Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.26 KB, 2 trang )
I. Khái niệm thi pháp văn chương
– Khái niệm thi pháp văn chương nói chung
Thi pháp là cơ chế vận hành ngôn ngữ, tạo nên vẻ đẹp của tác phẩm văn học . Khoa học này được áp dụng trong cả văn
học viết và văn học dân gian
– Khái niệm thi pháp của một thể loại nói riêng:
Thi pháp VHDG là toàn bộ ngững đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và thủ thuật mieu tả, biểu hiện, về
cách cấu tạo đề tài, cốt truyện về phương pháp xây dựng hình tượng con người hay sự vật
II. Những đặc trưng cơ bản của thi pháp ca dao Việt Nam.
1. Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao, tính tập thể trong sáng tác và tính truyền miệng trong lưu hành, giao tiếp khiến
cái tôi trữ tình của ca dao không có dấu vết cá nhân,cá thể. Cái tôi trữ tình là gì? Trong ca dao dân ca Việt Nam, cái tôi
trữ tình thường là những cảm xúc chủ đạo được thể hiện tinh tế, đa dạng.
Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao là: thông thường nội dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng
nhân vật trữ tình, đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình
không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể như nhân vật tự sự và kịch nhưng nhân vật trữ tình cụ thể trong
giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ thể hiện được tâm hồn người, tấm lòng người.
Tập thể là một biểu hiện khác của những phương thức sáng tác và lưu truyền văn học dân gian. Có những tác phẩm văn
học dân gian ngay từ nguồn gốc đã là sáng tác cá nhân nhưng lưu truyền bằng con đường của trí nhớ. Dùng trí nhớ
không thể giữ nguyên vẹn được cả nội dung và hình thức của tác phẩm, vì thế mà sáng tác ấy mỗi người có thể thay đổi
tùy ý ít nhiều. Hơn nữa khi hát hoặc kể lại theo sở thích, mục đích của mình và của người nghe, thế là dù cho lúc đầu có
thể là do một cá nhân sáng tác, nhưng trong khi lưu truyền qua những người khác nhau, tác phẩm văn học luôn luôn có
khả năng tiếp nhận những yếu tố sáng tác mới và trở thành sở hữu tập thể.
Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu hành của văn học dân gian. Văn học truyền miệng ra đời từ khi dân tộc
chưa có chữ viết. Tuy nhiên khi dân tộc đã có chữ viết thì văn học truyền miệng vẫn tiếp tục phát triển. Một mặt do đại
đa số nhân dân không có điều kiện học hành để hưởng thụ thành tựu văn học viết, mặt khác do văn học viết không thể
hiện đầy đủ tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu và tập quán sinh hoạt nghệ thuật của nhân dân. Vì thế nhiều người
có học mà chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân dân cũng tham gia sáng tác và lưu truyền văn học dân gian.
Ca dao là loại thơ trữ tình dân gian, là tiếng nói của tư tưởng, tình cảm và mơ ước, khát vọng của người bình dân. Vì lẽ
đó, khi những câu ca dao được ra đời và truyền đi trong cộng đồng, nó đã bị phai dần cái tôi trữ tình… sáng tác của một
cá nhân mà được sửa đổi đôi chút và trở thành của cả cộng đồng, của cả những con người có cùng tình thế, ước mơ, tình
cảm như câu ca dao. Và có lẽ vậy mà qua ca dao ta cảm nhận được sâu sắc nhịp trái tim yêu thương của người bình dân