Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tranh tụng giữa kiểm sát viên và người bào chữa tại phiên tòa hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẰNG NHƯ

TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ
NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------------

NGUYỄN THỊ HẰNG NHƯ

TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ
NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA
HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số
: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG


HÀ NỘI – 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những kết luận khoa học của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ HẰNG NHƯ


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc

34


bảng
2.1

thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Tòa án
từ 2002 – 2008.
2.2

Bảng tổng hợp tỷ lệ tỷ lệ bản án, quyết định bị
sửa của tòa án các cấp từ năm 2004 – 2007.

36


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG GIỮA
KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.

Nhận thức chung về tranh tụng


6
6

1.1.1. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa hình sự
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tranh tụng trong phiên tòa
hình sự

6
11

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Kiểm sát viên và Người
bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự
1.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong phiên

21

1.2.

21

tòa hình sự
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Người bào chữa trong

27

phiên tòa hình sự
Chương 2: THỰC TIỄN TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT

34


VIÊN VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG PHIÊN
TÒA HÌNH SỰ

2.1.
Tình hình tranh tụng của Kiểm sát viên trong phiên tòa hình sự
2.1.1. Những ưu điểm của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa
hình sự

34
34

2.1.2. Những tồn tại của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa

38

2.2.

hình sự
Tình hình tranh tụng của Người bào chữa trong phiên tòa hình sự

46


2.2.1. Những ưu điểm của Người bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa

46

hình sự
2.2.2. Những tồn tại của Người bào chữa trong tranh tụng tại phiên tòa

hình sự

52

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN VÀ NGƯỜI

59

BÀO CHỮA TRONG PHIÊN TÒA HÌNH SỰ

3.1.

Hoàn thiện pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa hình sự

59

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự

59

3.1.2. Hoàn thiện văn hóa pháp lý về tranh tụng trong tố tụng hình sự

66

3.2.

Giải pháp đối với Viện kiểm sát

72


3.2.1. Nâng cao năng lực, trình độ của Kiểm sát viên

72

3.2.2. Tăng cường giám sát hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa
hình sự

80

3.3.

Giải pháp đối với Luật sư với tư cách Người bào chữa

3.3.1. Nâng cao năng lực, trình độ và kỹ năng tranh tụng của Luật sư Người bào chữa
3.3.2. Tăng cường giám sát hoạt động của Người bào chữa tại phiên tòa

85
85
92

hình sự
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

98
100


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời vào ngày 02/01/2002
được xem như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Tiếp theo
đó là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các nghị quyết này đề cập nhiều nội
dung của công tác cải cách tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho
đến việc đào tạo cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ cho thấy, nội dung
của nghị quyết tập trung nhiều hơn vào việc tăng cường yếu tố tranh tụng
trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Đây chính là điểm nhấn của cải cách tư
pháp và là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết, theo đó, việc phán quyết của Tòa
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phải đảm bảo để
bản án, quyết định của Tòa án là hiện thân của công lý, công bằng xã hội.
Như vậy, một vấn đề cấp bách được đặt ra đối với các cơ quan tư pháp là làm
thế nào để đạt được những yêu cầu đó. Trong nỗ lực chung, thì việc nghiên
cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là
cần thiết.
Trong tố tụng hình sự, Kiểm sát viên và Người bào chữa có một vai trò
hết sức quan trọng. Kiểm sát viên và Người bào chữa luôn ở vị thế đối trọng
nhau tại phiên toà bởi họ đứng trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích của các bên
được họ đại diện. Do đó quá trình tranh luận của họ tại phiên toà là phần quan
trọng trong việc làm rõ tính chất của vụ án và là cơ sở để giải quyết vụ án
hình sự. Mặc dù, trên thực tế “tranh tụng giữa kiểm sát viên và Người bào
chữa tại phiên tòa hình sự” đã có những bước tiến nhất định, nhưng nhìn
chung chất lượng và hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc cải cách tư pháp. Điều này đặt ra việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này

1


trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay nhằm đưa ra một số giải pháp nâng

cao hiệu quả hoạt động của kiểm sát viên và Người bào chữa trong công tác
giải quyết vụ án, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của công dân, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư
pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến
vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự như: "Vấn đề tranh tụng hình sự" của
tác giả Nguyễn Đức Mai trong cuốn kỷ yếu: "Những vấn đề lý luận và thực
tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam" – Viện kiểm sát nhân dân tối cao
năm 1995; “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
của Kiểm sát viên” của tác giả Lê Hữu Thể – Đề tài khoa học cấp bộ của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao năm 2005; Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, của
TS. Dương Thanh Biểu - Nhà xuất bản tư pháp, 2007; bài về “Bản chất của
tranh tụng tại phiên tòa” của tác giả Trần Văn Độ - Tạp chí khoa học pháp lý
số 4/2004; bài "Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh
Hào trong Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2003; bài viết của nhiều tác giả trong
Đặc san nghề luật số 5/2003 về chuyên đề mở rộng tranh tụng; cuốn chuyên
khảo "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền" do TSKH Lê Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều
bài viết của các tác giả (Nxb Đại học quốc gia, 2004)...Theo đó, các công
trình chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định liên quan tranh tụng chứ chưa có
công trình nào nghiên cứu sâu riêng phần tranh tụng giữa Kiểm sát viên và
Người bào chữa tại phiên tòa. Mặt khác, qua tổng kết đánh giá thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã xuất hiện nhiều
tồn tại, vướng mắc và xung đột giữa các bên tham gia tố tụng cần phải được

2


tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các kiến giải lập pháp cũng như các giải pháp

nâng cao hiệu quả áp dụng chúng.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt
động tố tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đồng thời
góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận, tác giả chọn đề tài: "Tranh tụng giữa
Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa hình sự Việt Nam" làm luận
văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở
lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung của tranh tụng tại phiên tòa, chỉ ra
những bất cập còn tồn tại của việc tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta hiện nay,
những ưu điểm và tồn tại trong quá trình thực hiện hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa của Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa, thông qua đó đề xuất những
giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
hướng tới xây dựng một phiên tòa hình sự thực sự công bằng, dân chủ góp
phần thực hiện quá trình cải cách tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được
đặt ra là:
1- Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa,
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Kiểm sát viên và Người bào chữa
trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
2- Phân tích, đánh giá thực trạng tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam
những năm gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại,
hạn chế trong hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên và Người bào chữa tại
phiên tòa hình sự.
3- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng
tranh tụng tại phiên tòa luận văn nêu ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố

3



tụng hình sự, xây dựng văn hóa pháp lý phiên tòa, nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát hoạt động của Kiểm sát viên, Người bào chữa trong tranh tụng
tại phiên tòa qua đó nâng cao chất lượng tranh tụng, hiệu quả xét xử vụ án
hình sự ở nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tranh tụng là vấn đề lớn trong hoạt động tố tụng, có nhiều nội dung
thể hiện ở các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án nên trong phạm vi của
một luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ
dừng lại nghiên cứu vấn đề tranh tụng giữa hai chủ thể chính là Kiểm sát viên
và Luật sư bào chữa (Người bào chữa) tại phiên tòa.
Với phạm vi nghiên cứu này, luận văn nghiên cứu về tranh tụng tại phiên
tòa dưới góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật về tranh tụng tại
phiên tòa, về quyền, nghĩa vụ, vai trò của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa trong
tranh tụng tại phiên tòa hình sự ; đồng thời qua đó chỉ ra vướng mắc trong hoạt
động thực tiễn của những chế định này, trên cơ sở khảo sát thực trạng về chất
lượng phiên tòa hình sự từ sau ngày Nghị quyết 08/NQ-TW ra đời. Từ đó đưa
ra những quan điểm, kiến nghị góp phần thực hiện tốt Nghị quyết 08/NQ-TW,
Nghị quyết 49/NQ-TW nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử nói
riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về pháp luật, về cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, luận văn còn vận dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng nội dung nghiên cứu của đề
tài như: Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu, báo cáo; phương pháp thống
kê, so sánh; phương pháp lịch sử.

4



6. Những điểm mới của luận văn
Là công trình đầu tiên đề cập và giải quyết vấn đề tranh tụng giữa
Kiểm sát viên và Người bào chữa tại phiên tòa, luận văn có những điểm
mới sau:
1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tranh tụng tại phiên tòa, góp phần nâng
cao nhận thức về nội dung, bản chất của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
2- Khảo cứu các quy định pháp luật về tranh tụng tại phiên tòa, đánh
giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về tranh tụng của Kiểm sát
viên và Luật sư bào chữa và chỉ ra những hạn chế tồn tại trong hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa hình sự, cũng như làm rõ nguyên nhân và điều kiện
của tồn tại đó.
3- Đề xuất các giải pháp về hoàn thiện pháp luật, về năng lực, trình độ
của Kiểm sát viên, Người bào chữa, tiến tới xây dựng ý thức văn hóa pháp lý
trong tranh tụng... nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
hình sự. Một số giải pháp luận văn đưa ra sẽ giúp cho các cơ quan tiến hành
tố tụng nói chung và Tòa án, Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa nói riêng nâng
cao hiệu quả chất lượng phiên tòa hình sự hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về tranh tụng giữ Kiểm sát viên và
Người bào chữa tại phiên toà hình sự.
Chương 2: Thực tiễn tranh tụng giữa Kiểm sát viên và Người bào
chữa trong phiên toà hình sự.
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng giữa Kiểm
sát viên và Người bào chữa trong phiên toà hình sự.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH TỤNG GIỮA KIỂM SÁT VIÊN
VÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức chung về tranh tụng
1.1.1. Khái niệm về tranh tụng tại phiên toà hình sự
Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là
thành tựu của sự phát triển tư tưởng nền văn minh nhân loại. Tranh tụng là cơ
chế tố tụng có hiệu quả đảm bảo cho tòa án xác định sự thật khách quan của
vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo công bằng và bảo vệ các quyền
và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Hiện nay, trong thực tiễn và khoa học
pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau về tranh tụng, hoạt động tranh tụng nói
chung và hoạt động tranh tụng của Người bào chữa - Luật sư, Kiểm sát viên
nói riêng.
Theo từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là kiện tụng [32]. Xét về
ngữ, tranh tụng là một từ Hán Việt được ghép từ “tranh luận” và “tố tụng”.
Còn tranh tụng trong tiếng Anh là từ “Adversarial” có nghĩa là đối kháng,
đương đầu. Xét về bản chất, tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố
tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội), mà giai đoạn đương đầu tại
Tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản
đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa các bên tại phiên tòa, mà phải hiểu
tranh trụng nó diễn ra trong một quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến
hành một cách quyết liệt, khi công khai, lúc ngấm ngầm để “cạnh tranh”
nhau, để “chống” lại nhau. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội
(công tố) cố gắng làm sao thuyết phục các quan tòa tin được rằng bị cáo là
người có tội, còn bên bị buộc tội, ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện
pháp, lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên Công tố

6



đưa ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc. Luật sư
của bị cáo có thể bất chấp thủ đoạn để bảo vệ thân chủ bằng mọi giá. Phiên
tòa tranh tụng thật sự là một “ bãi chiến trường” theo đúng nghĩa của nó khi
mà kết cục phiên tòa, chỉ có một bên giành được phần thắng [48]. Xét về cách
hiểu thông thường nhất, “tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm
của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của
phía bên kia” [14].
Như vậy, mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau song tranh tụng được
xem là một loại hoạt động trong quá trình tố tụng cả trong tố tụng hình sự và
tố tụng dân sự song đậm nét nhất vẫn là trong tố tụng hình sự. Tranh tụng
không chỉ đòi hỏi Tòa án phát huy vai trò phán xét của mình để đưa ra sự thật
khách quan của vụ án mà còn đòi hỏi mỗi người tham gia hoạt động tố tụng
phải phát huy vai trò của mình. Cụ thể, Tòa án giữ vai trò trung gian, trọng tài
cho cuộc tranh tụng giữa Luật sư và Kiểm sát viên. Trong đó Luật sư giữ vai
trò là Người bào chữa và bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, Kiểm sát viên và cơ
quan điều tra với vai trò là bên buộc tội để tìm ra công lý. Hay nói cách khác,
tranh tụng trong phiên tòa chính là một trong các hoạt động tố tụng được tiến
hành bởi các bên tham gia tố tụng nhằm mục đích đưa ra các luận điểm, ý
kiến của mình để bảo vệ quan điểm hoặc bác bỏ luận điểm và những lời buộc
tội của phía bên kia dưới sự điều khiển công minh, chính trực của Tòa án.
Xét về mặt chủ thể, có thể dễ dàng nhận thấy mối quan hệ pháp luật trong
tranh tụng là mối quan hệ giữa cơ quan, cá nhân hoạt động nhân danh Nhà
nước, nhánh quyền tư pháp với cá nhân hoạt động mang tính xã hội - nghề
nghiệp. Tranh tụng vì thế có đặc thù bất bình đẳng về vị trí pháp lý của chủ
thể nên đòi hỏi phải có sự bình đẳng trong cách thức, quy trình và thủ tục
tranh tụng, cách đánh giá và phán xét để đảm bảo cho Luật sư được bình đẳng

7



trong tranh tụng, đảm bảo quyền lực tố tụng được san sẻ và đạt ở mức bình
đẳng giữa các bên trong tranh tụng.
Phân biệt giữa “ tranh tụng” và “ tranh luận” Tiến sỹ Nguyễn Thái Phúc
khi cho rằng, ở góc độ chung nhất, “tranh tụng” là quá trình tồn tại, vận động
và đấu tranh giữa hai chức năng đối trọng với nhau, có quyền ngang nhau
trong việc bảo vệ các ý kiến, lập luận, lợi ích của mình và phản bác ý kiến, lập
luận, lợi ích của phía bên kia: chức năng buộc tội và chức năng bào chữa, khi
xuất hiện chức năng buộc tội thì tất yếu xuất hiện chức năng bào chữa. Đó
chính là thời điểm bắt đầu của quá trình tranh tụng… Còn “tranh luận” là một
thủ tục, một phần độc lập của phiên tòa xét xử trong đó các bên buộc tội và
bào chữa thông qua phần trình bày của mình tổng hợp và đánh giá kết quả của
phần xét hỏi, phân tích, đánh giá các chứng cứ của vụ án và đưa ra những
đánh giá chính trị - xã hội và đánh giá pháp lý đối với các hành vi của bị cáo,
đề nghị hình phạt và những vấn đề liên quan mà Tòa án phải giải quyết khi
nghị án. Tranh luận là cuộc "đấu khẩu" với sự tham gia của các "bên" buộc tội
và bào chữa có quyền ngang nhau để bảo vệ các ý kiến, luận điểm của mình
và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên đối trọng dưới vai trò điều khiển và
quyết định của Tòa án. Tranh luận tạo cơ hội cho các bên trình bày những
đánh giá có tính kết luận của mình về các vấn đề của vụ án với Hội đồng xét
xử nhằm thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận những đề nghị của mình và
bác bỏ đề nghị của phía bên kia. Thủ tục tranh luận tại phiên tòa thể hiện đậm
nét nhất, tập trung nhất và là đỉnh cao của quá trình tranh tụng. Tranh luận có
nội hàm hẹp hơn tranh tụng, là một phần của tranh tụng [35].
Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi sự phân định rõ ràng về các chức năng
buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử, trong đó chức năng buộc tội
thuộc về bên công tố, chức năng gỡ tội thuộc bên Luật sư biện hộ và chức
năng xét xử thuộc về Tòa án. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nội dung của nguyên

8



tắc tranh tụng xuyên suốt quá trình tố tụng hình sự kể từ khi bắt đầu cuộc điều
tra cho đến khi Tòa án ra phán quyết, chứ không nên hiểu đơn giản là tranh
tụng chỉ được tiến hành tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng chính là điều
kiện để bảo đảm việc xác định đúng đắn sự thật khách quan của vụ án, hình
thức tranh tụng giúp cho việc kiểm tra tại phiên tòa từng chứng cứ, từng chi
tiết của vụ án ở cả hai góc độ buộc tội và gỡ tội. Nhờ đó, Tòa án có thể nghiên
cứu, đánh giá tất cả những gì mà bên buộc tội khẳng định cũng như tất cả
những gì mà bên gỡ tội phản bác. Trên cơ sở đó xác định đúng người phạm
tội dể trừng trị, đồng thời không làm oan người vô tội, tạo tiền đề cho việc
giải quyết đúng đắn vụ án.
Xét xử hình sự, là hoạt động giải quyết vụ án mà trong đó Tòa án xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ dựa trên các
chứng cứ, tranh luận của bên buộc tội và bên gỡ tội đối chiếu với các quy
định của pháp luật có liên quan từ đó đưa ra phán quyết về vụ án. Tùy theo
tính chất vụ án mà chức năng tố tụng, địa vị pháp lý của các bên cũng khác
nhau. Tranh tụng trong tố tụng hình sự diễn ra giữa các bên buộc tội và bên
bào chữa, chủ yếu là giữa Kiểm sát viên với Người bào chữa và bị cáo. Để
những người đó thực hiện việc tranh tụng, pháp luật tố tụng quy định cho họ
các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định.
Bản chất của tranh tụng được thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm tại Tòa, còn ở các giai đoạn khác của tố tụng hình sự,
nguyên tắc này chỉ thể hiện trong một số yếu tố nhất định. Đặc điểm của
tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm là Tòa án giữ vai trò là chủ thể chính trong
việc duy trì và hướng dẫn các thủ tục đối với các bên tham gia tranh tụng tại
Tòa. Tuy nhiên, Tòa án không hạn chế tính chủ động và tích cực của các bên
tham gia tranh tụng hoặc “làm thay chức năng của họ”. Mặt khác, Tòa án

9



cũng không được để cho quá trình tranh tụng diễn ra theo ý chí chủ quan của
các bên.
Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành đã kết hợp được những
điểm tích cực của tố tụng xét xử và tố tụng tranh tụng. Tranh tụng tại phiên
tòa nhưng vẫn giữ được bản chất của “tố tụng xét hỏi” trên cơ sở kết quả điều
tra và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Mặc dù không phải là “tố tụng tranh
tụng” nhưng tính chất tranh tụng tại phiên tòa vẫn là sự tranh luận giữa người
có quyền và lợi ích đối lập nhau như giữa Kiểm sát viên, người bị hại với bị
cáo, Người bào chữa; trong một số trường hợp là giữa Kiểm sát viên với
người bị hại; giữa người tham gia tố tụng với nhau. Trong tranh luận đại diện
Viện kiểm sát giữ quyền công tố và Luật sư vẫn là những người tham gia
chính. Hội đồng xét xử không phải là người tham gia tranh tụng mà chỉ là
người có tổ chức, điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa giữa những người
có quyền và lợi ích đối lập nhau. Do đó, vai trò của Hội đồng xét xử mà trực
tiếp là chủ tọa phiên tòa trong việc tranh tụng như thế nào để đạt được mục
đích là vô cùng quan trọng. Tranh tụng được hiểu là các hoạt động tố tụng
được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội)
có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập và đưa ra chứng cứ để bảo
vệ các quan điểm và lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm và lợi ích
của phía đối lập. Như vậy, có thể hiểu, Tranh tụng tại phiên tòa là những
hoạt động được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng,
trong đó Tòa án giữ vai trò trung gian, trọng tài thay mặt nhà nước xác định
sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên Tòa, nghe ý kiến của
các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
Tranh tụng trong tố tụng hình sự có một ý nghĩa đặc biệt, nó chính là
biểu hiện của tố tụng hình sự nói chung, thể hiện rõ nét trong giai đoạn xét xử


10


tại tòa và là phương tiện hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào tiến trình tố
tụng hình sự thực hiện đầy đủ và đúng đắn các chức năng của mình. Một số
học giả còn cho rằng, tranh tụng chính là công cụ quan trọng nhất để xác
định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, nguyên tắc tranh tụng còn liên
quan chặt chẽ đến các nguyên tắc khác của tố tụng hình sự, đặc biệt là các
nguyên tắc như giả định vô tội, quyền có Người bào chữa của bị cáo và xác
định sự thật khách quan của vụ án…Các nguyên tắc này tác động qua lại với
nhau và là điều kiện bảo đảm cho nhau cũng như toàn bộ tiến trình tố tụng
hình sự [49].
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tranh trụng trong phiên
toà hình sự
Để thực hiện công cuộc cải cách tư pháp nói chung, ngày 02/01/2002
Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “ về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, ngày 24/5/2005 và 02/6/2005
Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết 48 và 49-NQ/TW “ về chiến lược
xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020” và “ chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, theo đó,
mục tiêu của các Nghị quyết xác định: “xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao” theo đó, Đảng và nhà nước ta đã xác định cải cách tư pháp là một
trong những trọng tâm của công cuộc cải cách. Ngay trong Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ “Nâng cao chất
lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng
dân chủ với Luật sư, Người bào chữa và người tham gia tố tụng khác”.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược


11


cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng nhấn mạnh “Nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động
tư pháp”.
Đối với tất cả các nền tư pháp trên thế giới, hoạt động tranh tụng bao
giờ cũng gắn với hoạt động tài phán của Tòa án. Tòa án thực hiện chức năng
như một trọng tài có địa vị độc lập với các bên và có nhiệm vụ phân xử giữa
các bên có quyền và (hoặc) lợi ích trái ngược nhau. Tại phiên tòa, Tòa án tiến
hành xác định sự thật một cách công khai và chính thức về vụ án. Do vậy với
vai trò quan trọng đó của Tòa án tại phiên tòa, để thực hiện nhiệm vụ nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa có hiệu quả Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng đã xác định rằng: “Khi xét xử, các
toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực
sự dân chủ, khách quan … việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của Người bào chữa, bị cáo để ra những
bản án, quyết định đúng pháp luật... Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo
điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can,
nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà …”.
Phiên tòa là giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng, chỉ có đến giai
đoạn này thì mới có sự tập hợp đầy đủ các bên và đồng thời chỉ có thể thông
qua quá trình tranh luận công khai, minh bạch tại phiên tòa thì mọi tình tiết
của vụ án mới được làm sáng tỏ thông qua sự cọ xát về luận điểm của mỗi
bên. Cũng qua đó mà những chứng cứ đã được các bên thu thập theo quy định
của pháp luật được công khai phơi bày và kiểm chứng. Nếu tranh tụng tại
phiên tòa được các bên tham gia nghiêm túc thực hiện thì hiệu quả giải quyết
vụ án sẽ rất cao, khắc phục được việc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm, tình
trạng yếu kém của hệ thống tư pháp. Như vậy tranh tụng tại phiên tòa có giá


12


trị rất lớn trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Quán triệt
tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị,
trong các văn bản hướng dẫn, tài liệu tập huấn Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, tài liệu tập huấn cho các thẩm phán về kỹ năng xét xử của Tòa án nhân
dân tối cao, Báo cáo tổng kết phối hợp rút kinh nghiệm của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân các cấp… Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân vẫn thường xuyên nhắc nhở các cán bộ phải tiếp tục quán
triệt Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị và các quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003; việc phán quyết của tòa phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên xử.
Thời gian qua, nhất là sau khi Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị
và sau đó là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
được ban hành, đã có một số ý kiến cho rằng chúng ta cần phải chuyển
sang hệ thống tố tụng tranh tụng để việc xét xử được dân chủ và khác
quan hơn. Tuy nhiên quan điểm này không thu hút được nhiều ý kiến
đồng tình của các học giả và hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn của
hoạt động tố tụng nước ta. Bởi lẽ, với mục đích tăng cường tính công khai
và dân chủ nhằm bảo đảm và làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án,
vấn đề tranh tụng, nhìn từ mọi khía cạnh, từ lâu đã được quy định tro ng
pháp luật của Nhà nước ta và ngày càng được hoàn thiện. Mặt khác, nếu
chúng ta thực hiện việc chuyển đổi hoạt động tố tụng hình sự sang hệ tranh
tụng thì đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về hệ tố tụng, về nguyên tắc và thủ tục
tố tụng, về tổ chức các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử... Thực tế, Nghị
quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị tuy nhấn mạnh rất nhiều vấn đề tăng cường chất

13


lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, nhưng không hề đề cập tới việc
chúng ta sẽ chuyển sang hệ tố tụng tranh tụng. Hơn thế nữa các quan điểm chỉ
đạo cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh và khẳng định việc tiếp tục duy trì hệ
thống tố tụng thẩm vấn. Như vậy, hệ thống tố tụng hình sự ở nước ta hiện
nay thuộc về hệ thống tố tụng thẩm vấn, có đan xem những yếu tố của hệ
thống tố tụng tranh tụng. Cùng với việc nâng cao chất lượng xét xử của Tòa
án thì các Nghị quyết nói trên của Bộ Chính trị cũng đã đề cập đến việc nâng
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp
và bổ trợ tư pháp như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan giám định, tổ
chức Luật sư bởi chất lượng và hiệu quả của việc tranh tụng tại phiên tòa phụ
thuộc rất nhiều ở kết quả giám định, thu thập chứng cứ, điều tra và kiểm sát
hoạt động điều tra, hoạt động bào chữa gỡ tội...
Sau khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị,
Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã có văn bản gửi kèm Công văn số
13-CV/BCĐCCTP ngày 04/11/2002, trong đó đưa ra một số gợi ý về việc tổ
chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW. Trong đó
nêu rõ mục đích tổ chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08NQ/TW phải đảm bảo sự tôn nghiêm, dân chủ và văn minh của pháp luật, bảo
đảm phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đại
diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, của Người bào chữa, bị
cáo, người làm chứng, người bị hại, người giám định, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc
những người đại diện hợp pháp của họ, góp phần nâng cao chất lượng xét xử
của Tòa án, nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Các


14


bản án, quyết định của Tòa án phải đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai.
Cụ thể:
Yêu cầu của việc tổ chức phiên tòa: Đảm bảo tính uy nghiêm, tính công
bằng, dân chủ và nghiêm minh của pháp luật trên cơ sở thực hiện nghiêm túc
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, chú ý đảm bảo cho những người
tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Thể
hiện văn hóa pháp lý nơi xét xử thông qua Chủ tọa phiên tòa với vai trò người
điều khiển mọi hoạt động tố tụng tại phiên tòa phải công minh, không được
để cảm xúc cá nhân chi phối; đồng thời có biện pháp nhằm duy trì văn hóa
pháp lý trong phòng xử án. Chủ tọa và Hội đồng xét xử phải luôn luôn ý thức
được mình là nhân danh quyền lực Nhà nước để phán xét đối với bị cáo và
các đương sự khác. Khi nghị án phải đảm bảo đúng pháp luật và dựa trên kết
quả của quá trình xét xử, tránh hình thức. Bản án được viết ra nhất thiết phải
đánh giá xác thực những quan điểm, luận cứ của đại diện Viện kiểm sát giữ
quyền công tố tại phiên tòa, của bị cáo và Người bào chữa, nếu bác bỏ quan
điểm của bên nào thì phải có lập luận thuyết phục. Bản án được tuyên phải
làm cho người bị kết án "tâm phục, khẩu phục", phải có tính giáo dục đối với
người phạm tội và được những người đến dự phiên tòa đồng tình. Bên cạnh
đó, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp còn có những gợi ý về tổ chức phiên tòa như
cách xưng hô, trang phục của Hội đồng xét xử, có khu vực dành riêng cho báo
chí và có nơi cách ly người làm chứng, người bị hại, nơi quản lý bị cáo. Có
trang phục riêng đối với bị cáo đang bị tạm giam, có quy định về cách ăn mặc
của những người đến dự phiên tòa, lối đi của Kiểm sát viên và Hội đồng xét
xử phải khác nhau, thời điểm bước vào phòng xét xử cũng khác nhau, có cảnh
sát hỗ trợ tư pháp để bảo vệ trật tự và tôn nghiêm của Tòa án...
Cũng trong văn bản này, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp đã đưa ra

những gợi ý có tính chất định hướng đối với những người tham gia vào quá

15


trình tranh tụng cũng như những người tham dự phiên tòa khác. Theo đó Chủ
tọa - người điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa, phải đặt ra câu hỏi, xác
định những vấn đề để các bên tranh luận với nhau, hướng cho việc tranh luận
đi vào đúng vấn đề. Bên cạnh đó, Hội thẩm nhân dân cũng phải chủ động nêu
vấn đề để các bên tranh luận làm sáng tỏ nội dung sự việc. Mọi hành vi tố
tụng phải theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bên tranh luận có
quyền yêu cầu bên kia giải thích những vấn đề chưa rõ, Chủ tọa phiên tòa
phải là người quyết định bên bị yêu cầu có phải trả lời yêu cầu đó hay không.
Đối với đại diện Viện kiểm sát phải bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát truy
tố bị cáo tại phiên tòa, chứng minh mọi luận điểm trong cáo trạng bằng việc
chủ động xét hỏi, thẩm vấn cùng Hội đồng xét xử và chú ý đưa ra những
chứng cứ để chứng minh tội phạm. Những chứng cứ gián tiếp phải đi sâu xem
xét tính lôgíc, sự liên hệ bên trong với các chứng cứ khác. Chú ý kiểm tra tính
có căn cứ và hợp pháp của chứng cứ mới phát sinh tại phiên tòa. Nếu tại
phiên tòa phát hiện được nhiều tình tiết mới khác với nội dung cáo trạng thì
phải giải quyết theo pháp luật tố tụng hình sự quy định, không được bỏ qua
những tình tiết đó. Lời luận tội phải trên cơ sở đánh giá tổng hợp các chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ đã kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa.
Kiểm sát viên - Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa
phải tranh luận, làm rõ cả những ý kiến, lời bào chữa của bị cáo, của Luật sư
hoặc của Người bào chữa khác và những người tham gia tố tụng khác, nhất là
trong trường hợp những ý kiến đó khác nhau. Phải đảm bảo việc tranh luận
thật sự bình đẳng, dân chủ, xác định sự thật của vụ án một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ.
Đối với Người bào chữa: được tự do tranh luận. Nếu được chủ tọa

phiên tòa đồng ý, Người bào chữa có thể đặt câu hỏi, phản đối câu hỏi với
những người tham gia tố tụng khác và những người được hỏi có trách nhiệm

16


trả lời trực tiếp. Khi được sự ủy quyền của người mình bào chữa, Luật sư có
quyền trả lời mọi câu hỏi chất vấn của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công
tố tại tòa.
Ngoài ra, trong gợi ý còn nêu rõ đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa
có quyền quyết định ngay việc thay đổi mức án đề nghị và thay đổi tội danh
cho phù hợp với những gì mà diễn biến phiên tòa đem lại, tránh trường hợp
chỉ nghĩ nhiệm vụ của mình tại phiên tòa là giữ nguyên quan điểm của cáo
trạng. Cáo trạng chỉ xuất phát từ những chứng cứ có trong giai đoạn điều tra.
Những vấn đề diễn ra trong phiên tòa mới là quan trọng và Kiểm sát viên
không nhất thiết phải bảo vệ quan điểm luận tội trong cáo trạng. Chỉ khi gặp
trường hợp phức tạp và tình tiết mới đặc biệt thì đại diện Viện kiểm sát giữ
quyền công tố mới nên xin hoãn phiên tòa để xin ý kiến chỉ đạo. Hoặc khi có
thay đổi đột xuất, Kiểm sát viên có quyền quyết định thay đổi quan điểm luận
tội ngay tại phiên tòa rồi mới báo cáo sau, Kiểm sát viên là người chịu trách
nhiệm về kết luận vụ án đó chứ không phải là người ký cáo trạng.
Triển khai việc thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, ngày
05/11/2002 Tòa án nhân dân tối cao đã có Kết luận số 290 về cuộc hội thảo
"Tranh tụng tại phiên tòa hình sự". Theo đó, để phục vụ cho quá trình tranh
tụng tại phiên tòa hình sự cần phải làm tốt ngay từ giai đoạn chuẩn bị xét xử,
cụ thể là phải nghiên cứu hồ sơ, dự kiến tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa,
trao đổi với Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về kế hoạch xét hỏi (đề cương
thẩm vấn), bàn các biện pháp triệu tập đầy đủ những người tham gia tố tụng,
nhất là những người nếu không có mặt tại phiên tòa sẽ ảnh hưởng đến việc

xác định sự thật khách quan của vụ án. Đồng thời, trong kết luận cũng nêu rõ,
để đảm bảo khách quan khi xét hỏi Chủ tọa phiên tòa chỉ nên hỏi có tính chất
nêu vấn đề, còn lại những câu hỏi có tính chất buộc tội hoặc gỡ tội dành cho

17


Kiểm sát viên và Người bào chữa. Mặc dù quy định Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng
trong đó có Tòa án nhưng tại phiên tòa nhiệm vụ chứng minh tội phạm vẫn
chủ yếu thuộc về Kiểm sát viên, vì vậy Hội đồng xét xử không được có những
lời lẽ khẳng định hay phủ định bất cứ một vấn đề nào mà Kiểm sát viên,
Người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nêu ra, cũng không
được đánh giá, nhận xét đúng sai ngay tại phiên tòa. Để phần tranh luận diễn
ra được dân chủ, khách quan, Hội đồng xét xử phải chú ý lắng nghe những ý
kiến của Kiểm sát viên, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác tránh
định kiến sẵn, đặc biệt phải chú ý lắng nghe ý kiến của Luật sư, của bị cáo về
những ý kiến khác với lời luận tội của Kiểm sát viên. Nếu trong quá trình
tranh luận có những tài liệu chứng cứ mới được đưa ra bởi bất cứ ai thì Hội
đồng xét xử có thể coi đó là chứng cứ để xác định sự thật của vụ án nếu có đủ
cơ sở về tính khách quan, chân thực của chứng cứ. Nếu chưa đủ căn cứ thì trả
hồ sơ và nếu có cơ sở rằng chứng cứ đó là giả thì bác bỏ trong phần nhận định
của bản án. Trong trường hợp bị cáo không có Người bào chữa hoặc tuy có
Người bào chữa nhưng bị cáo thấy cần bào chữa bổ sung thì Chủ tọa phiên
tòa phải giải thích để bị cáo và những người tham gia tố tụng khác hiểu về
quyền được bào chữa của bị cáo và quyền được đưa ra yêu cầu. Khi có những
ý kiến phản bác đối với lời luận tội của Kiểm sát viên thì Chủ tọa phiên tòa
yêu cầu Kiểm sát viên phải có ý kiến phản bác, không để xảy ra trường hợp
Kiểm sát viên không tranh luận mà chỉ trả lời "vẫn giữ nguyên quan điểm đã
truy tố hoặc không có ý kiến gì tùy Hội đồng xét xử xem xét".

Trong bản án, chỉ những vấn đề đã được thẩm tra tại phiên tòa mới
được dùng làm căn cứ để nhận định, đánh giá, kết luận và quyết định. Vì vậy,
trong khi thảo luận và nghị án, để tránh sai sót, Hội đồng xét xử cần yêu cầu

18


Thư ký phiên tòa giao biên bản phiên tòa để đối chiếu xem các vấn đề đưa ra
thảo luận đã được thẩm tra tại phiên tòa chưa.
Cũng giống như một số gợi ý về tranh tụng của Ban chỉ đạo cải cách
tư pháp, Kết luận số 290 ngày 5/11/2002 của Tòa án nhân dân tối cao đã có
nhiều điểm quy định chi tiết, cụ thể về việc tranh tụng tại phiên tòa, tạo ra tiền
đề khá đầy đủ cho tranh tụng, nhưng kết luận này cũng chỉ mang tính chất
hướng dẫn đối với các Tòa án chứ chưa phải là có tính bắt buộc về mặt pháp
lý đối với những người tham gia vào quá trình tố tụng. Như vậy, có thể thấy
rằng, những định hướng được nêu ra trong gợi ý của Ban chỉ đạo cải cách tư
pháp, kết luận của Tòa án nhân dân tối cao về hội thảo tranh tụng tại phiên tòa
khi triển khai trên thực tế sẽ rất khó trong việc áp dụng đồng bộ và tuyệt đối.
Như vậy, những hướng dẫn của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp ngoài
những gợi ý mang tính chất định hướng chung chung, đã có nhiều điểm cụ thể
hóa nội dung tranh tụng tại phiên tòa, qua đó đưa ra những yêu cầu cụ thể với
những hành vi tố tụng cho quá trình tranh tụng, tạo ra được cơ chế khá hoàn
chỉnh cho việc tranh tụng tại phiên tòa, nhưng đáng tiếc là văn bản này chỉ
mang tính chất gợi ý mà không phải có giá trị bắt buộc như một văn bản luật,
và nó cũng đã không được cụ thể hóa tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ chính trị, Bộ luật tố tụng Hình sự
năm 2003 đã có những thay đổi trong đó có những thay đổi về tranh luận tại
phiên toà. Đây là một bước tiến trong việc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thể hiện sự bình đẳng hơn giữa Kiểm sát
viên và Người bào chữa.

Cũng có người cho rằng Nghị quyết 08 đề cao “tố tụng tranh tụng”
nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự lại chưa thể chế hóa được yêu cầu này khi vẫn
quy định về “tố tụng xét hỏi”. Như vậy có mâu thuẫn? Có cần phải sửa luật để
phiên tòa thật sự có tính tranh tụng. Theo tác giả, giữa Nghị quyết 08 và Bộ

19


×