Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của thẩm định trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.13 KB, 119 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ HẰNG






NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2013


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ HẰNG





NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền







HÀ NỘI - 2013

3
MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN
HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ

6
1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm
phán trong tố tụng dân sự
6
1.2. Cơ sở quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm

phán trong tố tụng dân sự
11
1.2.1.

Cơ sở lý luận của việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự
11
1.2.2.

Cơ sở thực tiễn 13
1.2.3.

Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong bộ máy nhà nước và trong
tố tụng dân sự
14
1.3. Ý nghĩa của việc quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự
16
1.4. Lược sử các quy định của pháp luật Việt Nam về nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự

18
1.4.1.

Giai đoạn từ 1945 đến 1959 18
1.4.2.

Giai đoạn từ 1960 đến 1989 23
4
1.4.3.


Giai đoạn từ 1989 đến 01/01/2005 27
1.4.4.

Giai đoạn từ 01/01/2005 đến nay 30
1.5. Một số quy định của pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán
33
1.5.1.

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán theo
pháp luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa Pháp
33
1.5.2.

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán theo
pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Nga
35
1.5.3.

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán theo
pháp luật tố tụng dân sự Anh - Mỹ
37
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN
HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH
NHIỆM CỦA THẨM PHÁN

41
2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán 41

2.1.1.

Tiến hành lập hồ sơ vụ án 41
2.1.2.

Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

55
2.1.3.

Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự 57
2.1.4.

Tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật này; ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
61
2.1.5.

Quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử, đưa việc dân sự ra giải
quyết; Quyết định triệu tập những người tham gia phiên tòa
63
2.1.6.

Tham gia xét xử các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự 65
2.1.7.

Tiến hành các hoạt động tố tụng khác khi giải quyết vụ việc
dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
67

2.2. Trách nhiệm của Thẩm phán 68
5
2.2.1.

Trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự 68
2.2.2.

Trách nhiệm pháp lý của Thẩm phán 70
Chương 3:
THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN, BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM
VỤ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN

74
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán
74
3.1.1.

Những thành tựu đạt được 74
3.1.2.

Những vướng mắc, bất cập của pháp luật về nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự và hạn
chế của thực tiễn thực hiện
78
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán
89
3.2.1.


Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thẩm phán
89
3.2.2.

Kiến nghị về các biện pháp bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng
dân sự
97

KẾT LUẬN
105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107
6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLDS : Bộ luật Dân sự
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
HTND : Hội thẩm nhân dân
HĐXX : Hội đồng xét xử
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTDS : Tố tụng dân sự

VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Thống kê số lượng vụ việc dân sự được thụ lý và đã giải
quyết tại TAND từ năm 2006 đến năm 2012
75
3.2 Số lượng và trình độ của Thẩm phán TAND địa phương 77

8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới theo xu hướng quốc tế hóa,
mở rộng giao lưu hợp tác và mở rộng dân chủ đảm bảo quyền cơ bản của công
dân. Cùng với sự vận động và phát triển không ngừng của các quan hệ xã hội
thì các quan hệ pháp luật dân sự cũng gia tăng một cách đa dạng, phức tạp cả
về nội dung lẫn chủ thể. Theo đó những tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều.
Khi các chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đòi
hỏi việc xét xử phải được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả.
Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động xét xử của ngành Tòa án đã góp
phần to lớn bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ các quyền của

công dân và củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ. Để làm được điều
đó Thẩm phán có vai trò hết sức quan trọng. Trong tố tụng dân sự (TTDS),
Thẩm phán là người tiến hành tố tụng chủ yếu, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa án trong giải quyết vụ việc dân sự. Thẩm phán tham gia vào tất cả
các giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Việc quy định nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán giúp Thẩm phán giải quyết các vụ
việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của Thẩm phán trong hoạt động xét
xử nên ngay sau khi được thành lập cùng với việc kiến thiết, xây dựng đất
nước Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về TTDS trong đó có quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán. Tuy nhiên các văn bản
này vẫn còn sơ sài, thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các
vụ việc dân sự tại Tòa án; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán
còn quy định chung chung chưa thực sự bảo đảm tính độc lập, tự chủ của
Thẩm phán trong hoạt động xét xử.
9
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 ra đời trên cơ sở kế thừa
và phát triển giá trị của các văn bản quy phạm pháp luật được thể nghiệm
trong thực tế, bảo đảm hài hòa lợi ích của các đương sự, phù hợp với luật
pháp quốc tế và thể hiện sự minh bạch, khả thi. Bộ luật đã quy định khá đầy
đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ bản trong TTDS; trình tự, thủ tục giải quyết
các vụ việc dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan và
người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia
tố tụng. Song qua hơn năm năm triển khai thi hành BLTTDS cho thấy một số
quy định của BLTTDS còn vướng mắc, bất cập nên ngày 29/03/2011 Quốc
hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLTTDS. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012.
Qua lần sửa đổi này Bộ luật đã khắc phục được nhiều thiếu sót, bất cập trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán tại Điều 41 BLTTDS vẫn được giữ nguyên nên quá trình

xét xử Thẩm phán còn gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng tới chất lượng giải
quyết vụ việc cũng như kéo dài thời gian giải quyết, chưa đáp ứng được tiến
trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002
về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới (sau
đây gọi tắt là Nghị quyết số 08/NQ-TW) và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
(sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49/NQ-TW).
Xuất phát từ thực tế trên, tác giả chọn đề tài "Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự" làm đề tài luận văn thạc
sĩ luật học của mình với mong muốn phân tích, đánh giá các quy định của
BLTTDS về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán để tìm ra
những điểm bất cập qua đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu góp phần xây
dựng pháp luật và áp dụng các điều luật trên thực tế được thống nhất, đạt kết
quả cao.
10
2. Tình hình nghiên cứu
Qua quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy, đã có một số bài
viết và công trình nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm
phán trong TTDS. Cụ thể là: Đề tài khoa học cấp bộ "Một số vấn đề cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự", mã số 95-98-046/ĐT
năm 1996 của TANDTC trong đó có bài viết "Xác định nhiệm vụ, quyền hạn
của Thẩm phán, vấn đề thực tiễn và yêu cầu trong việc xây dựng quy trình và
thủ tục tố tụng dân sự" của tiến sĩ Đinh Ngọc Hiện; Luận văn thạc sĩ "Về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự", của
Bùi Thị Huyền, 2001; bài viết "Vai trò của Thẩm phán đối với việc mở rộng
tranh tụng trong các vụ án dân sự", của Tưởng Duy Lượng và Nguyễn Văn
Cường, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 02, 2004; bài viết "Thực trạng đội ngũ
Thẩm phán ở nước ta, những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ quá
trình xây dựng", của Đỗ Gia Thư, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 04, 2004…
được xây dựng, nghiên cứu trên cơ sở quy định của các văn bản đã hết hiệu

lực nên chỉ còn mang tính chất tham khảo.
Trong những năm gần đây, có một số bài viết, công trình liên quan
như: bài viết "Những quy định mới của chế định cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong Bộ luật Tố tụng dân
sự", của Nguyễn Công Bình, Tạp chí Luật học, số 06, 2004; bài viết "Uy tín
của người Thẩm phán", của Phan Công Luận, Tạp chí Luật học, số 01, 2006;
Luận văn thạc sĩ "Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay", của Nguyễn Bích Thảo, 2008…
Đây là những bài viết, công trình nghiên cứu về Thẩm phán ở nhiều góc độ,
khía cạnh khác nhau nhưng vẫn chưa thực sự đi sâu nghiên cứu về nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS. Gần đây nhất là khóa
luận tốt nghiệp "Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố
tụng dân sự Việt Nam", của Lê Thị Thúy Nga, 2012. Vì đây chỉ là khóa luận
tốt nghiệp nên phạm vi nghiên cứu có phần nào hạn chế. Do vậy luận văn
11
"Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân
sự" theo quy định của BLTTDS sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn
đề này một cách có hệ thống, chuyên sâu và toàn diện nhất.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề về lý luận, luật
thực định và thực tiễn áp dụng các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Thẩm phán trong TTDS. Qua đó đưa ra một số ý kiến đóng góp
vào việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTDS về vấn đề này.
Phạm vi nghiên cứu đề tài:
- Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS, lược sử các quy định
của pháp luật về vấn đề này qua đó thấy được vai trò và trách nhiệm của
Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán cũng như thực tiễn áp dụng tại

các Tòa án.
- Từ thực tiễn áp dụng tìm ra những điểm còn hạn chế góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Thẩm phán, tạo ra cơ chế để họ thực hiện tốt nhất nhiệm vụ, quyền hạn của
mình cũng như nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán đối với việc giải quyết
vụ việc dân sự.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn. Trước hết đây là công
trình chuyên khảo đầu tiên trong sách báo pháp lý nước ta nghiên cứu một
cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của Thẩm phán trong TTDS, kể từ khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực.
12
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đã đưa ra được các luận cứ khoa học và
các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTDS về nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của Thẩm phán qua đó đề xuất cơ chế giúp nâng cao hiệu
quả, chất lượng xét xử các vụ việc dân sự của Thẩm phán ở nước ta. Đồng thời
luận văn có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và
giảng dạy trong các trường chuyên ngành luật. Kết quả nghiên cứu đề tài cũng
là nguồn tài liệu để tham khảo trong quá trình tiếp tục hoàn thiện BLTTDS.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN và việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp nghiên
cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê… để thực hiện đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị hoàn thiện, bảo
đảm thực hiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán.
13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA
THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Đội ngũ Thẩm phán ra đời khá muộn mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ
rất lâu và không thể thiếu trong bộ máy nhà nước. Trong các xã hội tiền tư
bản, nhà vua là người đại diện cho pháp luật đồng thời có quyền xét xử. Vua
là chủ thể nắm giữ cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; vua đích thân
xét xử các tranh chấp trong nhân dân, trực tiếp trừng phạt các hành vi vi phạm
pháp luật. Cùng với sự phát triển của xã hội, do nhu cầu phân công giải quyết
các công việc của Nhà nước, vua đã chuyển một phần quyền tư pháp cho quan
lại từ trung ương xuống địa phương thực hiện. Các quan lại đó chính là những
quan lại hành chính. Khi đó, quyền tư pháp chưa được tách khỏi quyền lập
pháp và quyền hành pháp. Đến thời kỳ cách mạng tư sản, một số học giả mà
tiêu biểu là Môngtexkiơ đã đề ra tư tưởng phân chia quyền lực, trong đó tách
quyền tư pháp ra khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp, thành lập một hệ
thống cơ quan độc lập thực hiện quyền tư pháp - đó là Tòa án. Từ đó, một đội
ngũ Thẩm phán những người chuyên làm nhiệm vụ xét xử, tách biệt với
những người làm việc trong bộ máy hành chính ra đời. Cho tới ngày nay đội
ngũ Thẩm phán đã tham gia xét xử vào tất cả các vụ việc phát sinh tại Tòa án,
đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế, xã hội.
Theo Từ điển Luật học năm 2006 và Pháp lệnh Thẩm phán và HTND

(HTND) năm 2002 thì "Thẩm phán là người tiến hành tố tụng được bổ nhiệm
theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải quyết
các việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án". Như vậy, Thẩm phán là người
được Nhà nước bổ nhiệm nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định
14
và được Nhà nước giao nhiệm vụ giải quyết những vụ việc thuộc thẩm quyền
của Tòa án. Trong TTDS, Thẩm phán là người tiến hành tố tụng chủ yếu,
tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ việc dân sự và
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong giải quyết vụ việc dân sự.
Ở nước ta hiện nay, theo Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Thẩm phán và HTND ngày 19/02/2011, Thẩm phán Tòa án nhân
dân (TAND) bao gồm: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC),
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp và Thẩm phán Tòa án quân sự (bao
gồm Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương đồng thời là Thẩm phán TANDTC,
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp). Thẩm phán nhân danh quyền lực
nhà nước ra phán quyết và khi bản án có hiệu lực pháp luật thì tất cả mọi cơ
quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân đều phải chấp hành. Mọi phán
quyết của Thẩm phán đều ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ
chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, việc xác định
trách nhiệm của Thẩm phán gắn liền với quyền và nghĩa vụ của chủ thể này
trong TTDS là rất cần thiết. Ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, nhiệm vụ và
quyền hạn của Thẩm phán cũng khác nhau. Nó phản ánh bản chất chính trị
của chế độ trong những bối cảnh lịch sử cụ thể. Không chỉ Thẩm phán mà bất
cứ cán bộ, công chức nào khi thực hiện một công việc đều phải thực hiện
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn nhất định được Nhà nước trao. Vậy
nhiệm vụ, quyền hạn được hiểu như thế nào rất cần được làm rõ.
Qua nghiên cứu Từ điển Tiếng Việt năm 2001, nhiệm vụ là công việc
phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định (thường nói về
công việc xã hội) [66, tr. 718].
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2009, "nhiệm vụ"

được hiểu là công việc do cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức giao cho phải làm vì
một mục đích và trong một thời gian nhất định [56, tr. 924]. Có thể nói, nhiệm
vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ
thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Chính vì vậy, nhiệm vụ của Thẩm
phán được pháp luật quy định cũng xuất phát từ tư cách của Thẩm phán trong
15
hệ thống bộ máy nhà nước. Chúng ta có thể hiểu
nhiệm vụ của Thẩm phán
trong TTDS là công việc mà Thẩm phán phải tiến hành trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự vì mục đích đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc được khách
quan, đúng pháp luật và trong một thời hạn do pháp luật quy định [14, tr. 54].
Nhiệm vụ của Thẩm phán được xác định mang tính bắt buộc khi giải quyết vụ
việc dân sự. Quá trình giải quyết vụ việc dân sự Thẩm phán phải thực hiện
chính xác về thủ tục tố tụng và đúng nội dung vụ việc. Vậy để Thẩm phán có
thể thực hiện các nhiệm vụ trong hoạt động TTDS thì pháp luật TTDS cần
trao cho Thẩm phán những quyền hạn cụ thể.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2001, quyền hạn là quyền được xác định
về nội dung, phạm vi, mức độ [66, tr. 1020].
Từ điển Tiếng Việt năm 2009, "quyền
hạn" được hiểu là quyền được xác định trong phạm vi cho phép [56, tr. 1049].

Còn theo Từ điển Luật học năm 2006, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp
và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định
theo quy định của pháp luật [65, tr. 651]. Như vậy, quyền của chủ thể được
xác định dựa trên cơ sở cương vụ, chức vụ mà chủ thể đó đảm nhiệm. Quyền
hạn của Thẩm phán trong TTDS là phạm vi những công việc mà Thẩm phán
được thực hiện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của
pháp luật [14, tr. 65]. Nếu như nhiệm vụ là những công việc Thẩm phán bắt
buộc phải thực hiện thì quyền hạn của Thẩm phán là quyền chủ động thực

hiện nhiệm vụ của mình. Khi giải quyết vụ việc dân sự, trên cơ sở nhiệm vụ
mà BLTTDS quy định, Thẩm phán có quyền lựa chọn cách thức, thời gian,
biện pháp để thực hiện nhiệm vụ nhằm giải quyết vụ việc dân sự khách quan,
đúng pháp luật.
Từ những nhận định trên chúng ta có thể khẳng định quyền hạn của
một chủ thể được pháp luật quy định chính là quyền của chủ thể đó được sử
dụng để thực hiện chức năng, trách nhiệm nhất định. Pháp luật quy định
Thẩm phán có nhiệm vụ thực hiện những công việc gì thì pháp luật phải trao
16
cho Thẩm phán những quyền hạn để thực hiện nhiệm vụ đó. Thực tế, ranh
giới giữa nhiệm vụ và quyền hạn khó có thể tách bạch rõ ràng, dễ nhầm lẫn.
Vì vậy, khi soạn thảo và ban hành văn bản pháp luật, các nhà lập pháp đã
không tách nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán thành các điều luật riêng
biệt. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán nói chung được quy định chủ yếu
trong Pháp lệnh Thẩm phán và HTND. Còn trong TTDS, nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán đều được quy định chung tại Điều 41 BLTTDS.
Mặt khác, quyền hạn và trách nhiệm là hai phạm trù không thể tách
rời. Trách nhiệm của Thẩm phán chỉ xác định được khi gắn với nhiệm vụ và
quyền hạn nhất định. Ngược lại khi Thẩm phán được pháp luật giao những
quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ thì cần có một cơ chế xác định
việc thực hiện đó có đúng và chính xác không để xác định trách nhiệm. Dù
bất cứ công việc nào cũng đều đòi hỏi người thực hiện phải có trách nhiệm.
Đặc biệt trong hoạt động xét xử đòi hỏi trách nhiệm của Thẩm phán cao hơn
nhiều bởi xét xử là hoạt động mang tính quyết định. Đối với các vụ việc dân
sự mỗi phán quyết của Thẩm phán đều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự, ảnh hưởng đến tính công bằng, nghiêm
minh của pháp luật. Do đó nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền và những hành vi
trái pháp luật khi tăng cường sự độc lập của Thẩm phán, mở rộng quyền hạn
của họ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự thì càng cần phải đề cao trách
nhiệm của họ. Vì vậy, ngoài việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn việc xác định

cụ thể trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS là rất cần thiết. Thẩm phán là
một công chức nhà nước nên ngoài trách nhiệm đối với Nhà nước như công
chức khác, Thẩm phán còn có trách nhiệm riêng biệt gắn liền với nhiệm vụ,
quyền hạn của họ trong hoạt động TTDS.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2001, trách nhiệm là phần việc được
giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không
tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả (trách nhiệm làm cha mẹ, giám đốc xí nghiệp,
ý thức trách nhiệm); là sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình bảo
17
đảm đúng đắn, nếu có gì sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả [66, tr. 1020].
Trách nhiệm chính là hậu quả của việc thực hiện không đúng, không đầy đủ
nhiệm vụ do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận. Trách nhiệm của
Thẩm phán nói chung được quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và HTND, Bộ
luật Hình sự, Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước và nhiều văn bản pháp luật có liên quan. BLTTDS chỉ quy định trách
nhiệm của cơ quan, người tiến hành TTDS chung tại Điều 13 chứ không quy
định cụ thể trách nhiệm của Thẩm phán. Với các quy định tại các văn bản nói
trên chúng ta có thể hiểu trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS là hậu quả
pháp lý mà Thẩm phán phải gánh chịu do không thực hiện đúng các quy định
của BLTTDS và các quy định pháp luật về nội dung khi giải quyết vụ việc
dân sự.
Thông qua các quy định của pháp luật, trách nhiệm của Thẩm phán
trong TTDS được chia làm hai loại. Thứ nhất: trách nhiệm phải đảm bảo hoàn
thành việc giải quyết vụ việc dân sự khi được chánh án phân công (trách
nhiệm trong TTDS). Thứ hai: trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (trách nhiệm pháp
lý). Vì vậy, Thẩm phán chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm trong khi tiến hành tố
tụng thì tùy theo tính chất, mức độ sai phạm và hậu quả sẽ bị xử lý kỷ luật,
bồi thường thiệt hại hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự [14, tr. 84].

Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn là phạm vi những công việc mà Thẩm
phán thực hiện trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm mục đích bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việc được khách quan, đúng pháp luật và trong
thời hạn do pháp luật quy định. Trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS là
những công việc mà Thẩm phán được giao phải thực hiện trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và
quyết định của mình khi thực hiện những công việc mà họ được giao. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm này được pháp luật TTDS quy định cụ thể đối với
18
Thẩm phán, cho phép họ thực hiện một cách độc lập những hành vi, quyết định
tố tụng trong quá trình giải quyết những vụ việc dân sự. Đồng thời, họ phải tự
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi và quyết định tố tụng của mình.
1.2. CƠ SỞ QUY ĐỊNH NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.2.1. Cơ sở lý luận của việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự
Từ năm 1986, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quá trình
đổi mới đã diễn ra một cách toàn diện, đồng bộ trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Theo đó các tranh chấp dân sự phát sinh ngày một đa dạng, phức
tạp đòi hỏi phải có sự điều chỉnh thích hợp về pháp luật nhằm ổn định các
quan hệ xã hội. Vì vậy, cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết
và mang tính quy luật để có thể thích ứng với những đổi mới về văn hóa, kinh
tế, xã hội…
Nhận thức rõ tầm quan trọng của cải cách tư pháp nên vấn đề này đã
được đề cập ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và các kỳ Đại hội Đảng
sau đó, đặc biệt là Nghị quyết số 08/NQ-TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW.
Nghị quyết số 49/NQ-TW đã xác định xét xử là trọng tâm của hoạt động tư
pháp và Tòa án có vị trí trung tâm trong hệ thống tư pháp. Theo tinh thần và
nội dung của Nghị quyết nói trên, trọng tâm của cải cách tư pháp là cải cách

hệ thống Tòa án. Nghị quyết số 49/NQ-TW đã đặt ra yêu cầu:
Xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính
công khai, dân chủ, nghiêm minh… Tăng quyền hạn trách nhiệm tố
tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động
thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình [7].
19
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 lại một lần nữa khẳng
định: "Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo Thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải
cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách hoạt động tư pháp" [9].
Như chúng ta đã biết, Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, thực hiện chức năng xét xử tất cả các vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại, hành chính. Chính vì
vậy, Tòa án là nơi biểu hiện tập trung đầy đủ nhất của quyền tư pháp, nơi thể
hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp. Trong hoạt
động xét xử của Tòa án, Thẩm phán là người giữ vị trí trung tâm, đảm đương
phần lớn công việc của Tòa án. Đặc biệt, trong hoạt động TTDS của Tòa án
ngay từ khi thụ lý đến khi ra các quyết định giải quyết vụ việc dân sự đều do
Thẩm phán thực hiện. Vì vậy, khi cải cách hoạt động của Tòa án nói chung và
trong TTDS nói riêng chúng ta không thể không tính đến việc đổi mới, cải cách
chính hoạt động của Thẩm phán. Hay nói cách khác là cần phải xác định rõ nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong TTDS, đồng thời xây dựng
một cơ chế khoa học, hợp lý để Thẩm phán có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình một cách nhanh chóng, hiệu quả, đúng pháp luật góp phấn bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của công dân, giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội.
Mặt khác, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước Đảng ta cũng
xác định cần cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính trong
sạch, có đủ năng lực sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để
quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát

triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước.
Để thực hiện nhiệm vụ phức tạp và khó khăn đó ngay từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII đã xác định: "Cần tập trung cải cách thể chế của nền hành
chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy…, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
hành chính…" [4]. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính cần
định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền, quyền lợi và kỷ luật của công
chức hành chính… Mới đây nhất Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục
20
khẳng định: "…phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm
quyền của mỗi cán bộ công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách
nhiệm của hoạt động công vụ" [9].
Thẩm phán là một công chức nên cũng không nằm ngoài định hướng
chung đó. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán cần được xác định
cụ thể trong từng lĩnh vực. Đối với hoạt động TTDS, cần xác định rõ nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong từng giai đoạn cụ thể nhằm
giúp cho Thẩm phán có thể giải quyết các vụ việc dân sự một cách nhanh
chóng, có hiệu quả, đúng pháp luật qua đó góp phần ổn định các giao lưu dân
sự hướng tới thực hiện một mục tiêu chung là xây dựng đất nước giàu mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Như vậy, cải cách hành chính, cải cách tư pháp chính là tiền đề lý luận
để chúng ta xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán
trong TTDS nhằm đảm bảo cho họ có thể chủ động thực hiện hoạt động xét
xử một cách có hiệu quả.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, BLTTDS năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLTTDS năm 2011 là văn bản pháp lý quan trọng quy định trình tự, thủ
tục giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án. Thực tiễn giải quyết các vụ việc
dân sự của Thẩm phán tại Tòa án trong những năm qua cho thấy nhiều vụ
việc dân sự Thẩm phán giải quyết chưa thực sự mang tính độc lập. Nhiều bản
án, quyết định của Thẩm phán vẫn bị chi phối, tác động bởi chính quyền địa

phương cùng cấp và lãnh đạo cấp trên trực tiếp. Tại nhiều Tòa án địa phương
tình trạng báo cáo án, thỉnh thị án vẫn còn tồn tại. Điều này đã ảnh hưởng rất
lớn tới nguyên tắc "Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật" tại Điều 12 BLTTDS.
Mặt khác, trong xu thế chung hội nhập kinh tế quốc tế các tranh chấp
dân sự đang ngày một gia tăng cả về số lượng cũng như mức độ phức tạp. Để
21
đáp ứng được yêu cầu giải quyết các vụ việc dân sự đó đòi hỏi người Thẩm
phán phải có bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Tuy nhiên, thống kê của ngành Tòa án cho thấy hàng năm số
lượng các vụ việc dân sự bị hủy, sửa vẫn còn cao. Số vụ việc bị hủy, sửa do
nguyên nhân chủ quan của Thẩm phán chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Nhiều
Thẩm phán vì lợi ích trước mắt đã cố tình vi phạm pháp luật làm sai lệch hồ
sơ vụ án. Số lượng các Thẩm phán bị xử lý kỷ luật và truy cứu trách nhiệm
hình sự đang có chiều hướng tăng lên. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng xét xử, làm giảm niềm tin của nhân dân vào các cơ quan tư pháp đặc
biệt là Tòa án.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các vụ việc dân sự
cần quy định cụ thể hơn nữa nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán đồng thời
phân định rõ hơn trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình giải quyết các
vụ việc dân sự là rất cần thiết.
1.2.3. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong bộ máy nhà nước và
trong tố tụng dân sự
Bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức theo
nguyên tắc "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" [37], quyền lực
nhà nước là thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự phân chia
quyền lực nhà nước thành ba quyền nói trên không phải là sản phẩm chủ
quan, duy ý chí của con người mà bắt nguồn từ nhu cầu khách quan của việc
đảm bảo cho quyền lực nhà nước vận hành một cách suôn sẻ và có hiệu lực,

hiệu quả. Với hoạt động lập pháp và hành pháp, Nhà nước ban hành pháp luật
và tổ chức thực hiện pháp luật để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức
theo một trật tự do pháp luật xác lập. Tuy nhiên, nếu chỉ ban hành pháp luật
và tổ chức thực hiện pháp luật thì chưa đủ để đưa xã hội vào trạng thái ổn
định và phát triển. Trong xã hội luôn luôn phát sinh các tranh chấp, các hành
22
vi vi phạm pháp luật xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và
tổ chức, lợi ích của Nhà nước, xâm phạm trật tự pháp luật. Do vậy, cần phải
có một phương diện hoạt động thứ ba của quyền lực nhà nước đó là tư pháp
với chức năng bảo vệ pháp luật.
Để đảm bảo quyền lực nhà nước thì việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp đều có vị trí, vai trò rất quan trọng. Việc thực hiện
đầy đủ, đồng bộ ba quyền trên sẽ đảm bảo phát huy sức mạnh của quyền lực
nhà nước. Quyền tư pháp được thực hiện bởi hệ thống các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, Thi hành án. Các cơ quan này trong phạm vi,
chức năng của mình đều có nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp chế XHCN, bảo
vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân (Điều 126 Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001).
Theo Điều 1 Luật Tổ chức TAND thì "Tòa án là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [30]. Trong TTDS, Tòa án là cơ
quan tiến hành TTDS chủ yếu và có vị trí, vai trò quan trọng nhất. Thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án mà kết quả các hoạt động tư pháp khác như điều
tra, truy tố, xét xử… được kiểm tra, xem xét, đánh giá công khai, khách quan
mang tính quyền lực nhà nước. Vì vậy, Tòa án là nơi thể hiện tập trung nhất
quyền lực tư pháp của quốc gia, ở đó mỗi phán quyết của Tòa án biểu hiện
được tính công minh của pháp luật và nền công lý của Nhà nước đó [14, tr. 7].
Trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán là người được nhân
danh Nhà nước làm nhiệm vụ xét xử. Thông qua hoạt động xét xử, Thẩm
phán có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động tố tụng một cách công khai, minh

bạch, khách quan đối với cá nhân, tổ chức. Tùy theo tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội mà người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật do hành vi của mình đã gây ra. Mặt khác, bằng việc xét xử các vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động mà bản
23
án, quyết định do Thẩm phán tuyên đã lập lại trật tự của các quan hệ pháp luật
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động theo đúng
quy định của pháp luật.
Trong lĩnh vực TTDS, vị trí, vai trò của Thẩm phán còn có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Khác với tố tụng hình sự, quá trình tiến hành tố tụng để
chứng minh hành vi của một người là phạm tội hay không phải có sự phối
hợp của rất nhiều cơ quan mà vai trò của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán ở mỗi giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đều rất quan trọng. Nhưng trong
TTDS, toàn bộ các hoạt động từ khi thụ lý vụ án đến sau khi kết thúc phiên
tòa đều được thực hiện thông qua hành vi của Thẩm phán. Mỗi phán quyết
của Thẩm phán đều có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tố tụng. Qua đó có
thể khẳng định, trong TTDS Thẩm phán có vị trí, vai trò quan trọng nhất.
Hoạt động tố tụng của Thẩm phán góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp luật và duy trì
trật tự pháp luật.
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CỤ THỂ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN,
TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Trong TTDS, nhiệm vụ xét xử các vụ việc của Tòa án được thực hiện
thông qua các hoạt động cụ thể của các cán bộ Tòa án, mà chủ yếu là Thẩm
phán. Vì vậy, việc xác định cụ thể, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
của Thẩm phán sẽ khẳng định vị trí, vai trò của Thẩm phán trong cơ cấu tổ
chức của Tòa án, là chức danh đặc biệt trong hệ thống chức danh tư pháp của
Nhà nước. Thẩm phán là người được Nhà nước giao cho nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm cụ thể để thực hiện nhiệm vụ xét xử các vụ việc hình sự, dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính; từ đó

cho phép phân biệt cụ thể thẩm quyền của Tòa án và nhiệm vụ của Thẩm
phán. Đồng thời sẽ là cơ sở tiến tới xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của HTND và các cán bộ khác của Tòa án. Điều đó thực sự giải quyết
24
tổng thể những yêu cầu về đổi mới trong tổ chức, hoạt động TTDS của Tòa án
trong giai đoạn hiện nay; thực hiện chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam theo Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/06/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp từ nay đến năm 2020 (sau
đây gọi tắt là Nghị quyết số 48/NQ-TW)
Việc xác định cụ thể, khoa học nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Thẩm phán sẽ tạo điều kiện để Thẩm phán có thể chủ động thực hiện nhiệm
vụ của Tòa án cũng như tránh sự lạm quyền và tùy tiện trong việc giải quyết
các vụ việc Dân sự, Hôn nhân và gia đình, Kinh doanh thương mại, Lao động;
đảm bảo có thể giải quyết nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đúng pháp
luật các vụ việc. Bên cạnh đó sẽ nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong hoạt động TTDS và là cơ sở
để xác định lỗi, từ đó xác định trách nhiệm bồi hoàn của Thẩm phán đối với
cơ quan Tòa án khi có thiệt hại xảy ra mà cơ quan Tòa án phải bồi thường
theo Điều 620 BLDS năm 2005 và Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước
năm 2009.
Ngoài ra khi Thẩm phán được xác định nhiệm vụ, quyền hạn độc lập
trong việc giải quyết một loại việc dân sự sẽ là cơ sở để xây dựng thủ tục rút
gọn, tạo điều kiện cho Thẩm phán có thể độc lập giải quyết nhanh chóng,
đúng pháp luật đối với những loại tranh chấp có tính chất đơn giản, rõ ràng;
xây dựng thủ tục công nhận một văn bản không phải của Tòa án có giá trị thi
hành và thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự không cần thành lập Hội đồng
xét xử (HĐXX).
Như vậy, với vai trò và vị trí không thể thiếu trong TTDS, Thẩm
phán cần được xác định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể. Điều này
không chỉ giúp cho Thẩm phán giải quyết đúng đắn các công việc mà còn

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong toàn bộ quá trình tiến
hành tố tụng.
25
1.4. LƯỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
Từ tháng 09/1945 đến nay, ngay từ khi giành được độc lập, Nhà nước
ta luôn chú trọng việc hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân. Điều đó được quy định có tính nguyên tắc thể hiện trong các Hiến
pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp
năm 1992. Các quy định về Tòa án, Thẩm phán được cụ thể hóa trên cơ sở
của Hiến pháp bằng các văn bản pháp luật, để đáp ứng được nhiệm vụ cụ thể
của Nhà nước trong từng giai đoạn.
Trong hệ thống công chức nhà nước thuộc các cơ quan bảo vệ pháp
luật, hơn ai hết tư cách và năng lực của Thẩm phán là sự phản ánh rõ nét bản
chất của chế độ. Điều này được thể hiện thông qua những quy định về việc
tiêu chuẩn hóa đội ngũ Thẩm phán, đặc biệt là những quy định của pháp luật
về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của họ. Tuy nhiên, ở những chế độ xã
hội khác nhau thì địa vị pháp lý và vai trò của Thẩm phán cũng sẽ khác nhau,
nó phản ánh bản chất chính trị của chế độ trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, chúng ta
nghiên cứu các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
của Thẩm phán qua các giai đoạn phát triển sau đây.
1.4.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959
Sau gần 100 năm dưới ách thực dân phong kiến, tháng 08/1954 dân tộc
Việt Nam đã giành được độc lập. Sắc lệnh đầu tiên số 33c ngày 13/09/1945
do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về việc thành lập Tòa án quân sự đã được ban
bố, trong đó đã quy định việc xét xử phải có sự tham gia của Thẩm phán. Đầu
năm 1946, văn bản pháp luật đầu tiên quy định việc tổ chức các cơ quan tư
pháp là Sắc lệnh số 13/SL ngày 21/01/1946 về "Tổ chức Tòa án và các ngạch

tư pháp". Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định tương đối đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của Thẩm phán.

×