Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Thực tiễn áp dụng luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.59 KB, 102 trang )

đại học quốc gia Hà nội
khoa luật
--------------

lê thị hồng anh

thực tiễn áp dụng
Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993

Luận văn thạc sỹ luật học
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số:

5.05.15

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: ts. d-ơng đăng huệ
Phó Vụ tr-ởng Vụ pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ T- pháp

Hà nội - 2002


-1-

MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu .............................................................................................................. 3
Chương 1
Luật Phá sản Doanh nghiệp - cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho quá trình giải quyết
phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam ........................................................................... 6
1.1. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường ...................................6
1.1.1. Pháp luật phá sản bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích của các chủ nợ và của chính


bản thân doanh nghiệp mắc nợ ................................................................................... 6
1.1.2. Pháp luật phá sản góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động trong các
doanh nghiệp bị phá sản..................................................................................................8
1.1.3. Pháp luật phá sản góp phần vào việc tổ chức lại nền kinh tế ...............................9
1.1.4. Pháp luật phá sản góp phần vào việc bảo đảm trật tự, kỷ cương của xã hội ........9
1.2. Vai trò chủ đạo của Luật Phá sản DN trong hệ thống pháp luật về phá sản .........10
1.2.1. Đối tượng áp dụng Luật Phá sản ..........................................................................11
1.2.2. Khái niệm tình trạng phá sản ...............................................................................11
1.2.3. Địa vị pháp lý của các chủ thể giải quyết phá sản ...............................................13
1.2.4. Thủ tục giải quyết phá sản ...................................................................................20
Chương 2
Thực tiễn áp dụng Luật Phá sản Doanh nghiệp và những tồn tại, vướng mắc trong
quá trình áp dụng ........................................................................................................26
2.1. Khái quát chung quá trình áp dụng Luật Phá sản DN trong thời gian qua ...........26
2.1.1. Thực tế giải quyết phá sản doanh nghiệp ở nước ta .............................................26
2.1.2- Đánh giá quá trình áp dụng Luật phá sản Doanh nghiệp .....................................38
2.2- Những vướng mắc cơ bản được rút ra từ quá trình áp dụng Luật Phá sản DN .....43
2.2.1. Vướng mắc trong các qui định liên quan đến nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp ...................................................................................................................43
2.2.2- Vướng mắc trong các qui định liên quan đến thụ lý đơn và mở thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ................................................................................49
2.2.3. Vướng mắc trong các qui định liên quan đến Tổ quản lý tài sản .........................53
2.2.4- Vướng mắc trong các qui định liên quan đến thẩm quyền của Thẩm phán trong việc
giải quyết khiếu nại về danh sách chủ nợ .......................................................................54
2.2.5- Vướng mắc trong các qui định liên quan đến Hội nghị chủ nợ ............................55
2.2.6. Vướng mắc trong các qui định liên quan đến tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp .........................................................................57
2.2.7- Vướng mắc trong các qui định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời ...........................................................................................................................59
2.2.8- Vướng mắc trong các qui định liên quan đến phương án phân chia giá trị tài sản còn

lại của doanh nghiệp .......................................................................................................60
2.2.9. Vướng mắc trong các quy định liên quan đến việc thi hành quyết định tuyên bố phá
sản doanh nghiệp ............................................................................................................62
Chương 3
Một vài kiến nghị về mặt pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng Luật Phá
sản ...................................................................................................................................66
3.1. Về những quy định chung ........................................................................................67
3.1.1. Cần phải mở rộng phạm vi áp dụng của Luật Phá sản..........................................67
3.1.2. Cần xác định lại dấu hiệu của tình trạng phá sản..................................................68
3.1.3. Cần quy định những thủ tục tố tụng phá sản khác nhau để giải quyết con nợ lâm vào
tình trạng phá sản ............................................................................................................72


-2-

3.1.4. Cần quy định thống nhất về cơ quan có thẩm quyền quyết định yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp và giải quyết khiếu nại, kháng nghị ...................................................73
3.1.5. Cần có quy định thừa nhận việc hòa giải tự nguyện giữa chủ nợ và con nợ ........73
3.2. Quy định về nộp đơn, thụ lý đơn ..............................................................................74
3.2.1. Quy định đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN 74
3.2.2. Quy định về tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu tuyên bố phá sản ........................75
3.2.3. Cần có sự quy định thống nhất về người đại diện của doanh nghiệp ...................77
3.2.4. Cần xác định thời điểm thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản ..............................77
3.3. Hoàn thiện một số quy định liên quan đến việc mở hay không mở thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản ................................................................................................77
3.3.1. Cần có quy định về gia hạn để ra quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản ................................................................................................78
3.3.2. Cần có thêm quy định về thẩm quyền thu thập các tài liệu, chứng cứ của Thẩm phán
để ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản ........78
3.3.3. Cần có thêm quy định về thẩm quyền của Thẩm phán để đình chỉ giải quyết yêu cầu

tuyên bố phá sản trong trường hợp quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản được phát hiện là không có đủ căn cứ ......................................................................78
3.4. Các quy định về giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản sau khi có quyết định mở thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản ...............................................................................79
3.4.1. Về thành phần của Tổ quản lý tài sản ...................................................................79
3.4.2. Về các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ....79
3.4.3. Cần bổ sung thêm một số trường hợp để tạm đình chỉ và đình chỉ giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản .............................................................................................................80
3.4.4. Cách thức giải quyết trường hợp Thẩm phán phát hiện dấu hiệu phạm tội trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản .......................................................................81
3.4.5. Quy định liên quan đến danh sách chủ nợ ............................................................81
3.4.6. Quy định về việc giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa các bên mà con nợ là một
trong các bên của tranh chấp đó......................................................................................81
3.4.7. Quy định về cách xử lý tài sản của con nợ khi phải thi hành các bản án của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật .......................................................................................................82
3.4.8. Quy định về Hội nghị chủ nợ ................................................................................83
3.4.9. Quy định lại nội dung quyết định tuyên bố phá sản .............................................83
3.4.10. Quy định về tài sản còn lại của con nợ và việc phân chia giá trị tài sản còn lại .83
3.4.11. Cần quy định trong Luật Phá sản thẩm quyển của Tòa án Nhân dân Tối cao trong
việc giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản ...................84
3.5. Các quy định về thi hành quyết định tuyên bố phá sản ...........................................84
3.5.1. Cần có sự phân định rõ thẩm quyền của các cơ quan trong việc thi hành quyết định
tuyên bố phá sản .............................................................................................................84
3.5.2. Quy định lại về thành phần của Tổ thanh toán tài sản ..........................................85
3.5.3. Bổ sung thêm nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên .....................................85
3.5.4. Quy định bổ sung vấn đề ủy thác thi hành quyết định tuyên bố phá sản ..............86
3.5.5. Quy định rõ việc tạm ứng chi phí cho công tác thi hành quyết định tuyên bố phá sản
........................................................................................................................................86
3.6. Luật Phá sản cần có những quy định liên quan đến việc giải quyết phá sản của những
doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh đặc thù .............................................................86

KẾT LUẬN ...................................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................92


-3-

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI (1986) đến nay đã đem lại những thành quả tốt đẹp, trong đó đổi
mới và phát triển doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản, trọng tâm nhất
khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Để các doanh nghiệp ngày càng nâng cao vai trò và hiệu quả của mình trong
điều kiện xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cở sở phát huy nội lực, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc đổi mới
hệ thống pháp luật mà trước hết là pháp luật kinh tế trở nên hết sức cấp bách và cần
thiết.
Sự ra đời của cơ chế kinh tế mới, một mặt tạo ra tiền đề tích cực cho sự
phát triển của nền kinh tế nhưng mặt khác cũng bộc lộ những mặt trái của kinh tế thị
trường. Do chịu sự tác động của quy luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, quy luật
giá trị ..., bên cạnh những doanh nghiệp đứng vững và không ngừng phát triển thì
một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp do năng lực quản lý kinh doanh kém và
do nhiều lý do khác nữa đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn, dẫn đến phá sản. Như vậy, phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội, là
một hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt. Có thể nói, phá
sản là một hiện tượng gắn với nền kinh tế thị trường. Nhờ có phá sản mà các mô
hình kinh doanh và quản lý yếu kém bị đào thải, các mô hình kinh doanh và quản lý
mới, hợp lý, phù hợp với các quan hệ kinh tế được hình thành và phát triển.
Với Việt Nam, phá sản và pháp luật về phá sản vẫn còn tương đối mới mẻ.
Luật Phá sản Doanh nghiệp mới được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993. Đạo

luật này ra đời đã đáp ứng phần nào yêu cầu của nền kinh tế thị trường để giải quyết
các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, tạo ra môi trường kinh doanh lành
mạnh cho các chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, về cơ bản, việc áp dụng những quy
định của Luật Phá sản Doanh nghiệp trong thực tế còn gặp quá nhiều khó khăn,
vướng mắc. Điều đó làm cản trở việc xử lý các doanh nghiệp có khó khăn về tài


-4-

chính, không thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Nhiều doanh nghiệp thực sự
đã lâm vào tình trạng phá sản nhưng nếu vận dụng các quy định cụ thể của Luật Phá
sản Doanh nghiệp thì lại không giải quyết được hoặc việc giải quyết bị kéo dài,
không triệt để. Thực tế con số doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì nhiều
nhưng số vụ việc mà Tòa án các địa phương thụ lý lại rất ít. Chúng ta có thể khẳng
định rằng, với yêu cầu của thực tiễn đặt ra hiện nay, Luật Phá sản Doanh nghiệp
chưa phát huy được chức năng điều chỉnh các quan hệ phá sản; do đó, đạo luật này
cần sớm được khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung, hoàn thiện. Chính vì
vậy, đề tài luận văn cao học "Thực tiễn áp dụng Luật Phá sản Doanh nghiệp năm
1993" là đề tài vừa mang tính thời sự vừa mang tính khoa học và thực tiễn sâu sắc.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật phá sản Việt Nam và thực tiễn
áp dụng nó trong những năm vừa qua. Từ việc nghiên cứu về hai hiện tượng này,
tác giả sẽ tìm ra những vướng mắc cụ thể mà các cơ quan Nhà nước gặp phải khi
vận dụng những quy định của Luật Phá sản Doanh nghiệp trong thực tiễn; đồng
thời, kiến nghị các biện pháp để khắc phục chúng.
Luận văn đi sâu vào các nội dung sau:
-

Nghiên cứu nội dung và đặc điểm của Luật Phá sản Doanh nghiệp


năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
-

Xem xét tình hình và đánh giá thực tiễn áp dụng Luật Phá sản Doanh

nghiệp trong thời gian qua;
-

Phân tích các vướng mắc gặp phải trong quá trình áp dụng Luật Phá

sản Doanh nghiệp ở Việt Nam;
-

Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản hiện hành.

3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt ra các mục đích nghiên cứu sau đây:
-

Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng Luật Phá sản

Doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam;


-5-

-

Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện Luật Phá sản Doanh


nghiệp hiện hành nhằm tăng cường hiệu quả của nó trong việc giải quyết phá sản,
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp như
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; kết hợp chặt chẽ giữa các phương
pháp phân tích và tổng hợp, hệ thống hoá.... Đồng thời, luận văn kết hợp lý luận cơ
bản của khoa học quản lý kinh tế với nội dung quản lý Nhà nước bằng pháp luật
trong nền kinh tế thị trường để giải quyết các vấn đề đặt ra.
Về mặt thực tiễn, luận văn dùng phương pháp khảo sát thực tế để xem xét,
đánh giá những mặt tích cực và hạn chế trong quá trình áp dụng Luật Phá sản
Doanh nghiệp. Từ đó, đề xuất những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện Luật
Phá sản Doanh nghiệp hiện hành cho phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội cũng
như thực tiễn sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
5. Những điểm mới của luận văn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng Luật Phá sản Doanh nghiệp
trong thời gian qua cũng như tham khảo Luật phá sản của một số nước trên thế giới,
luận văn đã tổng hợp và đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện Luật Phá sản Doanh
nghiệp hiện hành, phục vụ cho việc giải quyết phá sản được tiến hành một cách trôi
chảy, thuận lợi.
6. Kết cấu luận văn
Với tên gọi "Thực tiễn áp dụng Luật Phá sản Doanh nghiệp năm 1993", luận
văn được chia làm ba chương sau:
Chương 1: Luật Phá sản Doanh nghiệp - Cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho
quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng Luật Phá sản Doanh nghiệp và những tồn tại,
vướng mắc trong quá trình áp dụng.


-6-


Chương 3: Một vài kiến nghị về mặt pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả của
việc áp dụng Luật Phá sản.
Ngoài ra, luận văn còn bao gồm: Phần nói đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục
tài liệu tham khảo.


-7-

Chƣơng 1
LUẬT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP - CƠ SỞ PHÁP LÝ
QUAN TRỌNG NHẤT CHO QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
1.1. VAI TRÕ CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản là một hiện tượng khách quan và là
một thuộc tính tất yếu, vốn có, luôn luôn tiềm ẩn. Về thực chất, phá sản là quá trình
chọn lọc, đào thải tự nhiên nhằm tạo ra những nhân tố mới phù hơp với quan hệ
kinh tế mới, thúc đẩy sự phát triển đời sống kinh tế - xã hội.
Có thể thấy, các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường diễn ra ngày
càng đa dạng, phức tạp. Chính vì lẽ đó, pháp luật điều chỉnh những quan hệ đó cũng
ngày càng phong phú và có phạm vi điều chỉnh ngày càng rộng lớn. Các qui định
pháp luật đó hợp thành một hệ thống có mối liên hệ với nhau rất mật thiết, điều
chỉnh toàn bộ quá trình kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. Nếu như pháp luật
về thành lập doanh nghiệp cũng như các chủ thể kinh doanh khác được gọi là pháp
luật “đầu vào” của doanh nghiệp thì pháp luật giải thể, phá sản doanh nghiệp lại
được gọi là pháp luật “đầu ra” cho doanh nghiệp. Và như thế, pháp luật phá sản chỉ
là một bộ phận trong toàn bộ hệ thống pháp luật kinh tế. Bộ phận pháp luật này
đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nêu ra một số vai
trò chủ yếu của pháp luật phá sản như sau:

1.1.1. Pháp luật phá sản bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích của các chủ
nợ và của chính bản thân doanh nghiệp mắc nợ
Không riêng gì pháp luật phá sản, mà có rất nhiều các quy định pháp luật
khác tham gia vào việc bảo vệ lợi ích của các chủ nợ nói chung. Tuy nhiên, do tính
chất đặc biệt của thủ tục phá sản mà việc bảo vệ của pháp luật đối với các chủ nợ


-8-

mang tính chất tập thể. Có thể coi Luật Phá sản là một giải pháp để các chủ nợ thu
hồi nợ bằng cách chia nhau tài sản của con nợ một cách có trật tự, tránh tình trạnh
"mạnh ai, nấy đòi" cũng như tình trạng tẩu tán tài sản của con nợ.
Bên cạnh đó, pháp luật phá sản còn cung cấp một thủ tục đòi nợ đặc biệt Đó là các chủ nợ đòi nợ công khai, bình đẳng, mang tính tập thể. Đồng thời, các chủ
nợ đều được Tòa án thanh toán bình đẳng phần nợ của mình trong phạm vi tài sản
còn lại của con nợ. Không có chủ nợ nào có quyền khởi kiện để lấy nợ cho riêng
mình. Một chủ nợ không thể yêu cầu để con nợ thanh toán riêng cho mình trong khi
những chủ nợ khác không được thanh toán. Chính vì điều đó, vai trò của Luật Phá
sản là phải tạo ra được một thủ tục pháp lý mà ở đó các chủ nợ có khả năng kiểm
soát được các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản, tránh việc sử dụng sai
mục đích hoặc tẩu tán tài sản của doanh nghiệp dưới mọi hình thức. Thủ tục đó còn
phải giúp cho các chủ nợ có khả năng thu hồi nợ một cách tối đa, bởi vì, suy cho
cùng, ngay cả việc quy định thủ tục phục hồi khả năng kinh doanh của con nợ cũng
là nhằm mục đích tối đa hóa khả năng thu hồi nợ cho các chủ nợ.
Tại Việt Nam, theo qui định của Luật Phá sản Doanh nghiệp, việc bảo vệ lợi
ích của chủ nợ được thể hiện qua rất nhiều quyền cụ thể. Đó là quyền nộp đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (điều 7), quyền gửi giấy tờ đòi nợ đến Toà án
(điều 21), quyền khiếu nại danh sách chủ nợ (điều 22), quyền tham gia hội nghị chủ
nợ, thông qua phương án hoà giải tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh (điều
24), quyền có đại diện trong Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản (điều 15,
điều 42), quyền được khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản (điều 39).

Đối với các doanh nghiệp mắc nợ, pháp luật phá sản tạo điều kiện cho doanh
nghiệp có thể phục hồi hoặc rút khỏi thương trường. Mặc dù kinh doanh thua lỗ,
không thanh toán được nợ là điều nằm ngoài mong muốn của các nhà kinh doanh
song điều đó lại hoàn toàn có thể xảy ra bởi sự rủi ro chứa đựng ngay trong công
việc kinh doanh của họ. Một doanh nghiệp không thanh toán được nợ, bị phá sản sẽ
gây ra rất nhiều hậu quả đối với xã hội, trước hết là đối với chủ nợ, người lao động
và đối với nguồn thu ngân sách. Vì thế, vấn đề ưu tiên đối với doanh nghiệp mắc nợ


-9-

là phải làm sao để doanh nghiệp có thể được phục hồi, thoát khỏi tình trạng phá sản.
Pháp luật đa số các nước đều qui định nhiều cách thức phục hồi khác nhau để doanh
nghiệp có thể lựa chọn. Toà án không tuyên bố phá sản doanh nghiệp ngay khi có
đơn của người có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản mà tạo mọi điều kiện cho doanh
nghiệp mắc nợ khắc phục các khó khăn về tài chính. Nếu không có khả năng phục
hồi, doanh nghiệp phá sản được thực hiện việc thanh lý tài sản dùng để trả nợ theo
thứ tự ưu tiên nhất định. Nếu sau khi thanh toán tài sản của doanh nghiệp vẫn không
đủ để trang trải nợ nần thì những khoản nợ đó vẫn được coi là thanh toán xong.
Pháp luật phá sản có vai trò giúp cho doanh nghiệp phá sản thoát khỏi nợ nần để rút
khỏi thương trường.
Việc bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mắc nợ theo quy định của Luật Phá sản
Doanh nghiệp thể hiện ở quyền của doanh nghiệp trong việc xây dựng phương án
hoà giải và giải pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh và trình tại Hội nghị chủ nợ
(điều 20). Thông qua Hội nghị chủ nợ, doanh nghiệp được quyết định thời gian để
phục hồi, bàn bạc các biện pháp để tháo gỡ các khoản nợ. Luật Phá sản Doanh
nghiệp ưu tiên việc hoà giải tự nguyện giữa các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ,
nhận bảo lãnh hay mua lại các khoản nợ (điều 6). Doanh nghiệp mắc nợ có quyền
tham gia vào Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản (điều 15, điều 42), có
quyền được khiếu nại danh sách chủ nợ (điều 22), quyền khiếu nại quyết định tuyên

bố phá sản (điều 40), …
1.1.2. Pháp luật phá sản góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời
lao động trong các doanh nghiệp bị phá sản
Một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cũng có nghĩa là sự đe doạ đối
với người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp đó về nguy cơ mất việc làm và
thu nhập. Trong khi đó, cơ chế thị trường lại không dễ dàng tạo ra ngay một cơ hội
để tìm kiếm nơi làm việc mới cho người lao động nói chung. Chính vì thế, phá sản
là một trong những nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp ở nhiều nước có nền
kinh tế thị trường. Người lao động làm việc trong một doanh nghiệp đang gặp khó
khăn về tài chính thì rõ ràng thu nhập từ việc làm, tiền lương của họ sẽ thấp hoặc


- 10 -

thậm chí không có. Vai trò của pháp luật phá sản ở đây là tham gia vào việc tạo điều
kiện cho người lao động có được một cuộc sống ổn định khi doanh nghiệp bị phá
sản, có khả năng đòi lại tiền lương mà doanh nghiệp đang nợ họ cũng như các
khoản trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác.
Luật Phá sản Doanh nghiệp bảo vệ lợi ích của người lao động bằng việc quy
định một số quyền cho họ trong quá trình giải quyết phá sản. Họ được quyền nộp
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản thông qua đại diện Công đoàn hoặc đại diện người lao
động nơi chưa có tổ chức Công đoàn (điều 8), có quyền tham gia vào Hội nghị chủ
nợ (điều 25), quyền tham gia Tổ quản lý tài sản (điều 15), tham gia Tổ thanh toán
tài sản (điều 42), quyền được ưu tiên thanh toán nợ trước các khoản nợ của doanh
nghiệp (điều 39),…
1.1.3. Pháp luật phá sản góp phần vào việc tổ chức lại nền kinh tế
Việc tiến hành thủ tục phá sản không chỉ nhằm tuyên bố phá sản, thanh lý tài
sản của doanh nghiệp mà nó còn nhằm mục tiêu giúp các doanh nghiệp thoát ra
khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, tiếp tục hoạt động thông qua việc hoà giải. Tổ
chức lại doanh nghiệp phá sản không hoàn toàn đã là hiện tượng tiêu cực; bởi vì, nó

góp phần vào việc cơ cấu lại nền kinh tế. Pháp luật phá sản đã tạo ra cơ sở pháp lý
để loại bỏ đi các doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, xảy ra tình trạng thua lỗ, nợ
nần liên tục, kéo dài. Đồng thời, pháp luật phá sản cũng góp phần hình thành và duy
trì những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Ở đây, vai trò của pháp luật phá sản
lại góp phần nâng cao ý thức trong kinh doanh của các nhà đầu tư, buộc họ phải có
óc tính toán thận trọng trong định hướng đầu tư, lựa chọn qui mô, ngành nghề, hình
thức kinh doanh, địa bàn hoạt động, … và đặc biệt là sự trung thực, tôn trọng các
qui luật kinh tế cơ bản trong hoạt động của mình.
1.1.4. Pháp luật phá sản góp phần vào việc bảo đảm trật tự, kỷ cƣơng
của xã hội
Để có được môi trường kinh doanh lành mạnh, ổn định và phát triển, Nhà
nước phải thực hiện bằng nhiều biện pháp tác động khác nhau, trong đó pháp luật
kinh tế đóng vai trò qua trọng nhất. Với tư cách là một bộ phận pháp luật trong hệ


- 11 -

thống pháp luật kinh tế, pháp luật phá sản cũng thể hiện vai trò của mình trong việc
bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội. Phá sản là một hiện tượng xảy ra có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống kinh tế - xã hội, nó có thể gây ra những mâu thuẫn, tình trạng hỗn
loạn, mất trật tự xã hội bằng sự tranh nhau tài sản của con nợ ở các chủ nợ, bằng sự
biểu tình đòi việc làm, tiền lương, thu nhập ở người lao động. Nếu như không có
pháp luật phá sản để điều chỉnh ổn thoả, công bằng những mối quan hệ đó chắc
chắn sẽ gây ra tình trạng vô tổ chức trong xã hội. Theo quy định của Luật Phá sản,
Toà án sẽ là người thay mặt Nhà nước để tiến hành thủ tục phá sản, quyết định trách
nhiệm, quyền lợi của các bên, tránh đến mức thấp nhất sự mất trật tự ổn định xã hội.
1.2. VAI TRÕ CHỦ ĐẠO CỦA LUẬT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết việc
phá sản doanh nghiệp, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

Trước hết, đó là Luật Phá sản Doanh nghiệp ban hành năm 1993. Sau khi Luật được
ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 189/CP ngày 23 tháng 12 năm 1994
để chi tiết hóa và hướng dẫn thi hành Luật này. Nghị định 189/CP cũng không thể
quy định hết được các vấn đề phát sinh, do đó, các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cũng lần lượt ban hành các văn bản để tiếp tục đưa Luật, Nghị định vào cuộc
sống. Điển hình trong các văn bản đó là Quyết định số 528 - QĐ/BT ngày 13 tháng
6 năm 1995 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Qui chế làm việc của Tổ quản lý
tài sản và Tổ thanh toán tài sản và Quyết định số 426 - QĐ ngày 1 tháng 7 năm
1994 của Toà án nhân dân tối cao về Qui chế làm việc của tập thể Thẩm phán phụ
trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trong hệ thống pháp luật về phá sản thì Luật Phá sản Doanh nghiệp là văn
bản có vai trò chủ đạo, quyết định chất lượng, hiệu quả của việc điều chỉnh pháp
luật trong lĩnh vực phá sản. Luật Phá sản có được vai trò quan trọng như vậy vì nó
đã quy định những vấn đề cơ bản nhất liên quan đến việc giải quyết phá sản doanh
nghiệp ở Việt Nam. Sau đây là những vấn đề cơ bản nhất mà Luật Phá sản Doanh
nghiệp đề cập đến:


- 12 -

1.2.1. Đối tƣợng áp dụng
Điều 1, Luật Phá sản Doanh nghiệp qui định: “ Luật này áp dụng đối với các
doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu đựoc thành lập và hoạt động theo pháp
luật nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản”.
Hiện nay, các doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu ở nước ta bao gồm: Doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách
nhiệm hữu hạn có từ 2 thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và hợp tác xã các
loại. Như vậy, Luật Phá sản Doanh nghiệp không được áp dụng đối với mọi loại

hình tổ chức kinh doanh, mọi cơ sở sản xuất - kinh doanh. Nói cách khác, chỉ có
những cơ sở sản xuất - kinh doanh nào được gọi là doanh nghiệp thì mới có thể bị
Tòa án tuyên bố phá sản, còn những cơ sở sản xuất - kinh doanh khác như tổ hợp
tác, hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể do không được coi là doanh nghiệp nên
không thể bị phá sản.
Việc qui định đối tượng áp dụng của Luật Phá sản xuất phát từ điều kiện
kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Do đó, có thể thấy những mức độ khác nhau của
sự điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này. Ở một số nước như Mỹ, Úc, tất cả các
cá nhân và pháp nhân nếu không thanh toán được nợ đến hạn đều có thể bị tuyên bố
phá sản, bất luận họ có phải là thương gia hay không. Trong khi đó pháp luật của
Cộng hoà Liên bang Nga chỉ tuyên bố phá sản đối với các nhà kinh doanh, hay như
Việt Nam, chỉ có doanh nghiệp mới có thể bị tuyên bố phá sản.
1.2.2. Khái niệm tình trạng phá sản
Xác định tình trạng phá sản là một trong những vấn đề hết sức cơ bản của
Luật Phá sản Doanh nghiệp. Một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ là căn
cứ để Tòa án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản trên cơ
sở có đơn yêu cầu của người có quyền. Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản được áp dụng với một doanh nghiệp sẽ gây ra những hậu quả xấu
về nhiều mặt cho nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt đối với các chủ doanh nghiệp.


- 13 -

Quyết định này có ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của các nhà kinh doanh, đến các
mối quan hệ với bạn hàng của doanh nghiệp; đồng thời cũng làm hạn chế quyền
quản lý, định đoạt tài sản cũng như quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất - kinh
doanh của họ. Các hệ quả pháp lý của quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản đã được xác định trong Luật Phá sản cho thấy, nếu nhà lập pháp
đưa ra một quan niệm không khoa học về tình trạng phá sản thì nhất định sẽ gây ra
rất nhiều thiệt hại cho các nhà kinh doanh và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của

cả nền kinh tế.
Theo điều 2, Luật Phá sản Doanh nghiệp thì "Doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh
doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn". Như vậy, tình trạng phá sản là tình trạng doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán các món nợ đến hạn. Tình trạng đó biểu hiện ra bên ngoài là
việc ngừng thanh toán các món nợ. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp không
thanh toán nợ đều được xác định con nợ đã lâm vào tình trạng phá sản mà việc
không thanh toán được nợ đến hạn cũng có những cấp độ khác nhau. Ở cấp độ thấp,
việc ngưng trả nợ chỉ là hiện tượng tạm thời, có thể khắc phục được (do chưa thu
hồi được nợ hay hàng hóa chưa bán được...). Ở cấp độ cao, việc ngưng trả nợ lại là
một hiện tượng trầm trọng, thuộc về bản chất và vô phương cứu chữa. Điều này thể
hiện ở chỗ sau khi doanh nghiệp đã áp dụng mọi biện pháp tài chính cần thiết mà
doanh nghiệp vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Về mặt nguyên nhân, tình trạng phá sản được xác định do "gặp khó khăn
hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh". Như vậy, một doanh nghiệp không
thanh toán được nợ đến hạn chỉ với 2 nguyên nhân là gặp khó khăn khách quan và
bị thu lỗ trong hoạt động kinh doanh mới xác định là ở vào tình trạng phá sản.
Việc quy định dấu hiệu để xác định một con nợ bị coi là lâm vào tình trạng
phá sản có ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt pháp lý, bởi vì đây là căn cứ để cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hành vi pháp lý liên quan đến thủ tục
tuyên bố phá sản doanh nghiệp (thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, mở thủ tục


- 14 -

giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, thanh lý tài sản phá sản, xóa tên doanh nghiệp
phá sản...). Trong pháp luật phá sản của các nước, xuất phát từ quan điểm của mỗi
nước về phá sản (để thanh lý tài sản của con nợ hay để cứu vãn con nợ), khái niệm
tình trạng phá sản được hiểu rất khác nhau. Chẳng hạn, trong tại điều 1, Luật Phá

sản doanh nghiệp của Liên bang Nga ghi rõ dấu hiệu bên ngoài của tình trạng phá
sản của doanh nghiệp là "việc mất khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ nợ về thanh
toán hàng hóa, công việc, dịch vụ, kể cả việc mất khả năng bảo đảm thanh toán với
Ngân sách và các quỹ ngoài Ngân sách do nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ vượt
quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán cân thanh toán của doanh
nghiệp mắc nợ"[53, tr. 3]. Luật này cũng chỉ rõ dấu hiệu bên trong của tình trạng
phá sản là "sự ngừng việc thanh toán bình thường của doanh nghiệp nếu doanh
nghiệp không bảo đảm hoặc rõ ràng không có khả năng thực hiện các yêu cầu của
chủ nợ trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày đến hạn thực hiện yêu cầu đó"[53, tr. 3].
Luật Phá sản của Trung quốc, tại điều 3 quy định, doanh nghiệp đang lâm
vào tình trạng phá sản là "doanh nghiệp bị thua lỗ nghiêm trọng vì quản lý kinh
doanh kém, không thể thanh toán các khoản nợ đáo hạn"[17, tr. 2]; còn Luật Phá
sản của Nhật Bản tại điều 26 cho rằng, cá nhân hoặc công ty bị coi là lâm vào tình
trạng phá sản là khi "người mắc nợ ngừng việc thanh toán" và riêng với công ty cổ
phần là khi "không còn khả năng trả các khoản nợ một cách đầy đủ bằng tài sản có
của mình"[53, tr. 5].
Luật Phá sản của Vương quốc Anh lại quy định rõ, một doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn khi có một chủ nợ với số tiền trên 50 bảng đã gửi
đơn đến đòi nợ doanh nghiệp (sau 3 tuần lễ doanh nghiệp không trả được nợ hay
không thương lượng được với chủ nợ hoặc không tìm ra biện pháp bảo đảm thỏa
đáng số nợ phải trả) hoặc có một án lệnh buộc một doanh nghiệp trả nợ đến hạn
nhưng doanh nghiệp đó không thể thi hành được. Tại Vương quốc Bỉ, một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi "không trả được nợ đến hạn hoặc bị mất uy
tín về mặt tài chính, nghĩa là không còn đủ tài sản để bảo đảm số nợ hoặc phải tìm
cách trả nợ bằng các phương pháp không bình thường". Tại Vương quốc Tây Ban


- 15 -

Nha, luật pháp cho rằng, một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn là

doanh nghiệp "không thể thanh toán tất cả hoặc một phần các khoản nợ đến hạn".
1.2.3. Địa vị pháp lý của các chủ thể giải quyết phá sản
Trong quá trình giải quyết phá sản, các chủ thể có địa vị pháp lý không giống
nhau. Địa vị pháp lý của từng chủ thể giải quyết phá sản trong quá trình tố tụng phá
sản được Luật Phá sản Doanh nghiệp quy định cụ thể như sau:
1.2.3.1. Tòa án
Tham gia vào quá trình giải quyết phá sản có sự xuất hiện của nhiều chủ thể
khác nhau, trong đó Toà án là cơ quan được Nhà nước trao quyền quyết định để giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Sở dĩ luật pháp trao thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp cho Toà án bởi vì, Toà án là cơ quan đại diện cho quyền tư pháp của Nhà
nước mới có thể tuyên bố một doanh nghiệp phá sản, quyết định các quyền liên
quan đến tài sản, nhân thân của các cá nhân, pháp nhân trong vụ phá sản đó. Các
quyết định áp dụng pháp luật của toà án cũng được bảo đảm bằng sự cưỡng chế của
Nhà nước, đảm bảo được các mối quan hệ lợi ích của các chủ thể khác nhau trong
các vụ phá sản. Ở các nước như Mỹ, Úc, Nam Tư có Toà phá sản được thành lập
riêng để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong khi đó, với quan niệm việc giải
quyết phá sản thuộc phạm vi các vụ kiện dân sự nên thẩm quyền giải quyết phá sản
ở Trung quốc thuộc về Toà dân sự. Tại Cộng hoà liên bang Nga, Toà án Trọng tài
được thành lập để giải quyết phá sản. Ở Việt Nam, Điều 4, Luật Phá sản Doanh
nghiệp quy định: "Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi
chung là Toà án), Toà án Nhân dân Tối cao là cơ quan có thẩm quyền giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp". Nếu có khiếu nại, kháng nghị thì việc xem
xét khiếu nại, kháng nghị đó thuộc thẩm quyền của Toà phúc thẩm Toà án Nhân dân
Tối cao.
Toà án là cơ quan áp dụng Luật phá sản, có vai trò quyết định trong quá trình
giải quyết phá sản ở Việt nam. Có thể thấy vai trò đó của Toà án qua xem xét những
quan hệ với các chủ thể khác trong quá trình giải quyết phá sản. Đó là quan hệ của



- 16 -

Toà án với Hội nghị chủ nợ, con nợ, với Tổ quản lý tài sản, Tổ thanh toán tài sản và
trong những vấn đề khác của quá trình giải quyết phá sản.
Trong mối quan hệ của Toà án với Hội nghị chủ nợ, vai trò quyết định của
Toà án mà cụ thể là Thẩm phán biểu hiện ở việc Thẩm phán là người triệu tập và
chủ trì Hội nghị chủ nợ (điều 16, điều 27), ra quyết định công nhận biên bản hoà
giải thành về phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp với Hội nghị chủ nợ (điều 33) và là người quyết định cuối cùng về
phương án phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ (khoản 2, điều 43).
Trong quan hệ với Tổ quản lý tài sản, Chánh Toà kinh tế là người ra quyết
định thành lập Tổ quản lý tài sản (điều 15). Tổ trưởng của Tổ quản lý tài sản là một
cán bộ của Toà án (điều 15). Thẩm phán được phân công phụ trách giải quyết phá
sản là người giám sát và kiểm tra hoạt động của các nhân viên Tổ quản lý tài sản
(Khoản 1, điều 16). Tổ quản lý tài sản phải chịu trách nhiệm trước Thẩm phán về
việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình (Khoản 3, điều 17).
Vai trò quan trọng của Toà án còn được thể hiện trong mối quan hệ với Tổ
thanh toán tài sản. Tổ thanh toán tài sản được thành lập dựa trên cơ sở đã có quyết
định tuyên bố phá sản của Toà án. Việc thanh toán tài sản của doanh nghiệp phá sản
được tiến hành bởi Tổ thanh toán tài sản. Song, trong quá trình hoạt động, Tổ thanh
toán tài sản vẫn chịu ảnh hưởng của Toà án. Toà án là người giám sát việc bàn giao
tài sản và các giấy tờ, tài liệu có liên quan giữa Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán
tài sản (điều 41), ra quyết định thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản của doanh nghiệp
hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp nếu Chấp hành viên đề nghị
(khoản 1, điều 45). Nếu có tranh chấp về thu hồi tài sản hay phần chênh lệch giá trị
tài sản của doanh nghiệp thì Toà án sẽ giải quyết (Khoản 2, điều 45).
1.2.3.2. Tổ quản lý tài sản
Trong nhiều trường hợp, dưới sức ép từ phía các chủ nợ, các doanh nghiệp
khi lâm vào tình trạng phá sản có những hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản. Vì vậy,
nếu để doanh nghiệp tiếp tục quản lý tài sản của mình mà không đặt dưới một sự

kiểm tra, giám sát nào thì tài sản đó khó có thể bảo toàn, gây khó khăn cho việc giải


- 17 -

quyết phá sản, ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ. Điều đó đặt ra vấn đề quản
lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tại Luật phá sản của tất cả
các nước, nhân viên quản lý tài sản đóng một vai trò quan trọng và là chủ thể không
thể thiếu được trong quá trình giải quyết phá sản.
Hầu hết các nước, nhân viên quản lý tài sản được Toà án cử ra vào thời điểm
có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Người
này có thể là luật sư, thương gia hay một chuyên gia kiểm toán có kinh nghiệm
trong quá lĩnh vực phá sản. Tuy nhiên, Luật phá sản Anh, Mỹ thì chủ nợ lại có
quyền cử người quản lý tài sản.
Khác với nhiều nước, việc quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản theo Luật Phá sản Việt Nam lại được thực hiện bởi một tập thể. Tập
thể này đại diện cho nhiều lợi ích khác nhau, đại diện cho chủ nợ, con nợ, người lao
động, Toà án, cơ quan thi hành án, các cơ quan tài chính, ngân hàng và có thể có cả
những chuyên gia khác nữa. Nhiệm vụ của Tổ quản lý tài sản là kiểm tra, giám sát
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Họ không tham gia vào giải quyết các
công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà hoạt động kinh doanh vẫn do
doanh nghiệp tiến hành dưới sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của người đứng đầu
doanh nghiệp. Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam, đặc biệt vào thời điểm ban hành
Luật Phá sản Doanh nghiệp, phá sản là hiện tượng hoàn toàn mới mẻ nên kinh
nghiệm để giải quyết hiện tượng này chưa có. Mặt khác, không thể thiết kế mô hình
quản lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ như Luật Phá sản các nước vào Luật Phá
sản Doanh nghiệp của Việt Nam vì vấn đề quản lý tài sản của doanh nghiệp trong
trường hợp này, đặc biệt là việc tiếp tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có
thể sẽ phát sinh nhiều công việc đòi hỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà một người
không thể đáp ứng được. Trong điều kiện đó, chúng ta đã thiết kế mô hình quản lý

tài sản của doanh nghiệp là một tập thể với sự hiện diện của rất nhiều các lợi ích
khác nhau. Tựu trung lại, có 3 loại đại diện sau đây tham gia Tổ quản lý tài sản:
- Đại diện cho phía Nhà nước:


- 18 -

Về phía Nhà nước, đại diện gồm có 1 cán bộ Tòa án do Chánh Tòa Kinh tế
Tòa án Nhân dân cấp tỉnh chỉ định làm Tổ trưởng và 1 chấp hành viên do Trưởng
phòng Thi hành án cử;
- Đại diện cho các bên có quyền lợi liên quan (chủ nợ, con nợ, người lao
động):
Đại diện cho chủ nợ là người có số nợ nhiều nhất do Chánh Tòa kinh tế chỉ
định; đại diện cho doanh nghiệp mắc nợ là người do chủ doanh nghiệp hoặc đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp cử. Về phía người lao động là đại diện công đoàn
hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn.
- Đại diện của các cơ quan chuyên môn:
Đại diện cho các cơ quan chuyên môn gồm có đại diện cơ quan tài chính cấp
tỉnh (do Giám đốc Sở Tài chính cử), đại diện Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh (do
Giám đốc Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh cử) và các chuyên gia thuộc các lĩnh vực
hoạt động chuyên ngành khác do Chánh Tòa Kinh tế cấp tỉnh mời tham gia.
1.2.3.3. Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ là cơ quan duy nhất của các chủ nợ được thành lập để giải
quyết một cách công bằng các vấn đề liên quan đến lợi ích của các chủ nợ. Doanh
nghiệp mắc nợ có tiếp tục tồn tại, có hoạt động kinh doanh nữa hay khôngtùy thuộc
vào ý chí của các chủ nợ. Sự biểu hiện ý chí đó của các chủ nợ được thông qua ở
Hội nghị chủ nợ. Nói khác đi, số phận của doanh nghiệp khi đã lâm vào tình trạng
phá sản được Hội nghị chủ nợ quyết định. Dĩ nhiên, sự quyết định đó của Hội nghị
chủ nợ phải căn cứ vào thực trạng tồn tại của doanh nghiệp mắc nợ. Giải quyết phá
sản có mục tiêu là giải quyết mối quan hệ nợ nần của doanh nghiệp mắc nợ với các

chủ nợ. Các chủ nợ là những người có quyền lợi thiết thân nhất trong việc giải
quyết phá sản; vì vậy, việc đề cao vai trò của các chủ nợ sẽ tăng cường tính tích
cực, chủ động của các chủ nợ trong giải quyết phá sản, tạo điều kiện cho việc giải
quyết phá sản được tiến hành nhanh gọn, có hiệu quả.
Luật Phá sản của Cộng hòa Liên bang Nga rất coi trọng vai trò của các chủ
nợ cũng như Hội nghị chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản. Theo đó, Hội nghị


- 19 -

chủ nợ có rất nhiều quyền hạn cụ thể cả trong tổ chức lại hoạt động cũng như trong
việc thanh lý tài sản của người mắc nợ. Chẳng hạn, quyền lập ra Ủy ban chủ nợ và
quyết định chức năng của nó, phê duyệt kế hoạch quản lý tài sản, thay đổi kế hoạch
quản lý tài sản của người mắc nợ và đưa ra đề nghị về việc thực hiện kế hoạch đó,
ấn định mức thù lao cho quản tài viên; đề xuất ứng cử viên chức nhân viên thanh lý
tài sản, cho phép nhân viên thanh lý tài sản ký các giao kèo liên quan đến việc định
đoạt tài sản của người mắc nợ, quyết định về việc bắt đầu bán, hình thức bán và giá
bán tài sản ban đầu của người mắc nợ, ...
Theo quy định của Luật Phá sản Doanh nghiệp Việt Nam, Hội nghị chủ nợ
cũng là chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình giải quyết phá sản. Thành phần
của Hội nghị chủ nợ bao gồm các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ, chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, đại diện công đoàn hoặc đại diện
người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn. Hội nghị chủ nợ được tiến hành
dưới sự chủ trì của Thẩm phán.
Hội nghị chủ nợ có nhiệm vụ xem xét, thông qua phương án hoà giải, tổ chức
lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thảo luận, kiến nghị với Thẩm phán
về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp trong trường hợp không có
phương án hoà giải hoặc phương án hoà giải không được thông qua (điều 24, Luật
Phá sản doanh nghiệp).
Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán triệu tập và chủ trì. Việc triệu tập Hội nghị

chủ nợ có thể được tiến hành 1 lần hoặc phải tiến hành 2 lần tùy thuộc vào sự có
mặt của số chủ nợ đại diện cho một tỷ lệ nhất định số nợ không có bảo đảm theo
quy định của Luật hoặc theo ý kiến của các chủ nợ. Cụ thể là, lần thứ nhất, Hội nghị
chủ nợ chỉ hợp lệ khi có quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ
không có bảo đảm tham gia. Nếu không đạt được về điều kiện đó hoặc đa số chủ nợ
có mặt ở hội nghị biểu quyết hoãn hội nghị thì Hội nghị chủ nợ lần thứ hai phải
được triệu tập chậm nhất sau 30 ngày, kể từ ngày hoãn Hội nghị chủ nợ lần thứ
nhất. Lần thứ hai, Hội nghị chủ nợ được coi là hợp lệ khi thỏa mãn điều kiện duy


- 20 -

nhất là có sự tham gia của số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có
bảo đảm.
1.2.3.4. Tổ thanh toán tài sản
Sau khi có quyết định tuyên bố phá sản của Toà án, vấn đề mà các chủ nợ
quan tâm là việc thanh toán các tài sản còn lại của doanh nghiệp sẽ được tiến hành
ra sao, họ có còn được thanh toán hay không và ai là người đứng ra thanh toán... Để
đảm bảo sự chính xác, công bằng trong việc phân chia số tài sản còn lại của doanh
nghiệp cho các đối tượng theo thứ tự ưu tiên của Luật Phá sản, cần thiết phải có một
chủ thể có thể đảm đương được công việc đó. Đây là một vấn đề mà Luật Phá sản
của các nước đều đề cập tới. Do xuất phát từ những điều kiện khác nhau mà qui
định về vấn đề thanh toán của pháp luật các nước cũng có những điểm khác biệt
nhất định. Theo Luật Phá sản của Trung quốc và Cộng hoà liên bang Nga, sau khi
có quyết định tuyên bố phá sản, Toà án là cơ quan thực hiện cả nhiệm vụ tổ chức
phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản. Luật Phá sản Doanh nghiệp
của Việt Nam lại có qui định khác.
Ở Việt Nam, vấn đề thanh toán tài sản của doanh nghiệp bị phá sản được
thực hiện bởi Tổ thanh toán tài sản. Tổ thanh toán tài sản do Trưởng phòng thi hành
án ra quyết định thành lập. Thành phần của Tổ thanh toán tài sản bao gồm:

- Chấp hành viên làm Tổ trưởng Tổ thanh toán tài sản là một cán bộ Phòng
thi hành án thuộc Sở Tư pháp;
- Đại diện các cơ quan tài chính, ngân hàng cấp tỉnh;
- Đại diện chủ nợ;
- Đại diện Công đoàn, hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức
Công đoàn;
- Đại diện doanh nghiệp bị phá sản.
Theo đó thành viên Tổ quản lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ có thể được
chỉ định để tham gia Tổ thanh toán tài sản. Nhiệm vụ chủ yếu của Tổ thanh toán tài
sản là thu hồi tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, tổ chức bán đấu giá tài
sản và thực hiện thanh toán cho các chủ nợ theo phương án đã được quy định trong


- 21 -

quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Cụ thể, theo điều 44, Tổ thanh toán tài
sản có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
1- Nhận bàn giao tài sản và các giấy tờ, tài liệu có liên quan từ Tổ quản lý tài
sản;
2- Thu hồi và quản lý tất cả tài sản, giấy tờ, sổ sách kế toán và con dấu của
doanh nghiệp phá sản;
3- Phát hiện và yêu cầu Chấp hành viên cho thu hồi lại tài sản của doanh
nghiệp hoặc giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp đã
bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp theo quy định tại Điều 45 của Luật này. Tổ
thanh toán tài sản thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản và phần chênh lệch đó theo quyết
định của Chấp hành viên;
4- Theo quyết định của Chấp hành viên, Tổ thanh toán tài sản tổ chức việc
bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp. Việc bán đấu giá các tài sản của doanh
nghiệp phải có công chứng Nhà nước chứng nhận. Nếu tài sản đem bán đấu giá là
thiết bị đồng bộ thì phải bán đồng bộ, trừ khi không bán được đồng bộ mới bán thiết

bị lẻ. Việc tổ chức bán đấu giá tài sản và giải quyết quyền sử dụng đất đai của
doanh nghiệp phải theo đúng pháp luật;
5- Gửi tất cả các khoản tiền thu được của doanh nghiệp vào tài khoản mới
mở tại ngân hàng;
6- Thực hiện thanh toán theo quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của
Thẩm phán.
1.2.4. Thủ tục giải quyết phá sản
Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp là một đối tượng rất quan trọng mà
Luật Phá sản phải quy định. Thủ tục này bao gồm các công việc chủ yếu sau:
- Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
Hầu hết Luật Phá sản của các nước đều quy định doanh nghiệp mắc nợ có
nghĩa vụ phải nộp đơn đến tòa án xin mở thủ tục xử lý phá sản khi bị rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán. Ngoài ra, các chủ nợ và Tòa án hay Viện Kiểm sát


- 22 -

khi phát hiện doanh nghiệp có dấu hiệu phá sản cũng có quyền yêu cầu mở thủ tục
phá sản doanh nghiệp.
Luật Phá sản Doanh nghiệp 1993 của nước ta tại các điều 7, 8, 9 quy định
trong những trường hợp cụ thể chỉ có 3 đối tượng sau đây mới có quyền, nghĩa vụ
nộp đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
+ Chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần: Sau thời hạn
ba mươi ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp
thanh toán nợ, các chủ nợ này có quyền nộp đơn đến Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi
đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh
nghiệp;
+ Người lao động: Trong trường hợp doanh nghiệp không trả được lương
cho người lao động ba tháng liên tiếp, thì đại diện công đoàn hoặc đại diện người
lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn có quyền nộp đơn đến Toà án nơi doanh

nghiệp đặt trụ sở chính yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau
khi nộp đơn, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức
công đoàn được coi là chủ nợ và không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí;
+ Doanh nghiệp mắc nợ: Trong trường hợp đã thực hiện các biện pháp khắc
phục khó khăn về tài chính để thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà
doanh nghiệp vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn, thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải
nộp đơn đến Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu
cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Ngoài ba đối tượng trên thì không có một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào
có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau khi nhận đơn, Toà án thụ lý
đơn phải vào sổ và cấp cho người nộp đơn giấy báo đã nhận được đơn và các giấy
tờ kèm theo đơn. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Toà án phải thông
báo bằng văn bản cho doanh nghiệp mắc nợ biết, có bản sao đơn và các tài liệu liên
quan kèm theo. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Chánh toà Toà
kinh tế Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Toà


- 23 -

kinh tế cấp tỉnh) phải xem xét đơn cùng các giấy tờ, tài liệu có liên quan, nếu xét
thấy không đủ căn cứ, thì ra quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp. Quyết định này phải nêu rõ lý do và phải được gửi cho
người làm đơn và doanh nghiệp mắc nợ biết. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định của Chánh toà Toà kinh tế cấp tỉnh, các bên có quyền
khiếu nại với Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh về quyết định này. Trong thời hạn
bẩy ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh
phải ra một trong các quyết định hoặc giữ nguyên quyết định của Chánh toà Toà
kinh tế cấp tỉnh hoặc huỷ quyết định của Chánh toà Toà kinh tế cấp tỉnh và yêu cầu
xem xét lại. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày Chánh án Toà án nhân dân cấp

tỉnh ra quyết định Chánh toà Toà kinh tế phải ra quyết định mới. Quyết định này
phải được gửi cho Chánh án Toà án và các bên đương sự. Trong thời hạn mười lăm
ngày kể từ ngày nhận được quyết định mới của Chánh toà Toà kinh tế nếu các bên
còn khiếu nại thì trong thời hạn bảy ngày, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh phải xem
xét, quyết định. Quyết định của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh có hiệu lực thi hành.
- Xác định tình trạng phá sản
Theo điều 2, Luật Phá sản Doanh nghiệp thì doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng phá sản là doanh nghiệp "gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh
doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn". Tại điều 3, Nghị định 189/CP ngày 23 - 12 - 1994 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản Doanh nghiệp thì doanh nghiệp được
coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nếu "kinh doanh thua lỗ trong 2 năm
liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho
người lao động theo thỏa ước lao động và hợp đồng lao động trong 3 tháng liên
tiếp".
Vì thế, để xem xét và kết luận một doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá
sản, về mặt pháp luật, đòi hỏi phải làm rõ các vấn đề sau:
+ Nguyên nhân gây ra thua lỗ dẫn đến tình trạng phá sản;
+ Thời hạn thua lỗ;


- 24 -

+ Các biện pháp tài chính cần thiết mà doanh nghiệp đã áp dụng để khắc
phục hậu quả thua lỗ.
- Mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
Theo quy định tại điều 13 và điều 15 của Luật Phá sản Doanh nghiệp 1993,
sau khi xem xét đơn và các tài liệu liên quan, Chánh toà Toà kinh tế cấp tỉnh ra
quyết định mở hoặc không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp. Trường hợp quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản,

quyết định phải nêu rõ lý do mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp, ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp; họ, tên của Thẩm
phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và các nhân
viên Tổ quản lý tài sản được chỉ định.
- Tổ chức hội nghị chủ nợ
Tổ chức hội nghị của các chủ nợ được tiến hành trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày khóa danh sách chủ nợ. Hội nghị chủ nợ do Thẩm phán triệu tập và chủ trì.
Giấy triệu tập chủ nợ và bản sao phương án hòa giải cùng các giải quyết tổ chức lại
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được gửi cho các thành viên và những
người tham dự hội nghị chậm nhất 15 ngày trước ngày khai mạc hội nghị.
Điều 30 của Luật Phá sản Doanh nghiệp cũng quy định hội nghị chủ nợ có
thể được hoãn một lần, nếu không đủ quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất hai
phần ba tổng số nợ không có bảo đảm tham gia hoặc đa số chủ nợ có mặt ở hội nghị
biểu quyết hoãn hội nghị. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hoãn hội nghị
chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập lại hội nghị chủ nợ và chủ trì hội nghị. Trường
hợp hội nghị chủ nợ không thành do không đủ số chủ nợ theo quy định thì Thẩm
phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp
và phải được đăng báo địa phương, báo hàng ngày của Trung ương trong ba số liên
tiếp.
- Ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Điều 36, Luật Phá sản Doanh nghiệp quy định, Thẩm phán ra quyết định
tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây :


×