực sự phát triển
trong giai đoạn thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản - giai đoạn mà luật thương
mại xuất hiện, nó hiện diện trong hệ thống pháp luật ở các nước châu Âu lục địa
như là một nhánh trong cây đại thụ là luật dân sự. Trong khoa học luật dân sự trên
thế giới đã xuất hiện những học thuyết về pháp nhân như: Học thuyết giả tưởng
(Học thuyết giả tưởng cho rằng pháp nhân không có ý chí mà chỉ có con người mới
có ý chí, nên con người mới là chủ thể thực sự của các quyền, nếu tổ chức có tư
cách pháp nhân thì điều đó có nghĩa là tổ chức có một ý chí. Như vậy đã tạo ra một
sự giả tưởng); học thuyết thực tại (Học thuyết thực tại cho rằng pháp nhân không
phải là sự tạo lập của người làm luật mà là một thực tế phải được thừa nhận. Pháp
nhân phải có các quy tắc về đời sống pháp lý, về sự điều hành và phải được công
nhận về danh tính, quốc tịch và cư xử)… Qua các quan điểm, các học thuyết về
pháp nhân, mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng tựu trung lại các pháp nhân
vẫn được coi là một chủ thể pháp luật đích thực bởi vì pháp nhân cũng có những
đặc điểm thể hiện năng lực chủ thể.
Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn
giản hơn. Nếu chỉ có cá nhân là chủ thể pháp luật mà không có pháp nhân thì khi đó,
mỗi thể nhân thành viên sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý. Điều
này sẽ xảy ra một tình huống vô cùng phức tạp rằng: Một người đi mua một chiếc xe
ô tô sẽ phải ký hợp đồng với hàng triệu cổ đông có vốn trong công ty cổ phần có xe
bán. Hậu quả đó đủ để chứng minh rằng việc hình thành pháp nhân là cần thiết. Bởi
vì, việc hình thành pháp nhân sẽ cho các bên có thể trực tiếp làm việc với pháp nhân,
tức là làm việc với một đầu mối.

14


Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định
và lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Có những pháp nhân tồn tại lâu dài
hơn rất nhiều so với đời sống của một con người, điển hình là các công ty, doanh

nghiệp có thể tồn tại hàng thế kỷ.
Thứ ba, việc củng cố địa vị cho các tổ chức kinh tế bằng phương tiện pháp
lý để các tổ chức này tham gia vào các quan hệ dân sự, thương mại là nhu cầu
cấp thiết với các loại hình tổ chức khác nhau. Để xác định tư cách pháp lý độc
lập cho các tổ chức này và tránh rủi ro trong kinh doanh đòi hỏi phải tạo ra một
khả năng về sự tách bạch về tài sản giữa phần đưa vào lưu thông và phần còn lại
mà chủ sở hữu có nhu cầu sử dụng vào các mục đích khác. Khi thực hiện nguyên
tắc tách bạch về tài sản cũng là khi xuất hiện một nhân cách pháp lý mới tách
bạch với nhân cách của chủ sở hữu hoặc cộng đồng sở hữu. Để đặt tên cho nhân
cách pháp lý mới đó, khái niệm pháp nhân ra đời.
Tuy nhiên, không có một định nghĩa chung về pháp nhân ở bất cứ pháp luật
của một nước nào mà chỉ dừng lại ở việc quy định các dấu hiệu của pháp nhân với
tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, đó là pháp nhân tồn tại không phụ
thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong pháp nhân đó. Vì vậy, pháp nhân được
coi là “cá thể riêng biệt”, có tài sản riêng độc lập với tài sản của các thành viên của
nó, có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và thực hiện những hành vi pháp
lý nhân danh mình; có quyền làm nguyên đơn, bị đơn trước Tòa án, có trách nhiệm
độc lập về tài sản.
Ở Việt Nam, luật cổ Việt Nam không có khái niệm pháp nhân. Pháp nhân là
một chế định pháp lý du nhập. Qua mỗi thời kỳ đều đánh dấu sự thay đổi lớn về
quan điểm pháp lý ở Việt Nam. Trong thời kỳ Pháp thuộc và thời kỳ kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, chế định pháp nhân là vấn đề pháp lý ít được nhắc đến và đều
phục vụ cho chủ trương chính sách quản lý và ký kết hợp đồng kinh tế, tức là với
mục đích rất hẹp. Đồng thời, quy chế về pháp nhân không được xây dựng trên nền
tảng khoa học mà được ban hành nhằm phục vụ cho mục tiêu chủ quan của nhà
nước. Thời kỳ này, các quan hệ dân sự chưa phát triển, nhiều quan hệ kinh tế của

15



nền kinh tế thị trường chưa được đặt ra như phá sản, giải quyết tranh chấp về hợp
đồng kinh tế nên chế định pháp nhân chưa được quy định đầy đủ ở các khía cạnh
pháp lý của nó. Trong thời kỳ kinh tế thị trường, nền kinh tế nước ta đã bắt đầu có
những chuyển biến tích cực theo hướng kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. BLDS đã quy định khái niệm pháp nhân với những nội dung cụ thể. Theo quy
định tại BLDS: “Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện
sau: Được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với
cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình
tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập” [20, Điều 84].
Từ phân tích trên, khái niệm pháp nhân được hiểu là một tổ chức được thành
lập theo quy định của pháp luật một quốc gia nhằm thực hiện những chức năng
hoặc mục đích nhất định.
- Khái niệm pháp nhân nước ngoài
Trong tư pháp quốc tế của hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất quan
điểm cho rằng việc xác định như thế nào là pháp nhân nước ngoài phải dựa vào dấu
hiệu quốc tịch của pháp nhân. Trong cuốn “Bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản” của
Xaca Vacaxum và Tori Aritdumi có viết: “Pháp nhân nước ngoài là những pháp
nhân không phải là pháp nhân Nhật Bản” [48]. Trong khoa học về tư pháp quốc tế
Việt Nam cũng thừa nhận, pháp nhân nước ngoài là tổ chức hưởng tư cách pháp nhân
theo pháp luật nước ngoài và được công nhận là có quốc tịch nước ngoài.
Quốc tịch của pháp nhân là một trong những dấu hiệu thuộc về thân phận
pháp lý của một pháp nhân. Điều đó thể hiện ở mối liên hệ pháp lý gắn bó, ràng
buộc giữa một pháp nhân với một nhà nước nhất định. Khi pháp nhân mang quốc
tịch một nước nào đó, thì khi hoạt động ở nước ngoài pháp nhân được nhà nước mà
mình mang quốc tịch đứng ra bảo hộ về mặt ngoại giao. Hơn nữa, yếu tố quốc tịch
của pháp nhân còn quyết định đến thân phận của chính pháp nhân. Tức là, mọi việc
liên quan đến vấn đề chia, tách, sáp nhập, giải thể và phá sản của pháp nhân đều do
pháp luật của chính nước mà pháp nhân mang quốc tịch quyết định.
Khác với cá nhân (thể nhân), việc xác định quốc tịch của pháp nhân không


16


phải là chuyện đơn giản mà đôi khi còn hết sức phức tạp. Dưới góc độ luật quốc tế,
việc xác định quốc tịch đối với thể nhân là kết quả của sự kết hợp hai nguyên tắc cơ
bản trong lĩnh vực quốc tịch. Đó là, nguyên tắc quyền huyết thống (nguyên tắc Jus
sanguinis) và nguyên tắc quyền nơi sinh (nguyên tắc Jus soli). Nhưng đối với pháp
nhân thì việc xác định quốc tịch không thể dựa vào hai nguyên tắc nói trên. Hiện
nay, pháp luật của các nước có quy định những tiêu chí xác định quốc tịch của pháp
nhân khác nhau. Chính điều này cũng đã dẫn đến xung đột pháp luật trong pháp luật
của các nước. Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật Pháp thì một công ty đặt trụ
sở giao dịch ở Pháp thì mang quốc tịch Pháp. Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 quy
định: “Mọi công ty có trụ sở trên lãnh thổ Pháp thì phải tuân theo pháp luật Pháp”
[17, Điều 1838]. Tiêu chí này gây ra tranh cãi bởi vì một pháp nhân có thể tiến hành
phần lớn các hoạt động của mình tại một quốc gia khác ngoài quốc gia nơi đặt trụ
sở giao dịch. Pháp luật của Anh, Mỹ quy định rằng quốc tịch của pháp nhân được
xác định dựa trên cơ sở nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân khi nó thành lập. Pháp
luật một số nước lại xác định quốc tịch của pháp nhân tuỳ thuộc vào nơi tập trung
hoạt động chính của pháp nhân.
Đối với Việt Nam, pháp luật không có điều khoản nào quy định các nguyên
tắc riêng để xác định quốc tịch của pháp nhân, nhưng nếu xem xét các quy định
khác của pháp luật như: Tại khoản 1 Điều 765 BLDS quy định về căn cứ để xác
định năng lực pháp luật của pháp nhân nước ngoài: “Năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó
được thành lập” [20]; khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định:
“Quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh
nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh” [21]; khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại
năm 2005 quy định: “Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập,
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật
nước ngoài công nhận”... [23]; theo Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày

15/11/2006 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành các quy định của BLDS về
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, tại khoản 4 quy định: “Cơ quan, tổ chức nước

17


ngoài là các cơ quan, tổ chức không phải là cơ quan, tổ chức Việt Nam được thành
lập theo pháp luật nước ngoài, bao gồm cả cơ quan, tổ chức quốc tế được thành lập
theo pháp luật quốc tế”, tại khoản 5 quy định: “Pháp nhân nước ngoài là pháp
nhân được thành lập theo pháp luật nước ngoài” [1]. Như vậy, pháp luật Việt Nam
đã gián tiếp thừa nhận nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp nhân tùy thuộc vào
“nơi thành lập” của pháp nhân. Do đó, doanh nghiệp có vốn 100% nước ngoài hay
doanh nghiệp liên doanh thành lập theo Luật Đầu tư năm 2005 thì đều mang quốc
tịch Việt Nam. Ngoài ra, những pháp nhân không có quốc tịch Việt Nam thì đều coi
là pháp nhân nước ngoài.
Từ phân tích trên, khái niệm pháp nhân nước ngoài là pháp nhân được thành
lập ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài nhưng thành lập chi nhánh, văn phòng
đại diện tại Việt Nam, hoặc có các hoạt động thương mại tại Việt Nam.
- Xác định quốc tịch của pháp nhân
Mỗi pháp nhân luôn chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật nhất
định. Nói cách khác, không có pháp nhân nào nằm ngoài sự điều chỉnh của một hệ
thống pháp luật của một quốc gia. Việc xác định quốc tịch của pháp nhân không chỉ
có ý nghĩa để phân biệt pháp nhân nước này với pháp nhân nước khác, mà đây còn
là cơ sở mang tính nền tảng cho mọi vấn đề liên quan đến quy chế pháp lý của pháp
nhân, cũng như để xác định pháp luật điều chỉnh năng lực chủ thể của pháp nhân
khi tham gia vào quan hệ pháp luật có tính chất quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế khái
niệm “quốc tịch của pháp nhân” ít được sử dụng hơn so với quốc tịch của cá nhân.
Mối liên hệ giữa pháp nhân với hệ thống pháp luật một nước được thể hiện ở
chỗ pháp nhân phải được thừa nhận theo pháp luật một nước có tư cách pháp lý (tư
cách pháp nhân), theo đó, pháp nhân đương nhiên phải tuân thủ một số quy định

(các điều kiện được cấp phép) và được pháp luật dành cho một số quy chế pháp lý
mà cụ thể là các quyền và nghĩa vụ theo pháp luật nước này. Tư pháp quốc tế gọi
đây là hệ thống pháp luật nơi thành lập pháp nhân (Lex Societatis) [32]. Tuy nhiên,
cần phân biệt vấn đề quốc tịch của pháp nhân và việc công nhận pháp nhân có tư
cách chủ thể là hai vấn đề liên quan gần gũi nhưng có sự khác biệt. Thông thường,

18


pháp nhân có quốc tịch một nước sẽ đương nhiên được công nhận có tư cách chủ
thể theo pháp luật nước đó.
Mỗi nước dựa trên các tiêu chí khác nhau để xác định quốc tịch cho pháp
nhân. Hiện nay trên thế giới có các trường pháp xác định quốc tịch của pháp nhân
như sau:
- Thuyết nơi thành lập pháp nhân: Theo thuyết này, quốc tịch pháp nhân được
xác định theo nơi pháp nhân thành lập, nơi cấp phép, nơi làm các thủ tục đăng ký pháp
nhân. Đây là quan điểm được nhiều nước thừa nhận như các quốc gia thuộc hệ thống
pháp luật Anh - Mỹ và một số quốc gia thuộc Liên Xô cũ…
- Thuyết nơi đặt trụ sở chính của pháp nhân: Quốc tịch của pháp nhân được
xác định theo pháp luật nước nơi đặt trụ sở chính của công ty. Các quốc gia theo hệ
thống pháp luật châu Âu lục địa như Pháp, Đức, Ba Lan… lựa chọn theo thuyết này
là cơ sở xác định quốc tịch của pháp nhân. Đây là nơi pháp nhân có trụ sở chính của
cơ quan điều hành, nơi ban lãnh đạo làm việc trên thực tế chứ không phải trụ sở ghi
trên giấy tờ kinh doanh.
- Thuyết nơi pháp nhân thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh: Dựa trên tiêu
chí nơi hoạt động để xác định quốc tịch của pháp nhân vì nhiều pháp nhân thành lập
ở nước ngoài nhưng lại hoạt động chủ yếu trên lãnh thổ quốc gia khác. Đây chủ yếu
là các quốc gia Trung Đông mà nền kinh tế dựa vào khai thác dầu mỏ, nơi thực hiện
nhiều hợp đồng khai thác dầu mỏ của công ty nước ngoài.
Tóm lại, mặc dù pháp luật các nước khác nhau trong việc đưa ra các tiêu chí

xác định quốc tịch của pháp nhân, có quan điểm cho rằng có xung đột phát luật
trong việc xác định quốc tịch pháp nhân, nhưng trên thực tế vấn đề này rất hiếm xảy
ra, các học thuyết chủ yếu tập trung xem xét các vấn đề về pháp luật áp dụng đối
với pháp nhân và các quyền, nghĩa vụ của pháp nhân.
1.3. Khái niệm địa vị pháp lý của cá nhân và pháp nhân nước ngoài
1.3.1. Định nghĩa
Định nghĩa “địa vị pháp lý” theo nghĩa hẹp được hiểu là tổng hợp các quyền
và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có
khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

19


×