Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Địa vị pháp lý của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 97 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, chưa từng
công bố trong một công trình khoa học của người khác. Các tài liệu tham khảo
được trích dẫn một cách hợp pháp.
Ngƣời viết

Lê Thị Thanh Loan

2


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Luật học
Nguyễn Ngọc Khánh – Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, người đã hướng dẫn khoa học và tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn
thành Luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô
giảng viên Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các thầy, cô cộng tác viên
giảng dạy tại Khoa, những người đã tận tình dìu dắt và truyền đạt lại những
kiến thức khoa học pháp lý bổ ích cho tôi trong suốt khoá học.
Xin cảm ơn gia đình, người thân và các bạn đồng môn, đồng nghiệp
đã luôn ở bên cạnh động viên và cổ vũ tôi trong quá trình thực hiện Luận
văn này.

Lê Thị Thanh Loan

3


MỤC LỤC
Trang bìa


Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục bảng biểu
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
VIỆN KIẾM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy
Nhà nước
1.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự
1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự
1.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự
Chương 2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Trang
1
2
3
4
6
7
12
12
15

15
17
22
26

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

2.1.Khái quát quá trình phát triển của pháp luật nước ta về địa
vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 – 1959
2.1.2. Giai đoạn từ 1959 – 1989
2.1.3. Giai đoạn từ 1989 – 2002
2.1.4. Giai đoạn từ 2002 - trước khi ban hành Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004
2.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành
2.2.1. Vị trí, chức năng, phạm vi tham gia phiên toà của Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự hiện hành
2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát trong
4

26
26
27
29
39
40
42
46



tố tụng dân sự hiện hành
2.2.2.1. Thẩm quyền tham gia tố tụng tại phiên toà,
phiên họp giải quyết vụ việc dân sự
2.2.2.2. Thẩm quyền kháng nghị các bản án, quyết
định của toà án
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về địa
vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
2.3.1. Những kết quả đã đạt được
2.3.2. Những bất cập trong việc áp dụng pháp luật về địa vị
pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
hiện hành
Chương 3. HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT

48
50
54
54
58

66

NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

3.1. Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện địa vị pháp lý của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
3.1.1. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự trên cơ sở các quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về cải cách tư pháp

3.1.2. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự trên cơ sở đòi hỏi từ thực tiễn cuộc sống
3.1.3. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự trên cơ sở tham khảo có chọn lọc
kinh nghiệm nước ngoài
3.2. Những đề xuất cụ thể
3.2.1. Về thẩm quyền của Viện kiểm sát khi tham gia tố tụng
nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi
ích của những cá nhân không có khả năng tự thực hiện
quyền dân sự và/hoặc không thể tự bảo vệ mình
3.2.2. Về thẩm quyền của Viện kiếm sát khi tham gia tố tụng
với vị trí là người bảo vệ luật pháp và lợi ích của luật

66

PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91
93

5

66

68
72

84
85


87


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1

Bảng số liệu về sự tham gia của Viện kiểm sát trong các vụ án dân
sự, hôn nhân gia đình cấp sơ thẩm.

Bảng 2.2

Bảng số liệu về sự tham gia của Viện kiểm sát trong các vụ án dân
sự, hôn nhân gia đình ở cấp phúc thẩm.

Bảng 2.3

Bảng số liệu về sự tham gia phiên toà của Viện kiểm sát trong các
vụ án kinh doanh, thương mại và lao động ở cấp sơ thẩm và phúc
thẩm.

Bảng 2.4

Bảng số liệu về sự tham gia phiên toà của Viện kiểm sát trong các
vụ án kinh doanh, thương mại và lao động ở cấp sơ thẩm và phúc
thẩm.

6



PhÇn më ®Çu
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài.
Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt nam qua các thời kỳ, Bộ máy
Nhà nước và hệ thống pháp luật của nước ta cũng không ngừng phát triển và
ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng
trong mỗi giai đoạn cụ thể. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách
mạng non trẻ, Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân ngày nay)
đã được thành lập nằm trong hệ thống Toà án nhân dân với những chức năng,
nhiệm vụ hết sức quan trọng góp phần bảo vệ thành quả và chính quyền cách
mạng. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước và trong các
hoạt động tố tụng đã có nhiều thay đổi lớn lao cùng với sự thay đổi của đất
nước và đòi hỏi của xã hội. Nếu như quy định pháp luật về địa vị pháp lý của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự tương đối ổn định, dường như
không có thay đổi gì nhiều thì trong tố tụng dân sự lại có những chuyển biến
sâu sắc, tạo nên nét đặc sắc trong tổ chức và thực thi quyền lực của nước ta.
Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là một chế
định có từ sớm trong lịch sử lập pháp nước ta nhưng chưa thực sự đi vào cuộc
sống khi đất nước còn đang trong giai đoạn chiến tranh, lúc này nhiệm vụ trung
tâm là giải quyết các vụ án hình sự, cho nên các quy định của pháp luật về địa vị
pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự được quy định chặt
chẽ và đầy đủ hơn. Trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế mà nước ta đang tiến hành
hiện nay thì vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là
một nội dung rất quan trọng, một mắt xích quan trọng trong công cuộc cải cách
tư pháp. Do vậy, nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện về địa vị pháp lý của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là một việc làm cần thiết góp phần
thực hiện thành công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Việc xác định địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự có ý nghĩa quan trọng, xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn, bởi điều đó

7


không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động
tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng
mà còn góp phần vào việc xây dựng các văn bản pháp luật về Viện kiểm sát,
về tố tụng dân sự cũng như việc hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của
ngành kiểm sát. Trong tố tụng dân sự, chế định địa vị pháp lý của Viện kiểm
sát nhân dân không chỉ liên quan và ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân mà còn liên quan đến những chế định quan trọng khác
như chế định Toà án nhân dân, chế định chứng cứ và chứng minh, trình tự, thủ
tục tố tụng tại phiên toà. Vì thế, có thể nói rằng thành công hay hiệu lực, hiệu
quả của thủ tục tố tụng dân sự phụ thuộc một phần vào việc xác định đúng đắn
chế định địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, mô hình lý luận về địa vị pháp lý của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự vẫn chưa được xây dựng một cách
thống nhất. Giữa các nhà khoa học vẫn diễn ra các cuộc tranh luận chưa dứt về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự. Một khi địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự vẫn
chưa được nhận thức một cách đúng đắn, phù hợp với bản chất của quan hệ dân
sự thì hiệu quả điều chỉnh của pháp luật cũng sẽ khó đạt được.
Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là một
trong những nội dung quan trọng nhưng không kém phần phức tạp của khoa
học luật tố tụng dân sự song thực tế chưa được quan tâm nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống. Trong sách báo pháp lý ở nước ta có một số ít bài
viết có đề cập tới chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự ở những góc độ khác nhau nhưng chưa đi sâu nghiên cứu
vấn đề này. Trong các giáo trình giảng dạy ở bậc cử nhân của các trường
chuyên ngành Luật thì vấn đề địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự mới chỉ trình bày ở mức độ khái quát nhất về mặt lý luận mà

chưa đi sâu nghiên cứu các nội dung cụ thể :
Trong thời gian qua, đã có nhiều văn bản Pháp luật mới được ban hành có
liên quan đến chế định Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự như Hiến
8


pháp năm 1992 sủa đổi năm 2002, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự
ngày 15/06/2004 có hiệu lực ngày 01/01/2005 theo đó, địa vị pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự có sự thay đổi cơ bản về chất và một số
vấn đề pháp lý liên quan đến chế định này đã được làm rõ. Tuy nhiên, tính
thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản Pháp luật với Bộ luật tố tụng dân sự
vẫn chưa được đảm bảo, do vậy vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu xây dựng các
quy định về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự để
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản Pháp luật.
Mặt khác, trong thực tiễn hoạt động kiểm sát đã gặp phải không ít những
vướng mắc, khó khăn khi áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ngay cả việc ban hành Bộ luật tố tụng
dân sự cũng chưa giải quyết được triệt để. Bộ luật tố tụng dân sự đã có hiệu
lực gần một năm với rất nhiều những thay đổi quan trọng về địa vị pháp lý của
Viện kiểm sát nhân dân nhưng những văn bản hướng dẫn thực hiện những quy
định này vẫn chưa đủ do vậy cũng gây khó khăn trong quá trình điều chỉnh
Pháp luật và áp dụng Pháp luật nên cần nghiên cứu, hoàn thiện làm tiền đề
cho việc xây dựng các văn bản hướng dẫn một cách đầy đủ, toàn diện và thống
nhất.
Các luận điểm nêu trên chính là cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
"Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự" mà tác giả
lựa chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong thời gian qua, số lượng đề tài nghiên cứu về “Địa vị pháp lý của

Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” rất ít, chỉ có thể kể đến đề tài
khoa học cấp Bộ của Trường Cao đẳng Kiểm sát: “Chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” (năm 2000).
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí trong nước
xung quanh vấn đề vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự. Ở một góc độ nào đó, những bài viết, công trình nghiên cứu này đã đề
9


cập đến những khía cạnh nhất định về địa vị của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu một
cách chuyên sâu, toàn diện về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự, nhất là trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Đề tài
nghiên cứu cấp Bộ của trường Cao đẳng Kiểm sát được thực hiện đã lâu. Hiện
tại, quan điểm lý luận cũng như quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã có nhiều thay đổi. Vì lẽ đó, việc nghiên
cứu đề tài này với mong muốn tiếp cận các quy định cụ thể về địa vị pháp lý
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, phân tích những tồn tại,
vướng mắc của quy định pháp luật hiện hành nhằm góp phần hoàn thiện quan
điểm lý luận là việc làm cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm góp phần hoàn thiện quy định về địa vị
pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về địa vị pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
- Phân tích các quy định của pháp luật nước ta từ năm 1945 đến nay về
địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự ở nước ta thời gian vừa qua.

- Làm sáng tỏ về mặt lý luận, chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót về
mặt xây dựng pháp luật tố tụng dân sự, từ đó đóng góp hoàn thiện quy định về
địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, dựa trên nền
tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, chứng minh, so
sánh đối chiếu; phương pháp đánh giá, khái quát hoá và hệ thống hóa vấn đề
và một số phương pháp nghiên cứu khác.
10


5. Bố cục của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản Luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự.
Chƣơng 2: Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng.
Chƣơng 3: Hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự.

11


CHƢƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.
1.1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY
NHÀ NƢỚC.


Có thể khẳng định rằng Viện kiểm sát hay Viện công tố mặc dù có tên
gọi khác nhau nhưng đều chỉ một cơ quan không thể thiếu trong bất kỳ Bộ
máy Nhà nước của một quốc gia nào. Với mỗi mô hình tổ chức quyền lực, nhà
cầm quyền quy định cho cơ quan này địa vị pháp lý không giống nhau. Tại các
quốc gia như Anh, Mỹ, Phần Lan, Nhật Bản… Viện Công tố được đặt trong hệ
thống hành pháp thuộc chính phủ, còn ở một số quốc gia khác như Cộng hòa
Pháp, Argentina, Sri Lanka… cơ quan Công tố được tổ chức bên cạnh hệ
thống tòa án; Riêng ở một số nước như Liên bang Nga, Hungari, Bồ Đào Nha,
Estonia… thì Viện Công tố không thuộc các cơ quan hành pháp hay tư pháp
mà có một vị trí độc lập, do cơ quan quyền lực Nhà nước là Quốc hội thành lập
ra, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Vai trò của Viện Công tố các
nước thể hiện cũng rất khác nhau, có nước Viện Công tố chỉ đạo hoạt động
điều tra, trực tiếp điều tra, quyết định việc phân công điều tra viên, có nước vai
trò của Viện Công tố hạn chế hơn, thể hiện chủ yếu ở giai đoạn xét xử, khi đó
Công tố viên đóng vai trò như là một bên trong tranh tụng. Pháp luật một số
nước như Liên bang Nga, Pháp, Nhật Bản… lại quy định Viện Công tố không
chỉ thực hành quyền công tố, giám sát việc điều tra mà còn thực hiện nhiệm vụ
khởi tố một số vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Có
thể nói, mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công tố trên thế giới rất đa
dạng và không đồng nhất, bởi lẽ cũng như những chế định pháp luật khác, chế
định Viện Công tố chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố như truyền thống văn
hoá, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, quyền lực Nhà nước được tổ chức và thực hiện theo
nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa có sự phân công, phân nhiệm: theo đó
12


toàn bộ quyền lực Nhà nước tập trung trong tay Quốc hội và có sự phân công,
phân nhiệm giữa Quốc hội và các cơ quan Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát

để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng, nhiệm vụ của mình. Theo Hiến
pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày
25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 của
Quốc hội (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1992 sửa đổi) thì bộ máy Nhà nước ta
gồm 4 hệ thống cơ quan: các cơ quan quyền lực (Quốc hội và Hội đồng nhân
dân địa phương), các cơ quan quản lý (Chính phủ và Uỷ ban nhân dân địa
phương), các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân
địa phương) và các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát nhân dân địa phương). Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân là một hệ
thống cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước ta, là một trong 4 cơ
quan cấu thành bộ máy Nhà nước.
Theo quy định của Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Viện kiểm
sát nhân dân có 2 chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Với quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi cho
phép nhận thức rằng, so với Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992, chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Hiến pháp năm 1992 sửa đổi về
cơ bản là không thay đổi, vẫn là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật1. Bởi lẽ đó, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi vẫn giữ nguyên tên gọi
cũng như vị trí của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đáng lưu ý là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 sửa đổi và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đều có

Căn cứ vào nội dung Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) chúng ta thấy sự điều chỉnh chức năng của
Viện kiểm sát chỉ có hệ quả là phạm vi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của hệ thống cơ
quan này bị thu hẹp lại chứ bản thân hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật vẫn tiếp
tục được duy trì. Cụ thể là: Theo Hiến pháp năm 1992 Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trên các lĩnh vực: hành chính, kinh tế, xã hội, điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ và
cải tạo. Nay, theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Viện kiểm sát nhân dan chỉ kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong các hoạt động tư pháp (điều tra, xét xử, thi hành án, giam, giữ và cải tạo), không kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa. Như vậy, phạm vi thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân được giới hạn trong hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp.
1

13


chung một cách thể hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, đó là thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cách đảo ngược nội
dung trình bày so với cách thể hiện cũ hoàn toàn không phải là chuyện ngẫu
nhiên, mà có lý do rất cụ thể của nó. Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 đặt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trước chức năng thực hành quyền công tố là thể hiện theo cách truyền
thống từ khi Viện kiểm sát nhân dân ra đời (năm 1960). Chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật là chức năng chính diện, là cái hồn thể hiện ngay ở
tên gọi của hệ thống cơ quan này. Có thể nói, trong suốt hơn 40 năm qua, từ
khi Viện kiểm sát nhân dân ra đời, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
đã trở thành chức năng bao trùm, đến mức người ta coi Viện Kiểm sát duy
nhất chỉ có một chức năng là kiểm sát việc tuân theo pháp luật, còn thực hành
quyền công tố chỉ là một quyền năng nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật. Nay, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi và Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định rõ Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự “đảo” vị trí, chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân cho thấy mặc dù Viện kiểm sát nhân dân vẫn có
hai chức năng, nhưng chức năng công tố được đưa lên trước, được nhấn mạnh
để Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện cho hiệu quả. Đây là chức năng
ưu tiên.
Cùng với chức năng công tố, Viện kiểm sát nhân dân còn có chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Mặc dù cho đến nay chưa có một tài liệu nào

giải thích chính thức về các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, nhưng căn
cứ vào Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và trên cơ sở các tài
liệu mà chúng ta có được về hoạt động này thì có thể hiểu một cách khái quát
nhất rằng các hoạt động tư pháp là các hoạt động tố tụng (tố tụng hình sự, tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng lao động, tố tụng kinh tế). Và như vậy,
kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ
trong hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng. Mục đích của hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp là nhằm
14


bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng
được thực hiện trên cơ sở và theo quy định của pháp luật. Nội dung các quyền
của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
đối với các hoạt động tư pháp là tất cả các quyền năng pháp lý do pháp luật
quy định mà Viện kiểm sát nhân dân được sử dụng để phát hiện vi phạm và
yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng, nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất.
1.2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ.

1.2.1 Khái niệm địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự.
Địa vị pháp lý nói chung theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông
dụng là “Tổng thể các điều kiện pháp lý mà pháp luật đòi hỏi để xác định cho
một chủ thể có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập"2
Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân và của cơ quan Nhà nước nói
chung được xác định bởi vị trí, vai trò của nó trong hệ thống các cơ quan nhà
nước, tính chất quyền lực và chức năng nhà nước mà cơ quan đó được giao,

mức độ phạm vi tham gia của nó vào quá trình thực hiện các chức năng nhà
nước đó.
Có thể khái quát rằng: địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự là tổng thể các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Trong cuộc sống hàng ngày, khi phát sinh tranh chấp cá nhân hay tổ
chức có thể phải yêu cầu Toà án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Đề giải quyết tranh chấp đó, Toà án và những người tham gia
sẽ phải tiến hành những hành vi nhất định gọi là tố tụng. Tố tụng để giải quyết
một tranh chấp dân sự được gọi là tố tụng dân sự. Tương tự như vậy có tố tụng

2

Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng – NXB Đại học Quốc gia, Tr150.

15


hình sự, tố tụng hành chính…. Tố tụng dân sự được hiểu theo nghĩa rộng đó là
toàn bộ trình tự được tiến hành để giải quyết một số tranh chấp dân sự, bao
gồm cả trình tự hoà giải (ngoài Toà án) và trọng tài. Quan niệm này được
nhiều nước trên thế giới công nhận và được thể hiện trong Bộ luật tố tụng dân
sự của họ.
Ở nước ta, tố tụng dân sự thường được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm
trình tự giải quyết tranh chấp tại toà án (bao gồm cả trình tự hoà giải tại toà án và
trình tự trọng tài có liên quan đến toà án). Và như vậy, với tư cách là một ngành
luật có đối tượng điều chỉnh là tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng dân sự bao gồm
hệ thống các quy phạm pháp luật quy định trình tự, thủ tục xem xét và giải quyết
vụ án dân sự tại Toà án, hay nói khác đi, pháp luật tố tụng dân sự là tổng thể các
quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi tố tụng và quan hệ pháp luật tố

tụng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án dân sự giữa Toà án, cơ quan tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.
Từ đó có thể thấy nội hàm địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự được phản ánh và thể hiện ở những phương diện:
- Các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự.
- Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Cũng như nhiều chế định pháp lý khác ở nước ta, địa vị pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân nói chung, trong hoạt động giải quyết các vụ án dân sự nói
riêng được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trước
hết phải nói đến là Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều
137 Hiến pháp 1992 sửa đổi quy định “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”.

16


Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 đã quy định một cách khái quát về vị trí, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự (Điều 20 – 25
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Sau khi Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004 ra đời, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự được quy định rất cụ thể trong Bộ luật này và có nhiều nội dung mới
mà các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chưa thay đổi kịp
cho phù hợp. Sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự đánh dấu một bước pháp
điển hoá cao trong kỹ thuật lập pháp của nước ta, phần nào đã tập trung được

những nội dung cơ bản nhất , quan trọng nhất thể hiện cụ thể và rõ nét nhất địa
vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự.
1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Việc xác định vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, bởi lẽ điều đó
không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống cơ sở lý luận về hoạt
động tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói
riêng mà còn góp phần quan trọng vào việc xây dung các văn bản pháp luật về
Viện kiểm sát nhân dân, về tố tụng dân sự …cũng như việc hướng dẫn chỉ đạo
hoạt động nghiệp vụ của ngành kiểm sát.
Trong tố tụng dân sự, nếu vị trí, vai trò của Toà án và các bên đương sự
được xác định một cách rõ ràng và hiển nhiên thì vị trí, vai trò của Viện kiểm
sát không phải lúc nào cũng rõ ràng và hiển nhiên như vậy. Sở dĩ có tình trạng
này là do quan niệm quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước ở mỗi quốc gia khác nhau, từ đó có những quy định khác
nhau về mô hình tổ chức, vị trí, vai trò của Viện kiểm sát, đặc biệt là trong lĩnh
vực dân sự. Trong lĩnh vực hình sự, mặc dù quan niệm về vị trí, chức năng của
Viện công tố cũng không hoàn toàn đồng nhất nhưng về cơ bản, các nước đều
cho rằng cơ quan Công tố giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là bên nhân danh
Nhà nước truy tố và buộc tội kẻ phạm tội trước toà. Còn trong lĩnh vực dân sự,
phần lớn các quốc gia đều quan niệm rằng vị trí, vai trò của Viện công tố hạn
17


chế hơn, do ảnh hưởng từ nguyên tắc tự định đoạt của các bên trong quan hệ
dân sự. Viện công tố chỉ can thiệp vào quan hệ dân sự khi một bên bị mất năng
lực hành vi (tâm thần), hạn chế năng lực hành vi (người chưa thành niên),
không thể có mặt ( tuyên bố chết hoặc mất tích) hoặc khi mà quyền tự định
đoạt của các bên xâm hại hoặc có khả năng xâm hại đến lợi ích công hay trật
tự pháp luật nhằm bảo vệ những lợi ích và trật tự đó mà thôi. Đây là sự kết hợp

vừa nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên, vừa đảm bảo sự can thiệp
từ phía nhà nước trong trường hợp cần thiết. Các nước theo truyền thống luật
án lệ (Common law) thì cho rằng trong quan hệ dân sự càng ít sự can thiệp của
công quyền càng tốt và vì thế, Viện công tố những nước này hầu như không
tham gia vào tố tụng dân sự.
Đối với các nước theo truyền thống luật dân sự, khi tham gia vào tố tụng
dân sự, thông thường, Viện công tố có ba vị trí khác nhau: là nguyên đơn, là
người giám sát và là bị đơn. Tương ứng với mỗi vị trí đó, Viện công tố có
những nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau. Khi khởi kiện vì lợi ích công, Viện
công tố là một bên trong tố tụng dân sự, có quyền và nghĩa vụ tố tụng như
nguyên đơn khác, trừ quyền hoà giải và nghĩa vụ nộp án phí và chi phí tố tụng.
Khi tham gia tố tụng dân sự với vai trò giám sát (thường trong các vụ án mà
một bên là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm
thần hoặc các trường hợp tuyên bố chết, tuyên bố mất tích, tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự …), Viện công tố có trách nhiệm giám sát việc áp dụng
pháp luật và có nghĩa vụ phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Sự
tham gia của Viện công tố trong hai trường hợp này xuất phát từ nhu cầu bảo
vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ lợi ích công cộng và đảm bảo công bằng xã hội.
Viện công tố không có một lợi ích vật chất nào liên quan tới vụ án cũng như
không bị ràng buộc chỉ vì lợi ích từ phía các đương sự. Thậm chí, ngay cả
trong trường hợp quyền của người chưa thành niên, người bị nhược điểm về
thể chất hoặc tâm thần bị xâm phạm thì việc Viện công tố tham gia tố tụng
cũng không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân cho họ mà trước hết là bởi bản
chất những vụ việc này có tính chất công và mang ý nghĩa xã hội. Còn khi là
18


bị đơn (pháp luật một số nước quy định: khi Nhà nước hoặc các pháp nhân
công pháp bị kiện thì Viện công tố sẽ tham gia với tư cách bị đơn), Viện công
tố có quyền và nghĩa vụ như bị đơn.

Ở Việt Nam, là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp (Điều 137 Hiến pháp và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân), Viện kiểm sát có vị trí và vai trò tương đối đặc biệt trong tố tụng dân sự.
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 thì Viện kiểm sát không chỉ là cơ quan bảo vệ lợi ích xã
hội và trật tự công cộng mà còn là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vụ tố tụng dân sự. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 thì nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã bị thu
hẹp đi nhưng những quyền đặc thù như tham gia phiên toà (trong một số
trường hợp luật định), kháng nghị bản án, quyết định dân sự của Toà án theo
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm …vẫn tiếp tục được quy định.
Mặc dù các quy định về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự đã được xác định ngay từ khi thành lập ngành kiểm sát nhân
dân (năm 1960) và hầu như không có những thay đổi lớn trong những lần sửa đổi
Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sau này nhưng cho tới nay,
xung quanh vấn đề này vẫn có nhiều quan điểm rất khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Viện kiểm sát chỉ có một chức năng là
kiểm sát việc tuân theo pháp luật và toàn bộ thẩm quyền của Viện kiểm sát nói
chung và trong tố tụng dân sự nói riêng đều xuất phát từ chức năng này. Quyền
công tố mà trong tố tụng dân sự được thể hiện bằng việc khởi tố vụ án dân sự, vụ
án lao động … chỉ là một quyền năng, một nội dung hay một bộ phận của chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát mà thôi.
Quan điểm thứ hai cho rằng: trong tố tụng, bao gồm cả tố tụng hình sự,
tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, kinh tế, lao động… Viện kiểm sát luôn có
hai chức năng độc lập với nhau, đó là chức năng thực hành quyền công tố và
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Chức năng công tố trong tố tụng
dân sự được thể hiện bằng thẩm quyền khởi tố, đó là việc nhân danh quyền lực
19



công đưa vụ kiện ra tòa. Còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được thể
hiện bằng thẩm quyền khởi tố, đó là việc nhân danh quyền lực công đưa vụ
kiện ra toà. Còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện bằng các
thẩm quyền còn lại. Mặc dù là hai chức năng riêng biệt trong tố tụng dân sự
nhưng chúng có quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau, đan xen, không tách rời,
chức năng này làm tiền đề, tạo điều kiện và hỗ trợ cho chức năng kia và đảo
ngược lại. Theo quan điểm này, không thể tách bạch hai chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, và vì vậy nhiệm vụ và
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự đều xuất phát từ
hai chức năng này.
Quan điểm thứ ba lại cho rằng: trong tố tụng dân sự Viện kiểm sát chỉ
có một chức năng duy nhất là kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng thực
hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự vì quyền công tố là quyền
của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người đã thực hiện
hành vi tội phạm. Đối tượng của quyền công tố không có trong lĩnh vực dân sự
mà chỉ có thể là tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, mọi thẩm quyền của Viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự đều xuất phát từ chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
Các quan điểm trên, theo chúng tôi, phần lớn đều dựa trên cơ sở các quy
định của pháp luật. Quan điểm thứ nhất dựa trên các quy định của Hiến pháp
năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Quan điểm thứ
hai dựa vào các quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1981. Quan điểm thứ ba dựa vào các quy định của Hiến pháp
năm 1992 sửa đổi và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Chính vì
dựa trên các quy định của pháp luật nên khi pháp luật thay đổi, các quan điểm
về Viện kiểm sát nói chung và trong tố tụng dân sự nói riêng cũng thay đổi
theo. Nhưng không lẽ vì vậy mà vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự cũng thay đổi, khi thì thuộc chức năng này, khi thì chuyển sang thuộc
chức năng khác? Hơn nữa, thật khó khi phải tin rằng quyền công tố xuất phát
từ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, là một nội dung của chức năng

20


kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Cũng là rất khó khi phải lý giải rằng thẩm
quyền khởi tố các vụ án dân sự của Viện kiểm sát (theo quy định của pháp luật
trước đây) xuất phát từ chức năng công tố hoặc chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
Chúng tôi cho rằng, sẽ là không phù hợp nếu quy tất cả các lĩnh vực
hoạt động, các nhiệm vụ và thẩm quyền mà pháp luật giao cho Viện kiểm sát
vào chức năng của cơ quan này. Không phải mọi thẩm quyền, mọi lĩnh vực
hoạt động của Viện kiểm sát nói riêng và của các cơ quan Nhà nước nói chung
đều xuất phát từ chức năng với nghĩa là “hoạt động đặc trưng” (từ điển Tiếng
Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 1989) của cơ quan đó. Ngoài lĩnh vực hoạt
động chính, đặc trưng, các cơ quan còn có thể có những thẩm quyền khác, lĩnh
vực hoạt động khác. Những thẩm quyền, lĩnh vực hoạt động này thường liên
quan hoặc gần gũi với chức năng nhưng đôi khi chẳng có liên quan gì đến
chức năng của cơ quan đó cả. Ở Pháp, Viện công tố được giao nhiệm vụ giám
sát hộ tịch, một nhiệm vụ chẳng có liên quan gì đến chức năng công tố cả. Ở
Việt Nam, Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng điều đó không có nghĩa là mọi thẩm
quyền, mọi lĩnh vực hoạt động của Viện kiểm sát đều xuất phát từ chức năng
này, đều phục vụ chức năng này (ví dụ như thống kê tội phạm chẳng hạn).
Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm
sát các hoạt động tư pháp nhưng không có nghĩa là thẩm quyền khởi tố các vụ
án dân sự (nay theo BLTTDS năm 2004 thì Viện kiểm sát nhân dân không còn
chức năng này, nhưng nếu có thì cũng không làm thay đổi chức năng của Viện
kiểm sát) cũng thuộc chức năng này. Đây chỉ là một thẩm quyền mà pháp luật
nước ta và một số nước khác giao cho Viện kiểm sát mà thôi, nó hoàn toàn
không thuộc chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp (bởi vì nếu coi thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự thuộc chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thì không giải thích được tại
sao Viện kiểm sát – Viện Công tố một số nước có chức năng thực hành quyền
công tố nhưng lại không có thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự hoặc cũng như tại
21


sao Viện kiểm sát – Viện công tố một số nước không có chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp nhưng lại có thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự). Điều đó
có nghĩa là ngoài nhiệm vụ chính (mà nếu không có nhiệm vụ này thì không
còn là cơ quan công tố nữa) là truy tố và buộc tội kẻ phạm tội trước toà, Viện
kiểm sát hoặc Viện công tố còn có thể được giao những nhiệm vụ khác nữa mà
ở mỗi quốc gia, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, những nhiệm vụ này là
rất khác nhau.

1.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự có thể xác
định trên hai phương diện:
Phương diện thứ nhất, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự là những yêu cầu cụ thể do Nhà nước đặt ra và được quy định
trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp
luật khác mà Viện kiểm sát nhân dân phải thực hiện bằng những hình thức ,
biện pháp nhất định trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Từ quy định
của Điều 2 về nhiệm vụ chung của toàn ngành kiểm sát nhân dân (Viện kiểm
sát nhân dân có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính
mạng, sức khoả, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm
để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật) và quy định của
Điều 20 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về mục đích hoạt

động kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao
động… (Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án… nhằm
bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời) có thể xác định
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là:

22


- Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Toà án các cấp nhanh chóng,
khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời;
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Toà án có căn cứ và đúng pháp
luật ;
Trên phương diện thứ hai, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự được hiểu là trách nhiệm, là nghĩa vụ pháp lý hay là một công
việc mà pháp luật quy định Viện kiểm sát nhân dân phải tiến hành trong hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Là trách nhiệm, là nghĩa vụ, nhiệm vụ
luôn đi đôi cùng với quyền hạn (quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định
cho Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự).
Về nguyên tắc, nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân một
mặt phải được xác định đầy đủ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự, mặt khác chúng phải được pháp luật quy
định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ. Có như vậy mới đảm bảo cho Viện kiểm sát
nhân dân hoàn thành có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời
ngăn chặn sự tuỳ tiện hay lạm dụng chúng trong thực tiễn áp dụng. Nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự được thực hiện
thông qua hoạt động của các chức danh pháp lý cụ thể, đó là Viện trưởng, Phó
Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự có
thể phân loại theo các tiêu chí khác nhau:

Căn cứ vào các giai đoạn tố tụng dân sự có thể phân nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự thành:
-

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân ở giai đoạn xét xử
sơ thẩm,

- Nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân ở giai đoạn xét xử
phúc thẩm,
- Nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân ở giai đoạn giám
đốc thẩm, tái thẩm,
23


-

Nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân ở giai đoạn tố tụng
đặc biệt là công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Toà án, trọng tài nước ngoài.

Căn cứ vào tính chất, nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự có thể phân loại thành:
- Quyền tham gia một số phiên toà (theo quy định tại Điều 21
BLTTDS năm 2004), phiên họp việc dân sự sơ thẩm, một số phiên
toà xét xử phúc thẩm (phiên toà Viện kiểm sát nhân dân tham gia ở
phiên toà sơ thẩm hoặc phiên toà do Viện kiểm sát nhân dân kháng
nghị phúc thẩm), phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Quyền kháng nghị các bản án, quyết định dân sự của Toà án theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Quyền yêu cầu, kiến nghị Toà án, đương sự và những người tham gia

tố tụng khác thực hiện hành vi nhất định.
Căn cứ vào vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự có thể phân loại thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân thành:
- Về thẩm quyền của Viện kiểm sát khi tham gia tố tụng nhằm bảo vệ
lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của những cá nhân không
có khả năng tự thực hiện quyền dân sự và/hoặc không thể tự bảo vệ
mình.
- Về thẩm quyền của Viện kiểm sát khi tham gia tố tụng với vị trí là
người bảo vệ luật pháp và vì lợi ích của luật.
Ngoài những tiêu chí phân loại nêu trên có thể còn những cách phân loại
khác nữa nhưng do phạm vi có hạn nên trong nội dung Luận văn chỉ nêu hai
cách phân loại phổ biến mà thôi. Mỗi cách phân loại thẩm quyền nêu trên có ý
nghĩa nhất định nhưng dưới góc độ kỹ thuật lập pháp thì cách phân loại theo
từng giai đoạn tố tụng dân sự là thuận tiện và hợp lý hơn.
Mặc dù nội dung cũng như phạm vi áp dụng nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự của Viện công tố các nước và
Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam rất khác nhau tuỳ theo pháp luật của mỗi
24


quốc gia, nhưng dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, nhiệm vụ và quyền hạn của
Viện kiểm sát nước ta hay Viện công tố các nước có đặc điểm chung là đều
được quy định cả trong các văn bản pháp luật về hình thức và văn bản pháp
luật về nội dung. Ví dụ: ở nước ta, nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự được ghi nhận chủ yếu trong Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân (nhưng hiện nay những quy định này đã không còn phù hợp
với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004) và Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004. Ở Cộng hoà Pháp, quyền khởi kiện của Viện công tố đối với những
vụ án dân sự liên quan đến lợi ích công được quy định trong Bộ luật dân sự, còn
những nhiệm vụ quyền hạn khác của Viện công tố trong tố tụng dân sự lại được

quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự… ở Liên bang Nga cũng vậy, nhiệm vụ
quyền hạn của Viện kiểm sát Liên bang Nga trong tố tụng dân sự được ghi nhận
trong Luật tổ chức Viện kiểm sát Liên bang, trong Bộ luật dân sự, trong Bộ luật
tố tụng dân sự, trong Luật về môi trường…
Nói tóm lại, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự là nhiệm vụ quyền hạn do pháp luật quy định. Nhiệm vụ, quyền
hạn này được xác định trên cơ sở vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác nhau,
nhưng chủ yếu là trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004.

25


CHƢƠNG 2.
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG.
2.1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT NƢỚC TA VỀ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.

2.1.1 Giai đoạn từ 1945 – 1959
Pháp luật của Nhà nước ta quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của
công tố viên trong tố tụng dân sự như sau:
- Sắc lệnh số 13 về tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán quy định:
“Mỗi tuần lễ ít ra cũng phải có hai phiên toà công khai, một phiên hộ và một
phiên hình. Tại phiên toà, chánh án ngồi xử, biện lý ngồi ghế công tố viên”.
Sau đó ít lâu Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 51 ngày 17/04/1946 ấn định quyền
của các toà án và sự phân công giữa các nhân viên tư pháp. Trong Sắc lệnh, vị
trí, chức năng và nhiệm vụ của Viện công tố được quy định khá rõ ràng. Điều

26 quy định: ông biện lý cũng như bên bị cùng bên dân sự nguyên cáo có
quyền yêu cầu toà thi hành mọi phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật. Về
mặt hộ, ông biện lý có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của các vị thành niên, của
các người bị cấm quyền cùng các pháp nhân hành chính. Ông biện lý có nhiệm
vụ phải can thiệp vào những việc quan hệ đến thân phận và căn cước cùng
những việc mà pháp luật bắt buộc phải có ý kiến công tố viên (Điều 30). Ông
chưởng lý và các thẩm phán trong công tố viện có quyền phát ngôn ở những
phiên toà hộ và hình toà thượng thẩm (Điều 38). Về bên hộ, dưới quyền điều
khiển của ông chưởng lý, các thẩm phán trong công tố viện có quyền đứng làm
chánh tố trong những trường hợp do luật lệ định trước.
Công văn số 1137/HCTP ngày 5/6/1958 của Bộ Tư pháp về việc đơn
giản một số thủ tục ở phiên toà quy định rõ hơn về quyền khởi tố và tham gia
tố tụng của công tố viện như sau:

26


×