Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Nợ công và sự tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế việt nam giai đoạn 2006-2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.87 KB, 53 trang )

1


2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Sô thứ tự

Chữ viêt tăt

Giải thích

1

ADB

Ngân hàng phát triên Châu Á

2

BTC

Bộ Tài Chính

3

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

4



GDP

Tổng sản phâm quốc nội

5

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tê

6

NHNN

Ngân hàng nhà nước

7

NSNN

Ngân sách nhà nước

8

ODA

Hỗ trợ phát triên chính thức

9


TPCP

Trái phiêu Chính phủ

10

WB

Ngân hàng thê giới


3

DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình nợ công giai đoạn 2006-2013.
Bảng 2.2: Tình hình trả nợ công giai đoạn 2006-2013. Đvt: tỷ VNĐ
Bảng 2.3: Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 -2013
Bảng 2.4: Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản giai đoạn 2011-2013
Biểu đồ 2.1: Nợ công giai đoạn 2003-2013
Biểu đồ 2.2: Một số chỉ tiêu kinh tế
Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng kinh tế việt nam giai đoạn 2006 đến 2013
Hình 2.1: Đồng hồ nợ công việt nam năm 2014
Hình 2.2: Cấu trúc nợ công năm 2011
Sơ đồ 1.1: cấu trúc nợ công theo quỹ tiền tệ IMF


4

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.



2.



3.

Bản tin nợ công, />
4.

Tạp chí kinh tế

5.

/>
6.

/>

5

LỜI MỞ ĐẦU
Việc vay nợ của một quốc gia giống cũng giống như một doanh nghiệp. Đó là
cách huy động vốn để phát triển quen thuộc trên thế giới. Trong kinh doanh, không ở
đâu có thể phát triển mà không vay mượn. Số liệu thống kê cho thấy những nước phát
triển mạnh như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc cũng là những con nợ kết xù. Nợ công
nhằm để phục các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác

nhau, chiếm một phần trong các khoản vay đó. Tuy nhiên trong thực tế các nước cho
thấy, việc vay nợ và chi tiêu lãng phí, sử dụng kém hiệu quả đồng tiền của Chính phủ
khiến cho nhiều nước lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ công ở các nước châu âu. Ví
dụ điển hình là Hy Lạp đây cũng là vấn đề thời sự được quan tâm đặt biệt ở Việt Nam.
Nhiều nhà nghiên cứu học nghiên cứu về ngưỡng nợ mà tại đó kinh tế đạt tối đa
khi vượt qua ngưỡng nợ đó thì nền kinh tế giảm sút từ đó đưa ra những biện pháp kiến


6

nghị cho quốc gia đó về vấn đề quản lý nợ công. Tuy nhiên mỗi nước lại có ngưỡng nợ
khác nhau.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thấp trong khi thâm hụt ngân sách lên đên đỉnh
điểm đã làm cho tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP nhảy vọt từ mức khoảng 42,9% năm
2008 lên đên 51,16% năm 2009, tức đã vượt qua ngưỡng nợ công vốn được xem là an
toàn trước đó là 50% GDP. Có vẻ mức nợ này chưa phải quá lớn đên mức đủ để cảnh
báo các nhà chức trách khi vẫn luôn có những trấn an rằng nợ vẫn đang “trong tầm
kiểm soát”. Điều đáng ngờ là ngưỡng nợ an toàn luôn được tịnh tiến lên trong khi thiếu
những giải trình có trách nhiệm. Mặc dù vậy, có một điều mà người ta không thể phớt
lờ là tỷ lệ nợ công đang tăng lên và tăng nhanh.
Trong đề án chuyên ngành này với đề tài: “Nợ Công và sự tác động của nó đến
tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006- 2013” sẽ đi sâu nghiên cứu một cách
logic, phản ánh được bản chất của vấn đề đặt ra.
Đề án gồm 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý thuyết về nợ công, tăng trưởng kinh tế và sự tác động nợ
công đến tăng trưởng kinh tế.
Phần 2: Thực trạng nợ công và tăng trưởng kinh tế việt nam và sự tác động
của nợ công đến tăng trưởng kinh tế việt nam giai đoạn 2006- 2013
Phần 3: Một số nhận xét và giải pháp hạn chế nợ công, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.

Có được bài đề án chuyên ngành này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của
giảng viên hướng dẫn Ths. Sử Thị Thu Hằng. Do thời gian tìm hiểu có hạn và còn
thiếu nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên bài viết của em sẽ không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy cô
để bài viết của em hoàn thiện hơn và giúp em củng cố được kiến thức của bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn.


7

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG, TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
SỰ TÁC ĐỘNG NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Cơ sở lý thuyết về nợ công
1.1.1. Khái niệm nợ công
 Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ công gồm nợ

của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Một số nước, nợ công còn bao gồm nợ
của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà
nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Macedonia…).
 Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB) nợ công là toàn bộ những khoản nợ của
chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh.Trong đó:
+

Nợ của chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của chính phủ và
các đại lí của chính phủ;các tỉnh thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc chính
phủ và các đại lí của các tố chức này, các doanh nghiệp nhà nước.

+

Nợ của Chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước ngoài của khu vực

tư nhân do chính phủ bảo lãnh.

 Theo quan điếm của quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) nợ công bao gồm nợ của khu vực tài


8

chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó:
+

Khu vực tài chính công gồm: Tố chức tiền tệ (ngân hàng trung ương, các tổ chức tín
dụng nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tố chức tín dụng không cho vay mà chỉ
có chức năng hỗ trợ phát triến).

+

Các tổ chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh thành phổ, các tổ chức chính
quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính nhà nước.

Khu vực công
Khu vực chính phủ
Khu vực các tổ chức công
Chính quyên liên bang
Chính quyền địa phương
Chính phủ trung ương
Các tổ chức công phi tài chính
Các tổ chức công tài chính
Ngân hàng TW
Các tổ chức nhà nước nhận tiền gửi (trừ ngân hàng TW)
Các tổ chức tài chính công khác



9

Sơ đồ 1.1: Cấu trúc nợ công theo quỹ tiền tệ IMF
 Tại Việt Nam, theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009 và có hiệu lực

từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và
nợ chính quyền địa phương”.
Cũng theo luật này:
+

Nợ chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký
kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do
Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ
chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành

nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
+ Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng
+

vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc


10

trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ
quyền phát hành.
 Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng

như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh
đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người thường chỉ nghĩ đến nợ Chính phủ khi
nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ phát hành 1 tỷ đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai
cũng biết nó được tính vào tổng nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp
ký kết một khoản vay 2 tỷ đô-la với một ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh
của Chính phủ, có thể có người vẫn nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công.
 Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”, là tổng các khoản

nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp và
tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả (Luật quản lý nợ công năm 2009).
Vốn vay từ ADB hay WB đương nhiên là nợ nước ngoài rồi nhưng một doanh nghiệp
vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô-la, chẳng hạn, dù có hay không có bảo lãnh
của chính phủ, thì khoản tiền đó vẫn phải tính vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia.


Thước đo nợ Chính phủ thường là phần trăm so với GDP. Nợ thường được tính tại
tùng thời kỳ, từng giai đoạn. So sánh tổng nợ nước ngoài với GDP là nhàm so sánh nợ
với những gì một quốc gia làm ra, để xác định khả năng trả nợ của quốc gia đó.



Thông thường, nợ công là hệ quả trực tiếp của thâm hụt ngân sách chính phủ và quy
mô nợ công đúng bàng quy mô thâm hụt ngân sách tích tụ qua các năm. về nguyên tắc,
đề bù đắp thâm hụt ngân sách, các chính phủ phải đi vay trong và ngoài nước chứ
không được phát hành tiền đề tránh nguy cơ xảy ra lạm phát cao. Tuy nhiên, nợ công ở
một số nước đang phát triển, chẳng hạn như Việt Nam, còn do chính phủ vay nợ để tài
trợ cho các dự án đầu tu- của mình (thường là các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng)
nên quy mô nợ công thậm chí còn cao hơn nữa. Nguồn để trả nợ công là các khoản thu
trong tương lai bao gồm cả thu ngân sách và thu từ các dự án đầu tư bằng nguồn vốn
vay (nếu có).

1.1.2. Phân loại nợ công


11

Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau
trong việc quản lý và sử dụng nợ công. Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có giải pháp
quản lý bảo đảm quy mô nợ phù hợp, qua đó sẽ chủ động tăng hay giảm nợ để tạo
nguồn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các tiêu chí để phân loại nợ công hiện nay
gồm:


Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay: Nợ công gồm có hai loại: Nợ trong nước
và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức trong nước.
Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ
chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Việc phân loại này giúp xác
định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Việc quản lý nợ nước ngoài
còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ
tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.



Theo phương thức huy động vốn: Nợ công có hai loại: Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp
và Nợ công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát
từ những thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ
chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở
tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà nước. Nợ công từ công cụ nợ là
khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hành các công
cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô
danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.




Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công: Nợ công có ba loại: Nợ
công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.



Theo trách nhiệm đối với chủ nợ: Nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ
công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa
phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách
nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có
nghĩa vụ trả nợ.



Theo cấp quản lý nợ: Nợ công được phân loại thành Nợ công của trung ương và Nợ


12

công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính
phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính
quyền địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ.
1.1.3. Đặc trưng nợ công
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp, khác nhau, nhưng về cơ bản, nợ công có
những đặc điểm chủ yếu sau:


Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới

hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả nợ gián tiếp. Trả nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó cơ quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả
nợ khoản vay. Trả nợ gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra
bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được
nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh.



Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền nhằm đảm bảo hai mục đích: Đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử
dụng vốn vay (đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô) và an ninh tài chính quốc gia; Để
đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý nợ
công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị xã hội.



Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn
những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của cộng
đồng.
1.1.4. Bản chất nợ công
Vay nợ là một cách huy động vốn cho phát triển. Bản chất nợ không phải là xấu.
Nợ đem lại rất nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế của các nước đi vay. Những nền
kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. cũng chính là những con nợ
lớn. Nợ công có nhiều tác động tích cực, nhưng cũng có không ít tác động tiêu cực.
Tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
Thứ nhất, nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn


13


vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Muốn
phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với
chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để
đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế;
Thứ hai, nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư.
Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay
nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế
cho cả khu vực công lẫn khu vực tư;
Thứ ba, nợ công tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính
quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan trọng
của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn
hợp tác kinh tế song phương. Biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều
nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích đối tác,
đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước.
Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực:
Nợ công gia tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ
ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo và thiếu cơ chế giám sát chặt
chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công sẽ dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí tràn
lan. Tình trạng này làm thất thoát các nguồn lực, giảm hiệu quả đầu tư và điều quan
trọng hơn là giảm thu cho ngân sách. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực
nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây
dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân sách.
Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu thuế
tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh
thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh
thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động
chi ngân sách. Tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về mức độ an toàn



14

hay rủi ro của nợ công. Mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ
1.1.5. Các chỉ tiêu quản lý đánh giá về nợ công
Khi xét đến nợ công, không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả
mà phải quan tâm nhiều tới rủi ro và cơ cấu nợ, vấn đề quan trọng phải tính là khả năng
trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP. Hiện nay,
tiêu chí phổ biến để đánh giá mức an toàn của nợ công được áp dụng cụ thể là:
Giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP hoặc không vượt quá 150%
kim ngạch xuất khẩu. WB đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP.
Dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ
của Chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế không có
hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải tỷ lệ nợ công/GDP thấp là
trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình
trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Để đánh giá đúng mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ
nợ/GDP, mà cần phải xem xét nợ một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng
hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết
kiệm nội địa và mức đầu tư xã hội. Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công,
tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ. cũng cần được xem xét khi đánh
giá bản chất nợ công, tính bền vững của nợ công. Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa
giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả
bên trong và bên ngoài.
Tóm lại, việc đánh giá đúng thực trạng nợ công và bản chất nợ công của nền kinh
tế, quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ,
nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng
tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới
đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên

bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn


15

mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như
thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào., cũng
dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách, tác động tiêu cực đến tăng
trưởng.
1.2. Cơ sở lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Ngày nay để đánh giá sự tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của một quốc gia
thường dựa trên hai mặt: sự gia tăng về mặt kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội, người
ta thường dùng hai thuật ngữ tăng trưởng và phát triển để phản ánh sự tiến bộ này.
Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm về quy mô, sản
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, đó là kết quả của tất cả mọi hoạt
động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy để biểu thị sự tăng trưởng kinh
tế người ta dùng mức tăng lên tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình
quân đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước. Tăng trưởng kinh tế được thể
hiện trên hai mặt: mức tăng tuyệt đối hay mức tăng % hàng năm hoặc bình quân trong
một giai đoạn.
Sự tăng trưởng được so sánh theo thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất
định sẽ cho ta tốc độ tăng trưởng.
1.2.2. Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng của nền kinh tế được biểu hiện ở sự tăng thêm sản lượng hàng năm
do nền kinh tế tạo ra. Do đó thước đo giá trị của sự tăng trưởng thường là các đại lượng
sau: tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc
dân (GNI), sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP), thu nhập quốc dân sản xuất (NI), thu
nhập quốc dân sử dụng (NDI), thu nhập bình quân đầu người (GDP/người).
Trong các chỉ tiêu này thì GDP là chỉ tiêu được sử dụng nhiều nhất. Để đánh giá

tăng trưởng, có thể dùng chỉ tiêu mức tăng trưởng hoặc tỷ lệ tăng trưởng:
Mức tăng trưởng là chênh lệch về giá trị thu nhập của nền kinh tế năm sau so với
năm trước đó, thường dùng để đánh giá quy mô gia tăng của sản xuất và dịch vụ trong
nền kinh tế qua các năm.


16

Tốc độ tăng trưởng là một chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng tương đối, để đánh giá
thực trạng tăng trưởng kinh tế so với chỉ tiêu kế hoạch đặt ra hoặc so sánh giữa các
nước với nhau hay giữa các thời kỳ khác nhau. Người ta còn sử dụng con số tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân để đánh giá hoặc lập kế hoạch mục tiêu tăng trưởng cả
một thời kỳ dài.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh
tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
Trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô
kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP
(hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực
tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng
kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
Tăng trưởng kinh tế là một chỉ tiêu quan trọng, phản ánh mặt số lượng của
phát triển kinh tế, là tiền đề phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh
trình độ mở rộng quy mô sản lượng nâng cao tiềm lực sản xuất của nền kinh tế, khả
năng nâng cao mức sống của nhân dân, năng lực tích luỹ cho đầu tư sản xuất.
Tăng trưởng kinh tế có liên quan đến nhiều mặt tái sản xuất xã hội như sản lượng,
việc làm, giá cả, lạm phát, sự biến đổi cơ cấu kinh tế…, và là điều kiện không thể thiếu
để cải thiện đời sống nhân dân nâng cao chất lượng cuộc sống. Chính vì vậy tất cả mọi

người đều mong muốn nền kinh tế tăng trưởng do đó đất nước ta đã sử dụng kế hoạch
tăng trưởng để đề ra mục tiêu và giải pháp thực hiện tăng trưởng.
1.3. Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
1.3.1. Nợ công lớn làm giảm tích lũy vốn tư nhân dẫn đến hiện tượng thoái lui đầu
tư tư nhân
Khi chính phủ tăng vay nợ, đặc biệt là vay trong nước, lúc này mức tích lũy vốn
tư nhân sẽ được thay thế bởi tích lũy nợ chính phủ. Thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp hay gửi tiết kiệm ngân hàng, dân chúng lại sở hữu trái phiếu chính phủ


17

làm cho cung về vốn giảm trong khi cầu tín dụng của chính phủ lại tăng lên, từ đó đẩy
lãi suất tăng, chi phí đầu tư tăng và có thể dẫn đến hiện tượng “thoái lui đầu tư” khu
vực tư nhân
1.3.2. Nợ công làm giảm tiết kiêm quốc gia
Thu nhập quốc gia (Y) được xác định tương đương với tổng sản lượng quốc dân
(GDP) Theo công thức: Y = C + S + T = C + I + G + NX = GDP (1)
Trong đó: Y: Thu nhập quốc gia; C: Tiêu dùng tư nhân; S: tiết kiệm tư nhân; T:
thuế trừ đi các khoản thanh toán; I: Đầu tư nội địa, G: Chi tiêu của chính phủ, NX:
Xuất khẩu ròng.
Như vậy: S + (T-G) = I + NX (2) Hay: T- G = I + NX - S (3)
Phương trình (3) chỉ ra rằng, khi ngân sách nhà nước thâm hụt (T-G<0) tức I +
NX < S, như vậy, những khả năng có thể xảy ra là: Tiết kiệm tư nhân (S) tăng, đầu tư
nội địa (I) giảm và xuất khẩu ròng (NX) giảm. Khi chính phủ tăng vay nợ để bù đắp
thâm hụt, chúng ta lần lượt xem xét những khả năng này có thể xảy ra và sự tác động
của nó đến tiết kiệm quốc gia:
(1) Tiết kiệm tư nhân tăng (S): Trong thực tế, một số nhà kinh tế học lập luận
rằng, tiết kiệm tư nhân sẽ tăng chính xác bằng lượng giảm của tiết kiệm của chính phủ.
Tuy nhiên trong trường hợp này, chúng ta tạm thời giả định tiết kiệm tư nhân tăng ít

hơn phần tiết kiệm của chính phủ giảm,chính vì vậy mà tiết kiệm quốc gia giảm.
(2) Đầu tư nội địa giảm (I): Đầu tư nội địa giảm dẫn đến đầu ra là tổng vốn
nội địa giảm. Lượng vốn ít, lãi suất tăng, chi phí biên của sản phẩm trên mỗi đồng vốn
sẽ cao hơn, năng suất lao động sụt giảm, từ đó làm giảm mức lương và thu nhập trung
bình dẫn đến giảm tiết kiệm quốc gia.
(3) Xuất khẩu ròng giảm (NX): Khi chính phủ tăng vay nợ, lãi suất trong
nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào
trong nước tăng khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm cho giá của hàng hóa sản xuất
trong nước đắt hơn hàng hóa nước ngoài, trở nên kém cạnh tranh hơn trên thị trường
quốc tế, từ đó giảm xuất khẩu ròng.


18

Xuất khẩu ròng giảm, đầu tư nước ngoài giảm có nghĩa rằng người dân nội địa sẽ
sở hữu ít vốn nước ngoài hơn. Trong trường hợp này, thu nhập ngựời dân nội địa sẽ
giảm, tiết kiệm quốc gia giảm. Giảm xuất khẩu ròng cũng là một trong những nhân tố
dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại.
1.3.3. Nợ công tạo áp lực gây lạm phát
Lạm phát được tạo ra do hai nguyên nhân chính: Do tổng cầu tăng lên hoặc do chi
phí đẩy. Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một mặt làm tiêu dùng của
chính phủ tăng lên, một mặt sẽ tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao.
Khi tăng vay nợ trong nước, lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành
và giá bán sản phẩm. Bên cạnh đó lãi suất tăng, người nắm giữ trái phiếu chính phủ
cảm thấy mình trở nên giàu có hơn và có thể tiêu dùng nhiều hơn. Tiêu dùng tư nhân
tăng, chi tiêu công của chính phủ tăng dẫn đến cầu hàng hóa, dịch vụ tăng, tạo áp lực
lạm phát trong ngắn hạn, từ đó tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng thực của nền
kinh tế (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
Khi chính phủ tăng vay nợ nước ngoài, một dòng ngoại tệ lớn sẽ chảy vào trong
nước có thể giảm sức ép cân đối ngoại tệ trong ngắn hạn. Về mặt dài hạn, áp lực trả nợ

cả gốc và lãi bằng ngoại tệ sẽ đẩy cầu ngoại tệ tăng lên, đồng nội tệ giảm giá làm tăng
chi phí đầu vào khi nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, thiết bị... dẫn tới nguy cơ lạm
phát. Tỷ giá tăng làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, nếu vượt quá sức chịu
đựng của ngân sách sẽ dẫn đến nguy cơ vỡ nợ.
1.3.4. Nợ công làm méo mó các hoạt động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội
Nếu vay nước ngoài, nguồn để trả nợ cả gốc và lãi chỉ có thể lấy từ các khoản thu
thuế. Ngựời dân phải chịu một khoản thuế cao hơn trong tương lai để trả lãi cho các
đối tượng ngoài quốc gia sẽ làm giảm thu nhập, giảm tiêu dùng... từ đó giảm chất
lượng cuộc sống.
Vay trong nước có thể được coi là ít tác động hơn bởi lý do chính phủ nợ chính
công dân nước mình và cũng chính họ là người được hưởng thụ các lợi ích do các
khoản chi tiêu công tạo ra. Tuy nhiên, ngay cả khi một người bị đánh thuế để trả lãi cho


19

chính họ do đang sở hữu trái phiếu chính phủ thì vẫn có những tác động khiến cho các
hoạt động kinh tế của người đó bị bóp méo. Dù cho Chính phủ dùng loại thuế nào (thuế
thu nhập, thuế tiêu dùng, thuế tài sản.), đánh thuế dưới hình thức nào (trực tiếp, gián
tiếp) cũng sẽ dẫn đến những sai lệch trong các hoạt động kinh tế của một cá nhân như
thay đổi hành vi tiết kiệm, tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế vi mô,
vĩ mô khác như: sản xuất, việc làm... Bên cạnh đó, việc tăng thuế để trả lãi vô hình
chung đã tạo ra sự phân phối lại thu nhập giữa những ngựời nộp thuế và ngựời sở hữu
trái phiếu chính phủ, theo đó người nộp thuế chắc chắn phải gánh chịu sự suy giảm về
thu nhập, tiêu dùng hoặc tiết kiệm.
1.3.5. Những tác động khác
Bên cạnh những tác động về mặt kinh tế, một quốc gia với khoản nợ công lớn có
thể phải đối mặt với những hệ quả khác do nó gây ra như: Làm thay đổi quy trình quản
lý Nhà nước do phải thay đổi chính sách tài chính quốc gia để trang trải các khoản nợ;
làm tổn hại đến hệ số tín nhiệm quốc gia; nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc

lập về chính trị hoặc khả năng lãnh đạo quốc gia... Các quốc gia phải chịu sức ép từ
phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về việc phải thắt chặt chi tiêu, tăng thuế,
giảm trợ cấp xã hội, và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể chế, thay đổi bộ
máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế... Ngoài ra, việc lệ thuộc quá nhiều vào
các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối quan
hệ song phương, đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
1.4. Các nghiên cứu về nợ công tác động đến tăng trưởng kinh tế:
“Nợ công và tăng trưởng kinh tế toàn cầu” (của Manmohan S. Kumar và Jaejoon
Woo) – (IMF Working paper - Public Debt and Growth, Manmohan S. Kumar and
Jaejoon Woo 07-2010): Sự gia tăng nhanh chóng trong nợ công ở những quốc gia phát
triển là một bằng chứng dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu. Mức
độ nợ công lớn có thể tác động bất lợi lên mức tích lũy vốn, năng lực sản xuất và làm
giảm tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể xảy ra thông qua mức lãi suất dài hạn cao
hơn, hệ thống thuế trong tương lai bị méo mó, lạm phát cao… Nếu tăng trưởng kinh tế


20

bị tác động bất lợi, thì vấn đề bền vững tài chính có thể trở nên tồi tệ. Điều này làm gia
tăng rủi ro của các nỗ lực điều hành chính sách tài khóa nhằm giảm các khoản nợ
xuống mức bền vững hơn.
Cụ thể: bình quân, một sự gia tăng 10 điểm% trong tỷ lệ nợ/GDP đầu kỳ đi kèm
với một sự sụt giảm trong tăng trưởng GDP thực / người hàng năm:
+ Khoảng 0.2 điểm % mỗi năm đối với nhóm nước tiên tiến.
+ Khoảng 0.15 điểm % mỗi năm đối với nhóm nước mới nổi.
Một nghiên cứu tiên phong được xây dựng bởi Reinhart và Rogoff (2010) dựa
trên số liệu quan sát của 44 nền kinh tế tiến bộ và mới nổi cùng số liệu thống kê trong
khoảng hai thế kỷ đã đưa ra các ngưỡng nợ cơ bản nhất, thu hút được rất nhiều sự quan
tâm của giới kinh tế cũng như các nhà hoạch định chính sách. Cụ thể hơn, mối quan hệ
giữa tỉ lệ nợ công, tăng trưởng và lạm phát được phân tích dựa trên hơn 3700 số liệu

định kỳ hàng năm về hệ thống chính trị, thể chế, những thay đổi về tỉ giá cũng như hệ
thống tiền tệ, và các điều kiện lịch sử khác. Kết quả chỉ ra rằng ngưỡng nợ nguy hiểm
là 90% GDP, khi các quốc gia có mức nợ công vượt quá con số này, tăng trưởng kinh
tế sẽ bắt đầu suy giảm. Tuy nhiên, các tác giả lại không cho rằng có một mối quan hệ
chắc chắn giữa việc nợ công cao có thể dẫn đến lạm phát đối với các nền kinh tế tiến
bộ. Còn đối với các nền kinh tế mới nổi, lạm phát thường leo thang mạnh khi nợ công
gia tăng.
Reinhart và Rogoff cũng phân tích thêm dựa trên những số liệu kể từ sau khủng
hoảng về nợ nước ngoài, bao gồm cả nợ công và nợ tư. Do các nền kinh tế tiến bộ
thường không phụ thuộc nhiều vào các khoản vay nước ngoài, nên nghiên cứu này chỉ
tập trung vào các nền kinh tế mới nổi. Kết quả chỉ ra rằng, khi dư nợ nước ngoài chạm
mức 60% GDP, tăng trưởng kinh tế sẽ bắt đầu suy giảm 2%, và nếu như vượt quá 90%
GDP, mức tăng trưởng sẽ giảm một nửa.
Một nghiên cứu khác của Caner, Grennes và Koehler-Geib (2011) tiếp tục đi sâu
phân tích thêm về ngưỡng nợ nguy hiểm. Nghiên cứu này sử dụng số liệu nhiều hơn so


21

với nghiên cứu của Reinhart và Rogoff, bao gồm các số liệu về nợ công, tăng trưởng,
độ mở của nền kinh tế, lạm phát và GDP trong thời kỳ trước của 101 quốc gia (75 đang
phát triển và 26 đã phát triển) trong giai đoạn 1980-2008, đồng thời sử dụng mô hình
kinh tế lượng. Kết quả cho thấy ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình cho tất cả các quốc
gia đã được lấy số liệu là 77% GDP, vượt qua ngưỡng này tăng trưởng kinh tế bắt đầu
suy giảm. Bên cạnh đó, áp dụng tương tự mô hình cho nhóm các quốc gia đang phát
triển thì con số này là 64% GDP.

PHẦN 2: THỰC TRẠNG VỀ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2013



22

Nguồn
Hình 2.1: Đồng hồ nợ công việt nam năm 2014
Theo bản đồ nợ của The Economist, chỉ số nợ chi tiết của Việt Nam năm 2014 là
53.420.415.517.059 USD (53,4 tỷ USD), chiếm 47.8% GDP. Điều này có nghĩa là với
dân số 90.6 triệu, mỗi người Việt Nam gánh 901.29 USD nợ công.
Cũng theo thống kê này, kể từ năm 2001 đến nay, số nợ trên đầu người của Việt
Nam ngày càng tăng. Hồi 2001, tỷ lệ nợ công trên GDP tương đương 26,6% và nợ
công đầu người chỉ là 106 USD.
2.1. Thực trạng nợ công giai đoạn 2006-2013
2.1.1. Cơ cấu nợ công
Tổng số dư nợ công đến ngày 31/12/2013 ở mức 1.913 nghìn tỷ đồng, bằng
53,4% GDP. Trong đó dư nợ Chính phủ ở mức 1.488 tỷ nghìn đồng, bằng 41,5% GDP.


23

Cũng tính đến cuối năm 2013, tổng số dự án được cấp bảo lãnh vay nước ngoài là
104 dự án, trong đó có 23 dự án đã kết thúc trả nợ, còn 81 dự án vẫn đang trong giai
đoạn được bảo lãnh.
Các dự án này chủ yếu thuộc các lĩnh vực điện, hàng không, xi măng, dầu khí…
Tổng số vốn vay nước ngoài được bảo lãnh Chính phủ giải ngân trong năm 2013
là 52.340 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2012, Bộ trưởng Dũng cho biết.
Vẫn theo báo cáo, tổng trị giá vốn vay được bảo lãnh Chính phủ đang có xu
hướng tăng nhanh, năm sau cao hơn năm trước và đạt mức tăng bình quân gần
50%/năm.
Phần chi trả nợ của Chính phủ trong cân đối ngân sách năm 2013 ước đạt 103.700
tỷ đồng, theo Chính phủ vẫn đảm bảo trong giới hạn quy định của Việt Nam là dưới

25% thu ngân sách nhà nước và nằm trong giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế.
Một khó khăn được Chính phủ nhìn nhận là dư nợ công tăng nhanh qua các năm.
So với năm liền trước thì dư nợ công năm 2011 tăng 24,8%, năm 2012 tăng 17%, và
năm 2013 tăng 17,4%.
Hiện nay, vốn vay chủ yếu là để bổ sung cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước ngày càng gia tăng, chiếm khoảng 30% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, song
hiệu quả đầu tư chưa cao (ICOR năm 2013 ở mức 5,62), Bộ Tài chính phân tích.
Con số cụ thể là quỹ tích luỹ trả nợ phải ứng ra trả thay cho các dự án có xu
hướng tăng lên trong các năm gần đây, năm 2010 là 1.676 tỷ đồng; năm 2011 là 2.437
tỷ đồng; năm 2012 là 2.588 tỷ đồng và năm 2013 là 3.072 tỷ đồng.
Ngoài ra, hiện nay Việt Nam đã bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình
thấp, nên huy động vốn vay ODA đang có xu hướng giảm dần với thời hạn ngắn hơn,
lãi suất cho vay tăng lên dẫn đến nghĩa vụ trả nợ công, nợ Chính phủ có xu hướng gia
tăng.
Các điều khoản ưu đãi của ODA đă giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ công;
tuy nhiên, các khoản vay ưu đãi lại thường đi kèm với các điều khoản có liên quan đến
những ràng buộc về chính trị và kinh tế khác. Nợ càng nhiều, ràng buộc về kinh tế,


24

chính trị cũng lớn hơn. Khủng hoảng nợ Argentina (2001) và sự bất ốn của Hy Lạp
hiện nay là minh chứng điển hình cho tác động tiêu cực của nguồn nợ công từ nước
ngoài.
Nợ chính quyền địa phương chủ yếu là vay nợ đế đầu tư xây dựng cơ bản theo
Luật Ngân sách nhà nước 2002. Mức dư nợ phát hành trái phiếu của chính quyền địa
phương hiện nay vẫn ở mức thấp, hiện khoảng 0,6% GDP. Mức dư nợ của chính quyền
địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của Luật Ngân sách nhà nước, không quá
30% tống chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của các địa phương.
2.1.2. Quy mô nợ công 2006 đến năm 2013


Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Biểu đồ 2.1: Nợ công giai đoạn 2003-2013
Là một nước đang phát triển, vay nợ nhiều là điều tất nhiên đối với Chính phủ
Việt Nam. Tỷ lệ Nợ công/GDP của nước ta không quá cao cũng không quá biến động
so với mức an toàn được thừa nhận chung là 60%. Tuy nhiên, khi phân tích sâu hơn, sẽ
thấy một số vấn đề bất cập trong tình hình nợ công Việt Nam. So sánh với các nước


25

trong khu vực và một số nước có cùng trình độ phát triển, tỷ lệ nợ công của nước ta là
khá cao.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nổ ra tháng 9/2008 đang chồng chất lên vai
các quốc gia gánh nặng nợ nần do họ phải đi vay để chi tiêu và cứu trợ kinh tế. Hy Lạp
đứng trước nguy cơ vỡ nợ, nhiều nước trong khu vực đồng euro cũng nợ ở mức báo
động. Mức nợ công của Việt Nam cũng sắp xấp xỉ ở mức nợ tối thiểu tính theo GDP
đối với các thành viên thuộc khu vực euro.
- Theo Bảng xếp hạng nợ công của nhiều tổ chức tài chính quốc tế thì năm 2008,
nợ công của Việt Nam tương đương 49.6% GDP, đứng vị trí thứ 44 về nợ công trong
tổng số gần 200 nền kinh tế được xếp hạng. So với nhiều nước khác, kể cả so với
những nền kinh tế hàng đầu thế giới, như Mỹ (nợ công tương đương 53% GDP), Nhật
Bản (192% GDP, năm 2010 đã lên 227% GDP), Ý (115% GDP), Pháp (80% GDP),
Đức (77% GDP)…, nợ công của Việt Nam có vẻ như là khá an toàn.
- Nợ công đến cuối năm 2009 của Việt Nam khoảng 52.90%GDP, trong đó nợ do
Chính phủ vay là 35,4% GDP, nợ được Chính phủ bảo lãnh là 7,9% GDP và nợ của
chính quyền địa phương là 1,4% GDP.
-

Đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng 44,6% GDP và tổng nợ công

đã vượt quá 50% GDP. Theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro
thấp của nợ nước ngoài nhưng cần lưu ý rằng khoản nợ này chưa tính đến nợ của các
doanh nghiệp nhà nước không được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề ở đây không
chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc độ của nợ nước ngoài và nợ công của
Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng mạnh. Nếu năm 2001, nợ công đầu người là
144 USD thì đến năm 2010 lên tới 600 USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng
18%. Nợ công tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công
thấp đặt ra những lo ngại về tính bền vững của nợ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều
này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường quản lý và giám sát nợ công

-

một cách chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt Nam.
Năm 2011, tỷ lệ nợ công Việt Nam là 54.9% GDP, trong khi đó, tỷ lệ này ở một số


×