Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HƯỜNG

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HƯỜNG

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số
: 603830

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS.TRẦN ANH TUẤN

Hà Nội – 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của Luận văn chưa từngđược ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thị Hường


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LUẬT SƯ VÀ VỊ TRÍ,
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

8

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ LUẬT SƯ VÀ Ý NGHĨA VỀ SỰ THAM

GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1 Khái niệm Luật sư

8
8

1.1.2. Đặc điểm của Luật sư

14

1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự

17

1.2 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

20

1.2.1 Vị trí của Luật sư trong tố tụng dân sự

20

1.2.2 Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự

21

1.3. LƯỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VAI
TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

24


1.3.1 Thời kỳ trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945

24

1.3.2 Thời kỳ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay

25

1.4. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

36

1.4.1. Những hệ thống luật cơ bản trên thế giới liên quan đến vai trò của
Luật sư trong tố tụng dân sự

36

1.4.2 Quy định của pháp luật một số nước đại diện cho các hệ thống Luật cơ
bản về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự

41


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

51


2.1. LUẬT SƯ VỚI VAI TRÒ ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1.1. Về điều kiện thực hiện vai trò đại diện theo ủy quyền

51
51

2.1.2. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng của Luật sư khi tham gia với vai trò đại
diện theo ủy quyền

54

2.2. LUẬT SƯ VỚI VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

57

2.2.1. Về điều kiện thực hiện vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự

57

2.2.2. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng của Luật sư khi tham gia với vai trò bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

59

2.3. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ 63
2.3.1. Vai trò của Luật sư tại Tòa án cấp sơ thẩm


63

2.3.2. Vai trò Luật sư tại Tòa án cấp phúc thẩm

81

2.3.3. Vai trò Luật sư tại thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

82

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ

86

3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

86

3.1.1. Những kết quả đạt được của việc thực hiện vai trò hoạt động của Luật
sư trong tố tụng dân sự

86

3.1.2. Những hạn chế, bất cập của việc thực hiện vai trò hoạt động của Luật
sư trong tố tụng dân sự

91


3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

107


3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự

107

3.2.2. Hoàn thiện các quy định liên quan đến vai trò của Luật sư trong tố
tụng dân sự

110

3.2.3. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của
Luật sư

116

3.2.4. Về tăng cường quản lý nhà nước, phát huy vai trò tự quản và giám sát
việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Luật sư.

117

3.2.5. Về tăng cường hội nhập quốc tế về Luật sư trong tố tụng dân sự

119

KẾT LUẬN


122

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

123


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLDS :

Bộ luật dân sự

2. BLTTDS :

Bộ luật Tố tụng dân sự

3. XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

4. PLTTGQCVADS :

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

5. TTDS :

Tố tụng dân sự



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghề Luật sư là một nghề cao quý trong xã hội, ngày càng được tôn
vinh và có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân, phấn đấu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Đất nước ta đang trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy chung của xu thế toàn cầu
hoá. Vai trò của Luật sư nói chung cũng như vai trò của Luật sư trong tố tụng
dân sự là không thể thiếu được trong xã hội và ngày càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết.
Quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là một trong những quyền dân
sự của công dân đã được pháp luật xác định thành một nguyên tắc cơ bản
trong tố tụng dân sự. Đó là nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia tố tụng dân sự với tư cách là đương sự
có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ Luật sư bảo vệ.
Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đòi hỏi Đất nước phải xây
dựng được một đội ngũ Luật sư tài năng và đạo đức. Đó chính là lời phát biểu
của nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương tại Hội nghị tổng kết 4 năm thực
hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”: “…Tiếp tục
thực hiện tốt chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà…đội
ngũ Luật sư cần xác định rõ vai trò của mình để phấn đấu vươn lên không chỉ
về trình độ nghề nghiệp mà còn cả trong việc giữ gìn đạo đức hành nghề ”.
Đồng thời Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020” cũng nêu rõ: “Đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư đủ

1



về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn
thiện cơ chế để Luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác
định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý
để phát huy chế độ tự quản của Luật sư đối với các tổ chức thành viên của
mình”.[6]
Trong thời gian gần đây, số lượng Luật sư tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự ngày một nhiều hơn. Với sự am hiểu
pháp luật, với kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp, Luật sư đã góp phần
không nhỏ vào việc làm sáng tỏ sự thật khách quan, giúp Tòa án giải quyết
đúng đắn các vụ việc dân sự, bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng phải nhận thấy
rằng, vai trò hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự vẫn còn gặp rất nhiều
khó khăn, bất cập. Nhận thức về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự là
chưa thống nhất. Nhiều người vẫn chưa có cách nhìn đúng đắn về vai trò của
Luật sư trong tố tụng dân sự, kể cả những người tiến hành tố tụng. Họ thường
quan niệm Luật sư như những “người giúp việc”, cho rằng Luật sư tham gia
vào hoạt động tố tụng dân sự chỉ gây khó khăn, phiền hà cho cơ quan tiến
hành tố tụng; hiệu quả, vai trò hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự trên
thực tế đạt được chưa cao; chất lượng đội ngũ Luật sư trong tố tụng dân sự
chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế, quốc tế; đạo
đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của Luật sư vẫn chưa được nhận thức
đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân Luật sư trong hành
nghề và trong cuộc sống.
Với thực trạng của việc thực hiện vai trò của Luật sư trong tố tụng dân
sự trước yêu cầu cải cách tư pháp và xu hướng hội nhập quốc tế, việc nghiên
cứu nâng cao vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự là một đòi hỏi cấp thiết


2


của một nền công lý và dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cũng chính vì
vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò của Luật sư trong trong tố tụng dân sự”
làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình với mong muốn sẽ có cách nhìn toàn
diện và sâu sắc hơn về thực trạng thực hiện vai trò của Luật sư trong lĩnh vực
tố tụng dân sự. Qua đó, có thể đánh giá được vai trò của Luật sư trong tố tụng
dân sự đối với công cuộc cải cách tư pháp cũng như trong đời sống xã hội.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra các kiến nghị nhằm khắc phục
những hạn chế, tiêu cực, từng bước nâng cao và khẳng định vai trò của Luật
sư trong tố tụng dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu vị trí, vai trò và hoạt động của luật sư trong tố tụng
dân sự là rất quan trọng. Không chỉ có ý nghĩa trong chiến lược cải cách Tư
pháp mà còn có ý nghĩa rất lớn với chính đội ngũ Luật sư. Trong thời gian
vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh khác
nhau dưới các mức độ khác nhau về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.
Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu và các bài viết có liên quan
đến vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự như sau: “Đạo đức & kỹ năng
của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”,
PGS.TS Lê Hồng Hạnh, Nxb Đại học sư phạm, năm 2002; “Chuyên đề về
Pháp lệnh Luật sư năm 2001”, Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ & pháp luật,
tháng 12/2001; “Chuyên đề về Luật sư”, Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ &
pháp luật, Hà nội năm 2006, tháng 12/2001; “Bút ký luật sư” tập 1, TS.LS
Phan Trung Hoài, NXB Tư pháp, Hà Nội 2005; “Vị trí và vai trò của Luật sư
trong tố tụng dân sự”, Luận văn thạc sĩ, Trần Phương Thảo, Đại học Luật Hà
Nội, năm 2004; “Mối quan hệ giữa Luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng”, của tác giả Nguyễn Tiến Đạm, Tạp chí dân chủ
& pháp luật, số 11 năm 2002; “Luật sư – một nghề khó khăn”, Phan Trung


3


Hoài, Tạp chí dân chủ & pháp luật, số 01 năm 1999; “Vai trò của Luật sư
trong tố tụng dân sự”, Đinh Văn Thanh; Báo cáo tham luận tại Hội thảo về
tranh tụng trong tố tụng dân sự, Hà Nội, ngày 13/03/2004...v.v.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến khái niệm Luật sư,
quá trình phát triển của nghề Luật sư, cũng như vị trí, vai trò của Luật sư
trong tố tụng dân sự một cách chung chung mà chưa đi sâu vào nghiên cứu
phân tích về pháp luật hiện hành về vai trò Luật sư, thực trạng thực hiện vai
trò của Luật sư trong TTDS. Ngoài ra, một số công trình được thực hiện trước
khi ban hành Luật Luật sư và Luật Luật sư sửa đổi nên không còn tính thời
sự. Do vậy, đề tài“Vai trò của Luật sư trong trong tố tụng dân sự” rất cần
được tiếp tục nghiên cứu và luận giải sâu sắc hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của Luật sư trong
TTDS.
- Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
luật Việt Nam hiện hành về vai trò của Luật sư trong TTDS và những vướng
mắc trong quá trình thực hiện vai trò của Luật sư trong thực tiễn.
- Tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện vai
trò của Luật sư trong quá trình tham gia TTDS tại các cấp Tòa án.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng khái niệm Luật sư, đặc điểm, ý nghĩa về sự tham gia tố tụng
của Luật sư trong TTDS. Đồng thời nghiên cứu lược sử các quy định của
pháp luật về vai trò của Luật sư trong TTDS và điểm lại các quy định pháp
luật về vai trò của Luật sư ở một số nước đại diện cho các hệ thống pháp luật
cơ bản trên thế giới.


4


- Phân tích cụ thể để làm rõ vai trò của Luật sư trong TTDS theo pháp
luật hiện hành.
- Làm rõ thực trạng hoạt động của Luật sư, phân tích nguyên nhân để
từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Luật sư trong
TTDS
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu của đề tài, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu của đề tài được xác định là:
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về Luật sư
với vai trò đại diện theo ủy quyền của đương sự hoặc Luật sư với vai trò là
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Nghiên cứu một số quy định của pháp luật TTDS của một số nước
trên thế giới về vai trò của Luật sư trong TTDS để có thể so sánh với các quy
định của pháp luật Việt Nam, từ đó làm rõ hơn vai trò của Luật sư trong
TTDS Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động của Luật sư trong TTDS, kiến nghị
các giải pháp nâng cao hơn nữa vai trò của Luật sư trong TTDS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN. Do đó, các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật đều dựa trên các quan
điểm chỉ đạo nêu trên.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, Tác giả sử dụng kết hợp các

phương pháp:

5


- Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề về lý
luận và thực tiễn về Luật sư và vị trí, vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu lịch sử được sử dụng nhằm nghiên cứu rõ hơn các quy
định của pháp luật Việt Nam về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự đã
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trước đây.
- Phương pháp so sánh được sử dụng đối chiếu, so sánh với pháp luật
của một số nước trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê các số liệu
trong thực tiễn hoạt động hành nghề của Luật sư làm cơ sở cho việc đưa ra
những nhận xét, kết luận và kiến nghị các biện pháp nâng cao vai trò của
Luật sư.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề
đã nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và những kết luận.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về những vấn đề
liên quan đến vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự. Khái niệm, các đặc
trưng và ý nghĩa về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự được phát
hiện và phân tích một cách đầy đủ, sâu sắc, làm cơ sở cho việc luận giải
những vấn đề có liên quan đến vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự. Trên
cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò của Luật sư khi tham gia tố
tụng dân sự, Luận văn đã phân tích làm rõ thực trạng pháp luật hiện hành về
vai trò của Luật sư, về điều kiện tham gia tố tụng, các hoạt động cụ thể của
Luật sư cũng như quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong tố tụng dân sự.
- Luận văn phân tích, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc những kết
quả đã đạt được cũng như những hạn chế vướng mắc Luật sư gặp phải trong

quá trình thực hiện vai trò của mình khi tham gia tố tụng dân sự. Từ những
nghiên cứu này Luận văn đã chỉ rõ những hạn chế, bất cập trong các quy định

6


của pháp luật cũng như những vướng mắc Luật sư gặp phải khi thực hiện vai
trò đại diện hay bảo vệ quyền lợi cho đương sự tại Tòa án. Trên cơ sở tổng
hợp kết quả nghiên cứu, Luận văn đã đề xuất các giải pháp có giá trị nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của
Luật sư trong tố tụng dân sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo trong việc áp dụng các quy định pháp luật về vai trò
của Luật sư được thống nhất và chính xác. Đồng thời những phát hiện, đóng
góp của luận văn cũng là tài liệu có giá trị cho các cơ quan lập pháp trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, là tài liệu tham khảo cho Tòa án, các
Thẩm phán có hiểu biết sâu sắc thêm về vai trò của Luật sư trong TTDS. Kết
quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về pháp luật tại Việt Nam.
8. Về bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được cơ cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Luật sư và vị trí, vai trò của Luật
sư trong tố tụng dân sự
Chương 2 : Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự theo pháp luật hiện
hành
Chương 3 : Thực trạng thực hiện vai trò của Luật sư trong tố tụng dân
sự và kiến nghị.


7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LUẬT SƯ VÀ VỊ TRÍ,
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ LUẬT SƯ VÀ Ý NGHĨA VỀ SỰ
THAM GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1 Khái niệm Luật sư
Có thể nói Luật sư không phải là một khái niệm quá mới, và khái niệm
này đã được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều bình diện khác nhau nên có
thể hiểu khái niệm này từ nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy, hiện nay chưa có
một sự thống nhất nào về định nghĩa Luật sư. Sự khác nhau trong cách hiểu
về luật sư không chỉ thể hiện trong khoa học pháp lý giữa các quốc gia, mà
còn thể hiện ngay chính trong các văn bản pháp lý và văn bản liên quan đến
khoa học pháp lý của Việt Nam. Khi nhắc đến Luật sư thì có thể hiểu đó là
danh từ chỉ người, một chức danh tư pháp độc lập, hoạt động trong lĩnh vực
pháp luật và cũng có thể hiểu Luật sư là một nghề thuộc các ngành dịch vụ
trong hệ thống ngành nghề quốc gia. Thực tế hiện nay cho thấy, có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm Luật sư :
- Quan điểm thứ nhất: Theo các tác giả của Trung tâm ngôn ngữ và văn
học Việt Nam thuộc Bộ giáo dục và đào tạo thì Luật sư được hiểu là “người
chuyên bào chữa cho đương sự trước Tòa án theo pháp luật hoặc làm cố vấn
về pháp luật nói chung” [9;tr.591].
Khái niệm trên đã chỉ ra được đặc điểm của Luật sư là người chuyên
dựa vào pháp luật, căn cứ theo pháp luật để tham gia tố tụng tại Tòa án hoặc
cố vấn cho khách hàng. Như vậy, trong khái niệm này đã chỉ được rõ hai hoạt
động chính yếu nhất của Luật sư là hoạt động tranh tụng và hoạt động tư vấn.
Khái niệm này được xuất phát từ thực tiễn hành nghề Luật sư được gắn bó


8


chặt chẽ với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án
nhất là các vụ án hình sự. Đây cũng là khái niệm có phần chính xác nếu chúng
ta đặt nó vào giai đoạn đầu tiên khi hình thành nghề Luật sư.
Tuy nhiên, khái niệm về Luật sư nói trên vẫn còn chưa thực sự đầy đủ
về mặt ngữ nghĩa, chưa đủ rộng để bao quát các hoạt động của Luật sư, bởi
các lý do sau đây:
Thứ nhất, “bào chữa” là hoạt động của Luật sư khi tham gia tố tụng
hình sự. Khi tham gia tố tụng hình sự thì Luật sư có vị trí là người bào chữa
cho bị can, bị cáo. Còn để bảo vệ quyền và lợi ích cho “đương sự” trong tố
tụng dân sự thì Luật sư không thực hiện vai trò “bào chữa” trước Tòa án, mà
bằng quyền tranh luận và tranh tụng tại phiên tòa, Luật sư “bảo vệ quyền lợi
cho đương sự”. Do vậy, khái niệm trên chưa thể hiện được hết vai trò của
Luật sư trong việc bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể theo luật định.
Thứ hai, khi khẳng định là “người làm cố vấn pháp luật nói chung” thì
không chỉ ra được đặc thù của Luật sư để phân biệt với khái niệm Luật gia.
Luật gia (Jurist) là người có kiến thức về pháp luật, chuyên gia luật. Có thể
hiểu đó là tất cả những người tốt nghiệp đại học luật (cử nhân luật trở lên);
hoặc vận dụng ở Việt Nam có thể bao gồm cả những người tuy không có bằng
cử nhân luật, nhưng có kiến thức về pháp luật và đang hoạt động trên các lĩnh
vực pháp luật, trong đó có cả các Luật sư. Hội viên Hội luật gia Việt Nam
được hiểu theo nghĩa này. Luật sư (Lawyer), là luật gia được đào tạo thêm về
kỹ năng hành nghề, được gia nhập Đoàn Luật sư, qua đó được công nhận là
Luật sư để hành nghề chuyên nghiệp trong lĩnh vực tranh tụng và tư vấn pháp
luật. Như vậy, Luật sư có thể là thành viên Hội luật gia, nhưng luật gia thì
chưa hẳn đã phải là Luật sư.


9


- Quan điểm thứ hai: Theo GS.TS Lê Hồng Hạnh thì “Luật sư là
chuyên gia pháp luật; là cố vấn pháp lý mà ở họ có kỹ năng nghề nghiệp thực
thụ” [8;tr.14].
Với quan điểm thứ hai này, khái niệm Luật sư cho thấy tác giả đã bổ
sung thêm yếu tố kỹ năng hành nghề - yếu tố rất quan trọng của một Luật sư.
Do đó khái niệm Luật sư này đã bao gồm được hai đặc điểm đặc trưng cần có
của người Luật sư nói chung. Đó là sự am hiểu pháp luật và kỹ năng hành
nghề. Vì hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều quan niệm Luật sư là một
nghề, và đã là một nghề thì yêu cầu về tiêu chuẩn hành nghề và đào tạo nghề
là rất cần thiết, do đó yêu cầu nhất thiết đối với các Luật sư là có kỹ năng
hành nghề thành thục. Kỹ năng này được đào tạo trong thực tế. Một Luật sư
thường phải có các kỹ năng cần thiết như kỹ năng phán đoán, kỹ năng tư duy
khái quát, kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá sự việc, kỹ năng thuyết trình
hùng biện, nghệ thuật đặt câu hỏi, đàm phán thương lượng... Tại Việt Nam,
sau khi tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật thì các sinh viên có thể đi làm và
trở thành luật gia. Tuy nhiên muốn trở thành Luật sư thì nhất thiết phải trải
qua một lớp đào tạo hành nghề Luật sư tại Học viện Tư pháp. Ngoài học lý
thuyết, các học viên còn phải trải qua một thời gian là 18 tháng tập sự hành
nghề Luật sư.
Tuy nhiên, hai đặc điểm đặc trưng của Luật sư trên đây chỉ là những
yếu tố cần mà chưa đủ để xây dựng một khái niệm Luật sư hoàn chỉnh bởi
vẫn chưa đưa ra được đặc điểm đặc biệt quan trọng của người Luật sư mà
những nước có nghề Luật sư lâu đời đều quy định là “phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp của Luật sư”. Ngoài các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng thì yêu
cầu đạo đức nghề nghiệp cũng rất quan trọng.
Nghề Luật sư cũng như một số nghề khác như nghề y, nghề dạy học ...
luôn luôn được xã hội tôn trọng. Như Platon, một nhà triết học Hy Lạp nổi


10


tiếng đã nói: “Những kiến thức chuyên môn của bác sỹ giúp họ cứu chữa cho
người bệnh nhưng cũng có thể đầu độc người bệnh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng khẳng định “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nghề Luật sư cũng như bất kỳ một
nghề chuyên môn nào khác cũng có những mặt trái. Do vậy, Luật sư cũng
phải biết sử dụng kiến thức chuyên môn của mình sao cho vừa bảo vệ khách
hàng lại vừa tôn trọng sự thật khách quan của vụ việc. Bên cạnh những tiêu
chuẩn về chuyên môn nghề nghiệp thì đạo đức nghề nghiệp là yếu tố rất quan
trọng với Luật sư, đây là tiêu chuẩn không thể thiếu khi xây dựng một tiêu
chuẩn Luật sư trong thời kỳ đổi mới. Có như thế Luật sư mới đảm bảo tốt
được sứ mệnh mà mình gánh vác.
Ngoài hai quan điểm nêu trên còn có nhiều cách giải thích khác nhau
về nghề Luật sư. Có quan niệm cho rằng Luật sư là người trợ lý pháp luật cho
khách hàng, là người đồng hành pháp lý với Tòa án, là người trợ thủ pháp
luật xã hội hoặc Luật sư là người phụ tá của công lý, tham gia vào sự điều
hành của nền công lý ... Các quan niệm này có lẽ được xuất phát từ vai trò, ý
nghĩa của người Luật sư khi hành nghề với những hình thức khác nhau: tư
vấn, tranh tụng…dựa trên cơ sở tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Những quan
điểm này quá trừu tượng không giúp chúng ta nhận biết được đặc điểm của
người Luật sư và không phân biệt được Luật sư với những người khác trong
xã hội. Việc quá đề cao vị trí, vai trò của Luật sư đến mức coi Luật sư là
người “phụ tá”, người “điều hành công lý” … giống như người điều hành bộ
máy tư pháp, theo chúng tôi cũng là không chính xác. Bởi Luật sư dù có thể
gọi theo nhiều tên khác nhau, song suy cho cùng Luật sư không có vị trí
ngang hàng với người tiến hành tố tụng.
Cho đến nay, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, song vẫn có thể

khẳng định vẫn chưa có được một khái niệm chính xác, đầy đủ về Luật sư. Có

11


một số quan điểm khác đáng chú ý như theo quan điểm của Thạc sỹ Trần
Phương Thảo thì Luật sư được hiểu “là khái niệm pháp lý dùng để chỉ một
chức danh tư pháp độc lập; theo đó những người có đủ điều kiện hành nghề
Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam được Bộ Tư Pháp Việt Nam
công nhận quyền tham gia tố tụng; tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ
pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
bảo vệ pháp chế XHCN” [4;tr.22]. Trong khái niệm trên, tác giả Trần
Phương Thảo đã nêu một khái niệm về Luật sư. Khái niệm này khá thống
nhất với những điều kiện, tiêu chuẩn về Luật sư theo quy định của các văn
bản pháp luật về Luật sư. Theo đó, luật sư phải là người đáp ứng các tiêu
chuẩn sau đây:
- Tốt nghiệp đại học luật hoặc chuyên ngành luật.
- Không vi phạm pháp luật hoặc trong tình trạng nghi vấn có hành vi
vi phạm pháp luật.
- Đạt độ tuổi nhất định
- Trải qua các khóa đào tạo Luật sư và có thời gian tập sự đầy đủ theo
quy định.
Đây là điều kiện bắt buộc đối với Luật sư ở bất cứ quốc gia nào. Điều
này xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề Luật sư là một nghề đòi hỏi sự đúc
kết kinh nghiệm và thông qua thực tế rất lớn. Để có thể vận dụng những kiến
thức sách vở, những quy định cứng nhắc vào hoàn cảnh khác nhau, biến
chúng thành những phương án linh hoạt, sử dụng chúng như công cụ đắc lực
đem lại lợi ích cho khách hàng, đòi hỏi người Luật sư phải có sự học hỏi từ
những người đi trước và có thời gian thực hành khá nhuần nhuyễn. Do vậy,
đây được xem như giai đoạn mang tính chất quyết định để một người chứng

minh mình có quyết tâm và khả năng mình có thể trở thành một Luật sư, một
luật gia giỏi hay không.

12


Ngoài những điều kiện cơ bản nêu trên, pháp luật mỗi quốc gia có thể
đặt ra những quy định riêng khác về điều kiện trở thành Luật sư.
Góc nhìn nghiên cứu này về các điều kiện về tiêu chuẩn Luật sư và
điều kiện hành nghề Luật sư ở Việt Nam được thể hiện khá cụ thể tại các điều
10, 11,12 của Luật Luật sư. Theo đó, người có đủ điều kiện trở thành Luật sư
chỉ được gọi là Luật sư và được phép hành nghề khi hội tụ đủ hai điều kiện:
được cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư và đã gia nhập một Đoàn Luật sư do
mình lựa chọn.
Việc pháp luật có sự điều chỉnh cần thiết về điều kiện tiêu chuẩn Luật
sư và điều kiện hành nghề Luật sư không những bảo đảm sự thống nhất về tiêu
chuẩn đối với các chức danh tư pháp, mà còn tạo cơ sở để gắn kết quá trình đào
tạo nghề và hoạt động nghề nghiệp của Luật sư với các chức danh tư pháp
khác. Việc quy định cụ thể tiêu chuẩn Luật sư góp phần tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xem xét cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư, thu hồi Chứng chỉ hành
nghề Luật sư, cho đăng ký gia nhập Đoàn Luật sư. Mặt khác, quy định cụ thể
về tiêu chuẩn Luật sư cũng nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng của đội ngũ
Luật sư, tiếp tục phát triển hoạt động Luật sư theo hướng chuyên nghiệp hoá
thành một nghề. Xét theo luật thực định thì Luật Luật sư 2006 đã bỏ đi cụm từ
“Bằng hoạt động của mình, Luật sư góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội
và pháp chế XHCN” thay vào đó là một khái niệm xúc tích nhưng lại phản ảnh
đầy đủ nội hàm của khái niệm Luật sư theo hướng một nghề dịch vụ xã hội
theo quy định chung của các quốc gia khác trên thế giới. Việc thay đổi như vậy
không làm giảm đi vị thế của Luật sư bởi vì Luật sư là một bộ phận cơ bản cấu
thành nên các thiết chế dân chủ trong hệ thống tư pháp. Hơn nữa, Việt Nam

luôn quán triệt xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân, bên cạnh bảo vệ quyền lợi khách hàng thì Luật sư luôn phải có ý thức xây
dựng pháp chế XHCN như một nghĩa vụ tất yếu.

13


Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích, luận giải trên đây, tác
giả mạnh dạn đưa ra một định nghĩa về Luật sư như sau: Luật sư là một khái
niệm pháp lý dùng để chỉ một chức danh pháp lý độc lập, theo đó những
người có đủ các điều kiện về năng lực chủ thể, kiến thức pháp lý, kỹ năng
hành nghề được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tư cách trong
việc tiến hành các hoạt động nghề nghiệp theo yêu cầu của khách hàng trên
cơ sở tôn trọng pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của Luật sư
Từ khái niệm Luật sư đã được trình bày và phân tích ở phần trên có thể
thấy so với các chức danh Tư pháp khác Luật sư có những đặc điểm sau:
- Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập
Khi tham gia vào hoạt động tố tụng dân sự (là một trong những hoạt
động chủ yếu của hoạt động tư pháp) Luật sư tham gia với vai trò là người
tham gia tố tụng. Luật sư không phải là “nhân viên” Nhà nước, không chịu
sự điều chỉnh bởi các “mệnh lệnh” hành chính. Cũng giống như Việt Nam,
các Luật sư Nhật Bản thường tự gọi mình là “các luật gia không có quyền
lực” và gọi Thẩm phán và Công tố viên là “luật gia có quyền lực”
[38,Tr.152]. Xuất phát từ việc không có quyền lực như vậy mới đảm bảo
tính độc lập của Luật sư.
- Luật sư là người có đủ các điều kiện về năng lực chủ thể, kiến thức
pháp lý, kỹ năng hành nghề được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của
cá nhân Luật sư. Nói cách khác, phẩm chất và năng lực cá nhân của Luật sư là

yếu tố quyết định trong nghề Luật sư. Người muốn hành nghề Luật sư phải
được công nhận là Luật sư. Tiêu chuẩn phổ biến của các nước để được công
nhận là Luật sư và được cấp chứng chỉ hành nghề bao gồm: Là công dân của
nước sở tại; có bằng cử nhân luật; có phẩm chất đạo đức tốt. Bên cạnh đó là

14


các điều kiện khác như: phải trải qua khóa đào tạo Luật sư, kỳ thi công nhận
Luật sư; có thời gian tập sự hành nghề... Đây là những điều kiện cơ bản. Tuy
nhiên, theo quy định của pháp luật một số quốc gia Hồi giáo như A rập- xê-út
thì những người muốn làm Luật sư phải theo học một khóa “thần học”
[43;Tr.112] mà không đào tạo tại các trường đào tạo chức danh tư pháp như
truyền thống của các quốc gia trên thế giới.
Ở nước ta hiện nay thì tiêu chuẩn trở thành Luật sư bao gồm những
điều kiện là: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc; tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật; có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; đã được đào tạo
nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư; có sức khoẻ bảo
đảm hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
Như vậy, quy định của pháp luật Việt Nam về tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề Luật sư cũng có sự tương đồng với quy định của các nước có nghề
Luật sư đang phát triển.
- Luật sư được tiến hành các hoạt động nghề nghiệp theo yêu cầu của
khách hàng trên cơ sở tôn trọng pháp luật và đạo đức nghề nghiệp
Luật sư tiến hành các hoạt động nghề nghiệp trên cơ sở yêu cầu của
khách hàng trong phạm vi hành nghề mà pháp luật quy định. Theo đó phạm
vi hành nghề của Luật sư là rất rộng với các công việc sau:
+ Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân,
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ việc khác theo quy định
của pháp luật
+ Thực hiện tư vấn pháp luật.

15


+ Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có
liên quan đến pháp luật
+ Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật
Khi thực hiện các hoạt động nghề nghiệp của mình Luật sư phải tôn
trọng pháp luật và đạo đức nghề nghiệp
Phẩm chất đạo đức là một trong những tiêu chuẩn quan trọng đối với
Luật sư. Luật sư là người hành nghề pháp luật, giúp đỡ về mặt pháp lý cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Do vậy, Luật sư trước hết phải là người có ý thức tuân
thủ pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Để duy trì uy tín và
danh dự nghề nghiệp, Luật sư còn phải là người trung thực trong cuộc sống,
có bản lĩnh nghề nghiệp. Đồng thời khi hành nghề Luật sư luôn phải kết hợp
việc bảo vệ quyền lợi cho cá nhân, tổ chức với việc bảo vệ lợi ích của Nhà
nước và của xã hội.
- Luật sư là chức danh bất khả kiêm nhiệm:
Theo quy định của Pháp lệnh 1987 thì Luật sư có thể là cán bộ, công
chức trong cơ quan nhà nước hay là giảng viên trong các trường giảng dạy
pháp lý... Tuy nhiên, theo quy định của Luật Luật sư hiện nay, Luật sư không
thể kiêm nhiệm nhiều chức danh. Điều này giúp hoạt động Luật sư thực sự là
một hoạt động độc lập. Luật sư không bị chi phối bởi nhiều yếu tố bên ngoài
đặc biệt là yếu tố quản lý hành chính nhà nước. Luật sư chỉ chịu sự điều chỉnh
của Hiệp hội nghề nghiệp là Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư mà
Luật sư đó tham gia. Quy định như vậy giúp Luật sư an tâm hơn khi tham gia

tố tụng, không chịu áp lực “Cơm, áo, gạo, tiền” nên có thể tập trung chuyên
môn vào hoạt động nghề nghiệp của mình.
Do đó, đặc điểm bất khả kiêm nhiệm của Luật sư hiện nay không chỉ
bảo đảm hoạt động này mang tính chuyên nghiệp, Luật sư hoạt động được độc
lập mà còn góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Luật sư trong xã hội, đồng thời

16


cũng tạo điều kiện để Luật sư có thể chuyên tâm với nghề nghiệp, đáp ứng nhu
cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng phong phú và phức tạp của nhân dân.
- Luật sư phải tham gia Đoàn luật sư mới được hành nghề
Đây là đặc thù của nghề luật sư so với các nghề tự do khác như kế toán,
kiểm toán, bác sĩ ... Có quy định như vậy nhằm để kiểm soát hoạt động của
Luật sư về đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề. Mặt khác giúp các Luật
sư có thể đoàn kết trong một tổ chức xã hội nghề nghiệp, qua đó tiếng nói của
“giới Luật sư” cũng như vai trò của Luật sư ngày càng được nâng cao trong
xã hội. Khi tham gia vào Đoàn Luật sư giúp các Luật sư nâng cao cả thế và
lực. Bên cạnh đó các Luật sư cũng có điều kiện nâng cao hơn kiến thức pháp
lý, chuyên môn nghề nghiệp bởi vì được cọ sát, trao đổi kinh nghiệm với các
Luật sư khác khi tham gia vào Đoàn Luật sư.
- Luật sư độc lập, tự chịu trách nhiệm trong hành nghề
Luật sư độc lập, tự chịu trách nhiệm trong hành nghề, trong đó có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất mà Luật sư gây ra cho khách hàng; trách
nhiệm vật chất của Luật sư là trách nhiệm vô hạn. Để bảo đảm quyền lợi của
khách hàng, Công ty luật có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho Luật sư của mình để bồi thường thiệt hại gây ra cho khách hàng. Những
Luật sư hành nghề tự do cũng phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho mình.
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự

Trên thế giới, nghề Luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa
dạng, xuất phát từ đặc điểm lịch sử, văn hóa, hệ thống pháp luật của mỗi quốc
gia. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề Luật sư nhưng đều có
chung một cách nhìn nhận: Luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu
hiệu góp phần bảo vệ công lý. Tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia mà
có sự nhận thức khác nhau về vai trò, vị trí của Luật sư. Nghề Luật sư và vai

17


trò của Luật sư luôn có sự thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển khách quan
của nền kinh tế xã hội. Ở Việt nam hiện nay, nhiệm vụ của Luật sư trước hết
góp phần bảo vệ pháp chế XHCN bằng việc hướng dẫn cho khách hàng hiểu
biết và thi hành đúng pháp luật, phục vụ công lý, bảo vệ những quyền của
công dân đã được Hiến Pháp và pháp luật quy định. Sự tham gia của Luật sư
trong tố tụng dân sự sẽ mang lại ý nghĩa rất quan trọng:
- Giúp các đương sự có được sự cân bằng trong “cuộc đấu tranh
pháp lý”:
Trong cuộc sống hàng ngày người dân có rất nhiều mối quan hệ với
nhau và mối quan hệ với các cơ quan tổ chức. Có quan hệ nghĩa là có sự tác
động qua lại, không thể tránh khỏi mâu thuẫn, xung đột quyền lợi giữa các
bên. Những mâu thuẫn khi phải giải quyết tại Tòa án thì thường là sự đụng
chạm nhạy cảm nhất đến quyền công dân. Nhiều đương sự là người bị hạn
chế bởi trình độ văn hóa, nhất là hiểu biết pháp luật nên mặc dù pháp luật quy
định cho họ các quyền được thực hiện để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, nhưng trên thực tế bản thân đương sự khó mà tự bảo vệ quyền lợi
của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Tổ chức Luật sư được thành lập để
giúp cho công dân về mặt pháp lý. Luật sư là người am hiểu pháp luật có kinh
nghiệm trong hoạt động pháp luật, họ sẽ là người giúp cho người dân về mặt
pháp lý một cách hiệu quả nhất khi có vụ việc xảy ra liên quan đến pháp luật,

đặc biệt là những vụ việc phải nhờ đến sự giải quyết của Tòa án. Luật sư là
người hướng dẫn đương sự về những vấn đề liên quan đến pháp luật, giúp họ
thực hiện các quyền mà pháp luật quy định cho họ cũng như nhắc nhở đương
sự xử xự theo đúng quy định của pháp luật. Việc tư vấn pháp luật cho đương
sự của Luật sư góp phần không nhỏ cho việc giải quyết các tranh chấp xảy ra
trong đời sống xã hội, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, giảm bớt

18


×