Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Mô hình kế toán một người trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.81 KB, 36 trang )

B

TR

GIÁO D C VÀ ÀO T O

NG

I H C KINH T TP.HCM

TR N THANH XUÂN

LU N V N TH C S KINH T

TP. H Chí Minh – N m 2000


Lời mở đầu:
1/ Tính cấp thiết của đề tài:
Từ sau giai đoạn đổi mới, việc phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng về số lượng trong các ngành, trên các miền đất
nước. Bên cạnh đó, công tác kế toán trong các doanh nghiệp cũng được đẩy mạnh theo yêu cầu
của luật Doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty.
Khoản 6 điều 25 luật Doanh nghiệp tư nhân (ngày 21/12/1990) quy đònh:
“ Chủ Doanh nghiệp tư nhân có nghóa vụ ghi chép sổ sách kế toán và quyết toán theo
quy đònh của pháp luật về kế toán, thống kê và chòu sự kiểm tra của cơ quan tài chính”
Khoản 5 điều 13 Luật Công ty ( ngày 21/12/1990) quy đònh:
“ Công ty có nghóa vụ ghi chép sổ sách kế toán và quyết toán theo quy đònh của pháp
luật về kế toán, thống kê và chòu sự kiểm tra của cơ quan tài chính”.
Do các yêu cầu trên, hầu hết các doanh nghiệp, công ty khi tiến hành hoạt động kinh
doanh đều thực hiện việc ghi chép sổ kế toán và lập các báo cáo kế toán đònh kỳ.


Rõ ràng là yêu cầu của công tác kế toán trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế tư nhân đã được hình thành dưới sự tác động từ bên ngoài, chứ không xuất phát từ yêu
cầu bên trong của doanh nghiệp.
Do vậy, khi cơ quan thuế đòa phương, cơ quan nhà nước tiếp xúc thường xuyên với
doanh nghiệp, không chấp nhận mức thuế doanh nghiệp kê khai theo sổ sách, mà tiến hành thu
thuế theo mức thuế khoán, thì công tác kế toán trong các doanh nghiệp này đã không còn cần
thiết, và đã có một khoảng thời gian dài, hầu hết các doanh nghiệp nộp thuế khoán đều không
tổ chức mở sổ sách kế toán theo quy đònh của Luật Doanh nghiệp cũng như Luật công ty.
Tuy nhiên, khi luật Thuế Giá trò gia tăng được phổ biến và có hiệu lực thi hành từ thời
điểm 01/01/1999 thì tình hình lại chuyển biến theo một hướng khác. Một trong các yêu cầu để
các doanh nghiệp có thể nhận hoá đơn giá trò gia tăng, cũng như được kê khai nộp thuế giá trò
gia tăng theo phương pháp khấu trừ, đó là yêu cầu về ghi chép sổ kế toán và yêu cầu về báo
cáo kế toán đònh kỳ.
Dưới tác động điều chỉnh của Luật thuế Giá trò gia tăng, từ đầu năm 1999, đã có hàng
loạt doanh nghiệp bắt đầu tổ chức ghi sổ kế toán. Với quy mô nhỏ, nghiệp vụ kinh tế không
phức tạp, công việc chủ yếu là lập các báo cáo thuế và báo cáo kế toán; hầu như các doanh


nghiệp đều chỉ thuê một kế toán để làm công tác ghi sổ kế toán đối với các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh trong doanh nghiệp. Và đây chính là cơ sở hình thành mô hình kế toán một người
trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa bàn Tỉnh Đồng Nai.
2/ Mục đích của đề tài:
Mô hình kế toán một người là một mô hình mới, và có xu hướng phát triển trong suốt
giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa đất nước. Mô hình này không được hình thành từ
sự tự vận động của nền kinh tế thò trường, mà xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước, do vậy
bản thân nó tồn tại nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu.
Mục đích của đề tài này là phản ảnh các đặc trưng riêng có của mô hình kế toán một
người, các ưu điểm và hạn chế của nó, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện mô
hình theo hướng có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung, và cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nói riêng.

3/ Yêu cầu của đề tài:
Do tính chất của đề tài là nghiên cứu về một mô hình đang có trong thực tế, do vậy
chúng tôi sẽ không đi sâu vào lónh vực lý thuyết, hoặc đưa ra các dự báo tương lai. Yêu cầu của
đề tài trước hết là phản ảnh trung thực mô hình kế toán một người trong các doanh nghiệp hiện
nay; đối chiếu với cơ sở lý luận truyền thống về kế toán để phân tích các ưu điểm, các hạn chế
của mô hình. Cũng từ đó, trên cơ sở một số lý thuyết kế toán mới, sẽ đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện mô hình, trên cơ sở phát huy các ưu điểm, khắc phục các hạn chế, từ đó tiếp
tục đònh hướng cho mô hình phát triển phù hợp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá
đất nước.
4/ Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Đề tài này sử dụng phương pháp lý luận duy vật Mác xít làm cơ sở; trong quá trình
đánh giá thực trạng đã sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu, phương pháp phân tích hệ
thống hóa; quá trình đề xuất giải pháp đã sử dụng phương pháp mô hình hóa.
Do thời gian nghiên cứu đề tài không nhiều, quy mô nghiên cứu mang tính đòa
phương, kiến thức còn hạn chế. Chắc chắn đề tài này sẽ không tránh khỏi một số thiếu sót nhất
đònh. Chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những đóng góp quý báu của nhà trường, các cơ quan
quản lý nhà nước đòa phương, các chủ doanh nghiệp; nhằm bổ sung và hoàn chỉnh đề tài được
tốt hơn, sâu sắc hơn, góp phần phục vụ thiết thực cho nhà trường và cho xã hội.

Trang 2


Chúng tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả các ý kiến tham gia vào đề
tài này.
Nội dung luận án bao gồm :
Chương 1: Lý luận cơ bản về tổ chức kế toán doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng của mô hình kế toán một người trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Đònh hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện mô hình kế toán một
người trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai.


Trang 3


Chương I :
Lý luận cơ bản về tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp
1.1/ Khái niệm, chức năng, vai trò của công tác kế toán:
1.1.1/ Khái niệm về kế toán:
Theo Điều lệ tổ chức kế toán nhà nước thì khái niệm về công tác kế toán được xác
đònh như sau:
“ Kế toán là công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trò, hiện vật
và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trò để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động
của các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn của nhà
nước, cũng như của từng tổ chức, xí nghiệp”.
Hay” Kế toán là công việc tính toán, ghi chép bằng con số biểu hiện giá trò tiền tệ tất
cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong các đơn vò cơ quan xí nghiệp”
Theo sách giáo khoa “ Kế Toán Đại Cương” của Trường Đại học Kinh Tế TP.HCM
thì “ kế toán là sự ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh qua các tài khoản của kế toán:
-

Ghi chép trên các chứng từ, tài liệu và sổ sách kế toán.

-

Ghi chép về những tình trạng thay đổi của các sự giao dòch, quan hệ với nhau.

-

Ghi chép, phân tích những ảnh hưởng của sự thay đổi đối với tài sản của doanh
nghiệp”.


Qua hai khái niệm trên, có thể thấy được một khái niệm chung nhất về kế toán như
sau:
“ Kế toán là quá trình ghi chép, thu thập, xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh bằng
một ngôn ngữ riêng, từ đó cung cấp các thông tin cần thiết cho chủ doanh nghiệp, các
cơ quan quản lý nhà nước, cũng như các bên có yêu cầu”.
1.1.2/ Nhiệm vụ của kế toán:
Kế toán có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
-

Giúp cho chủ doanh nghiệp bảo vệ tài sản của mình, thông qua việc phản ảnh
trung thực, chính xác số thực có của tài sản, tiền vốn tại doanh nghiệp.

-

Phản ảnh tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế tài chính của doanh nghiệp, thông
qua việc đối chiếu các số liệu kế hoạch với các báo báo kế toán tài chính đònh kỳ.

Trang 4


-

Kiểm tra việc chấp hành chính sách, chế độ về kinh doanh thương mại, về kế toán
tài chính, thông qua việc giám sát các chứng từ ban đầu ở đầu vào và đầu ra.

-

Phát hiện các tiềm năng của doanh nghiệp thông qua việc phân tích các hoạt động
kinh tế của doanh nghiệp.


1.1.3/ Vai trò của kế toán:
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, kế toán giữ một vai trò quyết đònh trong quá trình
quản lý xí nghiệp, do bởi việc nắm giữ các thông tin tài chính chủ yếu của xí nghiệp quốc
doanh. Ngày nay, trong thời kỳ kinh tế thò trường, vai trò của công tác kế toán đã thu hẹp xoay
quanh việc cung cấp các thông tin tài chính, xử lý và đánh giá thông tin, đồng thời đưa ra các
dự báo về kết quả hoạt động kinh doanh khi có yêu cầu. Về lónh vực này, vai trò của kế toán là
hết sức quan trọng, do bởi các yếu tố sau:
-

Thông tin do kế toán cung cấp giúp nhà quản lý ra quyết đònh đúng đắn, tính được
hiệu quả công việc của mình và từ đó đònh hướng hoạt động cho tương lai.

-

Thông qua việc tổ chức công tác kế toán, kế toán giúp cho chủ doanh nghiệp nắm
rõ tình hình tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những quyết đònh để
điều hòa nguồn vốn trong kinh doanh theo hướng có lợi nhất, đảm bảo không bò
thất thoát, tổn hại.

-

Cung cấp các thông tin ra bên ngoài, cho các nhà đầu tư, các cơ quan quản lý nhà
nước.

1.2/ Tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp:
Tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp là tổ chức việc sử dụng các phương pháp kế
toán để thực hiện việc ghi chép, phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh
phù hợp với chính sách, chế độ hiện hành, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, đảm bảo tốt việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của kế toán.

Tổ chức công tác kế toán một cách thích ứng với điều kiện về quy mô, về đặc điểm tổ
chức sản xuất kinh doanh cũng như gắn với những yêu cầu quản lý cụ thể tại doanh nghiệp có ý
nghóa hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tại doanh nghiệp.
Tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp trong điều kiện thực hiện cơ chế thò trường,
ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung của khoa học tổ chức, còn phải gắn với đặc thù của

Trang 5


hạch toán kế toán, đảm bảo được tính linh hoạt, hiệu quả và đồng bộ; nhằm đạt tới mục tiêu
chung là tăng cường được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3/ Các nguyên tắc tổ chức công tác kế toán.
1.3.1/ Tổ chức công tác kế toán phải phù hợp với quy đònh hiện hành:
Việc ban hành chế độ, thể lệ kế toán của Nhà nước nhằm mục đích quản lý thống
nhất công tác kế toán trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nên tổ chức công tác kế toán phải
dựa trên cơ sở chế độ chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp, chế độ sổ
sách kế toán, hệ thống báo cáo kế toán mà Nhà nước đã quy đònh để vận dụng một cách phù
hợp với đơn vò mình.
1.3.2/ Tổ chức công tác kế toán phải phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất kinh
doanh, tổ chức quản lý của doanh nghiệp:
Mỗi doanh nghiệp có một đặc điểm và điều kiện riêng. Do đó không thể có một mô
hình công tác kế toán chung cho tất cả các doanh nghiệp. Để tổ chức tốt công tác kế toán
doanh nghiệp, đảm bảo phát huy đầy đủ vai trò, tác dụng của kế toán đối với công tác quản lý
doanh nghiệp thì việc tổ chức kế toán phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, tính chất hoạt
động và quy mô của doanh nghiệp, cơ chế và sự phân cấp quản lý của doanh nghiệp, trình độ
nghiệp vụ chuyên môn của nhân viên kế toán.
1.3.3/ Tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm
và hiệu quả:
Tiết kiệm và hiệu quả là nguyên tắc của công tác tổ chức nói chung và tổ chức công
tác kế toán nói riêng vì không thể tổ chức công tác kế toán “ với bất kỳ giá nào”. Thực hiện

nguyên tắc này phải đảm bảo tổ chức công tác kế toán khoa học và hợp lý, thực hiện tốt nhất
các chức năng, nhiệm vụ của kế toán, chất lượng công tác kế toán đạt được mức cao nhất với
chi phí tiết kiệm nhất.
1.3.4/ Tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp phải đảm bảo kết hợp tốt giữa kế toán tài
chính và kế toán quản trò:
Kế toán tài chính và kế toán quản trò là hai loại kế toán có những điểm khác nhau về
đối tượng sử dụng thông tin, đặc điểm của thông tin, phạm vi thông tin, kỳ báo cáo….Tuy nhiên,
cả hai có điểm giống nhau là đều dựa trên cùng một cơ sở hạch toán ban đầu, đều thu thập, xử
lý, cung cấp thông tin kinh tế của doanh nghiệp. Do đó, khi tổ chức công tác kế toán phải

Trang 6


nghiên cứu để kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trò nhằm làm cho các loại kế toán
cùng phát huy tác dụng một cách tốt nhất.
1.4/ Nội dung tổ chức công tác kế toán.
Tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp là việc tổ chức thực hiện hạch toán ban đầu;
phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh bằng các phương pháp kế toán phù hợp.
Nội dung cụ thể của tổ chức công tác kế toán doanh nghiệp bao gồm:
1.4.1/ Tổ chức vận dụng hệ thống chứng từ kế toán:
Hạch toán ban đầu là khâu đầu tiên, quan trọng của tổ chức công tác kế toán. Mọi
nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều phải lập chứng từ kế toán làm cơ sở cho việc ghi sổ kế toán.
Chế độ chứng từ kế toán hiện hành được quy đònh bởi quyết đònh số 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ Tài chính bao gồm 5 loại chứng từ:
- Chứng từ về lao động tiền lương

9 mẫu

- Chứng từ kế toán về hàng tồn kho

8 mẫu


- Chứng từ kế toán về bán hàng

10 mẫu

- Chứng từ kế toán về tiền tệ

7 mẫu

- Chứng từ kế toán về tài sản cố đònh 5 mẫu.
Các chứng từ kế toán được chia ra làm 2 loại:
Loại chứng từ kế toán bắt buộc là những chứng từ kế toán phản ánh các quan hệ kinh
tế giữa các pháp nhân. Đối với các loại chứng từ này, Nhà nước quy đònh thống nhất về quy
cách, mẫu biểu, chỉ tiêu phản ánh và phương pháp lập.
Loại chứng từ kế toán hướng dẫn chủ yếu là những chứng từ sử dụng trong nội bộ
doanh nghiệp. Đối với hệ thống chứng từ kế toán này, Nhà nước chỉ hướng dẫn các chỉ tiêu cơ
bản. Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện cụ thể mà các doanh nghiệp có thể thêm, bớt hoặc thay
đổi thiết kế mẫu biểu.
Tùy vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cụ thể, kế toán sẽ vận
dụng hệ thống chứng từ kế toán cho phù hợp trong tất cả các bước: lập chứng từ, kiểm tra
chứng từ, ghi sổ, bảo quản và lưu trữ chứng từ kế toán.
1.4.2/ Tổ chức vận dụng tài khoản kế toán:

Trang 7


Trong chế độ kế toán doanh nghiệp, hệ thống tài khoản là nội dung quan trọng nhất.
Việc tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán có ý nghóa lớn đối với toàn bộ công tác tổ
chức kế toán trong doanh nghiệp.
Theo chế độ kế toán hiện hành, có hai hệ thống tài khoản áp dụng cho doanh nghiệp,

đó là:
-

Hệ thống tài khoản áp dụng cho doanh nghiệp ban hành theo quyết đònh

1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 của Bộ Tài chính và thông tư số 10-TC/CĐKT ngày
20/3/1997 của Bộ tài chính gồm 73 tài khoản phân thành 9 loại và 7 tài khoản ngoài bảng cân
đối kế toán.
-

Hệ thống tài khoản áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ban hành theo

quyết đònh số 1177-TC/QĐ/CĐKT ngày 23/12/1996 gồm 32 tài khoản và 6 tài khoản ngoài
bảng cân đối kế toán.
Dựa vào hệ thống tài khoản kế toán do Nhà nước ban hành, căn cứ vào chức năng,
nhiệm vụ và tính chất hoạt động của doanh nghiệp, kế toán trưởng nghiên cứu, lựa chọn, xây
dựng danh mục những tài khoản áp dụng ở doanh nghiệp và quy đònh rõ phương pháp vận dụng
các tài khoản này. Việc vận dụng hệ thống tài khoản phải đảm bảo phản ánh đầy đủ, cụ thể
mọi nội dung đối tượng hạch toán, mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
1.4.3/ Tổ chức vận dụng hình thức kế toán:
Hình thức thức kế toán là hệ thống tổ chức sổ kế toán bao gồm số lượng sổ, kết cấu
mẫu sổ, mối quan hệ giữa các loại sổ để thực hiện việc ghi chép, phản ánh, hệ thống hóa và
tổng hợp số liệu từ các chứng từ kế toán nhằm cung cấp những chỉ tiêu kế toán cần thiết cho
việc lập các báo cáo tài chính theo trình tự và phương pháp nhất đònh.
Có 4 hình thức kế toán đang được áp dụng trong các doanh nghiệp hiện nay:
-

Hình thức kế toán Nhật ký sổ cái.

-


Hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ.

-

Hình thức kế toán Nhật ký chứng từ.

-

Hình thức kế toán Nhật ký chung.

Mỗi hình thức kế toán có một đặc điểm riêng, ưu và nhược điểm khác nhau, thích hợp
với từng doanh nghiệp cụ thể có những đặc điểm, điều kiện riêng. Kế toán trưởng căn cứ vào
điều kiện áp dụng của từng hình thức kế toán và đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh

Trang 8


nghiệp, trình độ chuyên môn của nhân viên kế toán, khả năng trang bò cơ sở vật chất, phương
tiện kỹ thuật tính toán và thông tin kinh tế của doanh nghiệp để lựa chọn vận dụng một hình
thức kế toán phù hợp, đảm bảo phát huy được ưu điểm và khắc phục được nhược điểm của hình
thức kế toán mà doanh nghiệp lựa chọn.
1.4.4/ Tổ chức lập báo cáo kế toán:
Báo cáo kế toán cung cấp những thông tin cần thiết cho các đối tượng sử dụng thông
tin kế toán. Báo cáo kế toán là công việc cuối cùng trong quá trình xử lý các thông tin kế toán.
Báo cáo kế toán được phân thành hai loại: báo cáo kế toán tài chính và báo cáo kế
toán quản trò.
Đối với báo cáo kế toán tài chính phục vụ chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài doanh
nghiệp, thường mang tính bắt buộc, kế toán phải lập đònh kỳ theo đúng mẫu biểu quy đònh.
Đối với báo cáo kế toán quản trò phục vụ chủ yếu cho những người quản trò doanh

nghiệp, kế toán phải xây dựng nội dung, chỉ tiêu và phương pháp tính thích hợp, phù hợp với
yêu cầu thông tin về quản trò doanh nghiệp. Việc lập các báo cáo kế toán quản trò phải đảm
bảo các yêu cầu trung thực, khách quan, toàn diện, kòp thời.
1.4.5/ Tổ chức bộ máy kế toán:
Tổ chức bộ máy kế toán bao gồm nhiều công việc khác nhau, liên quan chặt chẽ với
nhau như: lựa chọn mô hình tổ chức bộ máy kế toán, xác đònh các phần hành kế toán và phân
công lao động kế toán. Việc tổ chức bộ máy kế toán phải lấy chất lượng, hiệu quả công việc
làm thước đo, sao cho thu thập thông tin vừa đầy đủ, kòp thời, chính xác, vừa tiết kiệm chi phí.
Kế toán trưởng phải căn cứ vào đặc điểm về quy mô, trình độ và tổ chức sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình phân cấp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, điều
kiện trang bò kỹ thuật, trình độ nghiệp vụ của nhân viên kế toán để lựa chọn mô hình tổ chức
bộ máy kế toán cho phù hợp. Các mô hình tổ chức bộ máy kế toán hiện nay thường theo các
dạng sau:
-

Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tập trung:

Theo mô hình này, toàn bộ công việc kế toán từ khâu thu nhận, xử lý, luân chuyển
chứng từ, ghi sổ kế toán, lập báo cáo kế toán… đều được tập trung thực hiện tại phòng kế toán
của doanh nghiệp, các đơn vò phụ thuộc không có bộ phận kế toán riêng mà chỉ có một số nhân

Trang 9


viên kinh tế làm nhiệm vụ hạch toán ban đầu, thu nhận, kiểm tra, tổng hợp, phân loại chứng từ
phát sinh ở đơn vò phụ thuộc, sau đó gửi chứng từ về phòng kế toán đơn vò chính.
-

Mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán:


Theo mô hình này, ở các đơn vò phụ thuộc đều có tổ chức bộ máy kế toán riêng, làm
nhiệm vụ thu nhận, kiểm tra, xử lý chứng từ kế toán, thực hiện việc hạch toán tổng hợp, hạch
toán chi tiết các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở đơn vò phụ thuộc theo sự phân cấp quản lý trong
doanh nghiệp, đònh kỳ lập báo cáo kế toán gửi về phòng kế toán doanh nghiệp . Phòng kế toán
doanh nghiệp thực hiện việc tổng hợp số liệu báo cáo của các đơn vò trực thuộc; hạch toán
thêm các nghiệp vụ phát sinh chung của doanh nghiệp, lập báo cáo kế toán của toàn doanh
nghiệp, kiểm tra kế toán trong toàn doanh nghiệp.
-

Mô hình tổ chức bộ máy kế toán vừa tập trung vừa phân tán:

Theo mô hình này, trong doanh nghiệp sẽ có những đơn vò phụ thuộc có tổ chức kế
toán riêng, nhưng cũng có những đơn vò không có kế toán riêng.
Đối với những đơn vò phụ thuộc hoạt động tương đối toàn diện, ở xa trụ sở chính của
doanh nghiệp, sẽ tổ chức kế toán riêng, hạch toán các nghiệp vụ phát sinh ở đơn vò mình, đònh
kỳ lập báo cáo gửi về phòng kế toán doanh nghiệp. Những đơn vò này thực hiện hạch toán
mang tính chất phân tán.
Đối với những đơn vò trực thuộc có quy mô nhỏ hoặc ở gần trụ sở chính của doanh
nghiệp, sẽ không tổ chức kế toán riêng, chỉ bố trí một số nhân viên kinh tế làm nhiệm vụ hạch
toán ban đầu, thu thập, xử lý, kiểm tra chứng từ sau đó gửi về phòng kế toán doanh nghiệp.
Những đơn vò này thực hiện hạch toán mang tính chất tập trung.
Phòng kế toán doanh nghiệp có nhiệm vụ hạch toán các nghiệp vụ phát sinh tại các
phòng ban của doanh nghiệp, các đơn vò phụ thuộc không có tổ chức kế toán riêng, cũng như
tổng hợp báo cáo kế toán của các đơn vò phụ thuộc có tổ chức kế toán riêng, lập báo cáo kế
toán toàn doanh nghiệp.
1.4.6/ Tổ chức kiểm tra kế toán và kiểm toán nội bộ:
Kiểm tra kế toán và kiểm toán là một trong những nội dung quan trọng của tổ chức
công tác kế toán. Công việc kiểm tra kế toán thường do một bộ phận nhân viên kế toán tiến
hành theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của kế toán trưởng nhằm kiểm tra toàn diện tất cả các khâu
của quá trình hạch toán, tất cả các nội dung của tổ chức công tác kế toán.Kiểm toán nội bộ


Trang 10


cũng nhằm mục đích kiểm tra xác nhận tính chính xác, trung thực, khách quan của số liệu kế
toán. Nhưng kiểm toán nội bộ không phải do nhân viên kế toán thực hiện mà có một bộ phận
chuyên trách kiểm toán nội bộ, không thuộc phòng kế toán. Bộ phận này trực thuộc và báo cáo
trực tiếp kết quả kiểm toán cho giám đốc công ty (hay chủ doanh nghiệp).
Trên đây là các cơ sở lý luận truyền thống về tổ chức công tác kế toán trong các
doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở lý luận nền tảng nhằm soi rọi và đònh hướng cho mô hình kế
toán một người. Trước hết, chúng ta sẽ nghiên cứu về thực trạng của mô hình kế toán một
người trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa bàn Tỉnh Đồng Nai.

Trang 11


Chương II:
Thực trạng của mô hình kế toán một người trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên đòa bàn Tỉnh Đồng Nai.
2.1/ Đánh giá chung về sự phát triển của mô hình kế toán một người trong
các doanh nghiệp trên đòa bàn Tỉnh Đồng Nai.
2.1.1/ Về quy mô:
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, do hạn chế bởi một số quy đònh về tổ chức
bộ máy kế toán, nên không thể tổ chức theo mô hình kế toán một người. Quá trình khảo sát các
doanh nghiệp nhà nước trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai cho thấy: không có doanh nghiệp nhà nước
nào, kể cả doanh nghiệp làm kinh tế Đảng, áp dụng mô hình kế toán một người.
Đối với các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, bao gồm các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài 100% và các doanh nghiệp thuộc loại hình liên doanh giữa trong nước và
nước ngoài, thì mô hình kế toán một người được áp dụng trong một số doanh nghiệp. Đặc điểm
chung của các doanh nghiệp nước ngoài khi áp dụng mô hình kế toán một người là:

-

Có quy mô nhỏ ( nguồn vốn đầu tư dưới 10 triệu USD).

-

Có phần mềm kế toán chuyên dụng.

Tỷ lệ các doanh nghiệp nước ngoài áp dụng mô hình kế toán một người vào khoảng 2
– 5 % các doanh nghiệp có trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai. Có thể kể ra các doanh nghiệp
áp dụng mô hình kế toán một người khá hiệu quả như: công ty liên doanh Sáng Tạo
(c), công ty RosTaint (Pháp), công ty Hiệp Đạt (Đài Loan)….
Tuy nhiên, mô hình kế toán một người tập trung phát triển trong các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Như trên đã nêu, do yêu cầu của việc tổ chức kế toán tài chính tại các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là cung cấp thông tin cho bên ngoài, trước hết và chủ yếu nhất là cơ
quan thuế; đồng thời phải đảm bảo chi phí quản lý ở mức thấp nhất; nên hầu hết các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, đều áp dụng mô hình kế toán một người.
Các doanh nghiệp này đều có một số đặc điểm chung là nghiệp vụ kinh tế phát
sinh đơn giản, cụ thể như: chủng loại vật tư, hàng hóa không nhiều; không có công nợ lớn;
thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt; tài sản cố đònh ổn đònh, chi phí quản lý phát sinh đều đặn,
thường xuyên…

Trang 12


Các doanh nghiệp thương mại – dòch vụ, các doanh nghiệp sản xuất một loại
sản phẩm, các doanh nghiệp làm đại lý phân phối sản phẩm đều tỏ ra thích hợp với mô hình kế
toán một người.
Mẩu khảo sát sau cho thấy quy mô của sự phát triển mô hình kế toán một người

trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa bàn Tỉnh Đồng Nai.
MẨU KHẢO SÁT CÔNG TÁC KẾ TOÁN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
Đòa điểm khảo sát

Tổng số doanh nghiệp

DN có một kế toán

- Huyện Long Thành

87

78

- Huyện Long Khánh

43

36

Cũng cần nói thêm, ngoài các doanh nghiệp đã đăng ký hoạt động theo Luật
doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty, nay là Luật doanh nghiệp, một số các cơ sở kinh doanh
đăng ký hoạt động theo nghò đònh số 66/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính Phủ),
gọi tắt là hộ 66, có nghiệp vụ sản xuất kinh doanh đơn giản như: các cửa hàng cho thuê băng
hình, cửa hàng kinh doanh chất đốt, nhiên liệu, cơ sở sản xuất gạch ngói… Từ đầu năm 1999, do
áp dụng hình thức kê khai thuế Giá trò gia tăng theo phương pháp khấu trừ và sử dụng hoá đơn
giá trò gia tăng, nên đã tiến hành tổ chức công tác kế toán. Tất cả các dạng cơ sở nói trên, khi
tổ chức công tác kế toán đều áp dụng mô hình kế toán một người.
2.1.2/ Về tốc độ phát triển:

Dưới tác động của Luật thuế Giá trò gia tăng, mô hình kế toán một người phát
triển với một tốc độ khá cao, lan rộng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa bàn
tỉnh Đồng Nai.
Hầu hết các doanh nghiệp áp dụng mô hình này trước thời điểm năm 1999, nay
vẫn tiếp tục sử dụng, trên cơ sở cập nhật các phần mềm kế toán, làm công cụ phục vụ đắc lực
cho doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp lần đầu tiên tổ chức ghi sổ kế toán, tất cả đều lựa
chọn mô hình kế toán một người. Đa số các công việc kế toán ban đầu đều được thực hiện bằng
phương pháp thủ công. Sau đó, khi nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều hơn; thì doanh nghiệp sẽ

Trang 13


tăng cường hổ trợ công tác kế toán bằng máy vi tính, qua các phần mềm ứng dụng hoặc phần
mềm kế toán chuyên biệt. Chủ doanh nghiệp thường thiên về xu hướng tăng cường các trang bò
kỹ thuật tin học cho công tác kế toán khi khối lượng công việc tăng lên, mà không chọn phương
án tuyển thêm nhân sự về kế toán. Tâm lý các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngại một
bộ máy quản lý cồng kềnh, ngại thông tin bên trong doanh nghiệp bò tiết lộ, thích đơn giản và
tiết kiệm chi phí.
2.1.3/ Về hình thức tổ chức:
Nhìn chung, mô hình kế toán một người trong các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên đòa bàn Tỉnh Đồng Nai được tổ chức theo các hình thức sau:
2.1.3.1/ Tự làm:
Đối với các doanh nghiệp có nghiệp vụ kinh tế đơn giản, đồng thời chủ doanh
nghiệp (hoặc gia đình của chủ doanh nghiệp) có kiến thức nhất đònh về công tác kế toán, có
khả năng tự lập các báo cáo thuế, báo cáo kế toán, bao cáo thống kê… cũng như tự vào sổ kế
toán. Tất nhiên, trên các báo cáo kế toán, các chữ ký của người kế toán và chủ doanh nghiệp là
khác nhau.
Hình thức này chỉ xuất hiện trong loại hình doanh nghiệp tư nhân, thuộc thành
phần kinh tế tư nhân trong nước.

2.1.3.2/ Giao khoán:
Đối với các doanh nghiệp không có khả năng tự làm, nhưng nghiệp vụ kinh tế
phát sinh đơn giản, không nhất thiết phải thuê kế toán viên, mà chỉ thuê công việc kế toán
hàng tháng. Người được thuê không bắt buộc phải có mặt thường xuyên tại doanh nghiệp. Các
công việc được thuê cụ thể như sau:
-

Lập chứng từ ban đầu: Chủ doanh nghiệp cung cấp hóa đơn đầu vào, hóa đơn đầu
ra, và các chứng từ bên ngoài. Kế toán có trách nhiệm lập các chứng từ còn lại
như: phiếu thu, phiếu chi, phiếu nhập kho, phiếu xuất kho nội bộ…
Đònh kỳ 10 ngày hoặc 15 ngày mỗi tháng, kế toán đến các doanh nghiệp để lập
các chứng từ ban đầu. Ở một số các doanh nghiệp, kế toán có thể đem các chứng
từ, tài liệu do chủ doanh nghiệp cung cấp về vào sổ tại nhà, hôm sau mới giao lại
cho doanh nghiệp.

Trang 14


-

Ghi chép sổ sách kế toán: Căn cứ vào các chứng từ ban đầu đã lập, kế toán vào sổ
kế toán chi tiết và sổ kế toán tổng hợp theo đònh kỳ hàng tháng hoặc nữa tháng.

-

Lập báo cáo thuế, báo cáo kế toán, báo cáo thống kê: Đònh kỳ hàng tháng, quý,
năm… Kế toán sẽ lập các báo cáo thuế, báo cáo kế toán, báo cáo thống kê theo
yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước. Thông thường, chủ doanh nghiệp sẽ
thanh toán tiền lương hàng tháng sau khi kế toán viên đã lập xong các báo cáo
theo yêu cầu.


-

Các công việc khác: Ngoài các công việc kê trên, người kế toán còn phải làm
thêm một số công việc có liên quan khi các cơ quan quản lý nhà nước có yêu cầu
như:
-

Lập dự toán thu chi hàng năm

-

Khai trên các phiếu kê khai, phiếu điều tra doanh nghiệp…

-

Lập danh sách trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…

-

Thảo công văn về các vấn đề kế toán, tài chính, thống kê trong doanh
nghiệp trình các cơ quan quản lý nhà nước theo yêu cầu của chủ doanh
nghiệp.

-

Tiếp và giải trình về sổ sách kế toán đối với các đoàn kiểm tra của các cơ
quan có thẩm quyền.

Hình thức giao khoán kế toán này thường xuất hiện trong các doanh nghiệp tư nhân,

các công ty trách nhiệm hữu hạn thuộc thành phần kinh tế tư nhân trong nước.
2.1.3.3/ Thuê kế toán:
Đây là hình thức kế toán cao nhất trong các hình thức tổ chức mô hình kế toán một
người. Trong trường hợp này, chủ doanh nghiệp sẽ giao các công việc cho kế toán tương tự như
trường hợp giao khoán đã nêu ở trên. Tuy nhiên người kế toán phải có mặt thường xuyên tại
doanh nghiệp mỗi ngày. Ở một số doanh nghiệp, kế toán còn được giao thêm việc lập các hóa
đơn đầu ra và lập các báo cáo kế toán quản trò khác, do chủ doanh nghiệp yêu cầu.
Hình thức này xuất hiện phổ biến trong các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
nhân. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nếu áp dụng mô hình kế
toán một người, chỉ áp dụng theo hình thức này.

Trang 15


Mẫu khảo sát dưới đây cho thấy sự tồn tại của 3 hình thức tổ chức mô hình kế toán
một người trong các doanh nghiệp trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai:

Hình thức tổ chức

Huyện Long Thành

Huyện Long Khánh

Tự làm

5

4

Giao khoán công việc


62

23

Thuê kế toán

11

9

78

36

Cộng:

2.2/ Những ưu điểm của mô hình kế toán một người:
2.2.1/ Chi phí thấp:
Ưu điểm đầu tiên của mô hình kế toán một người là có chi phí thấp.
Đây chính là ưu điểm lớn nhất, đủ để thu hút các chủ doanh nghiệp lựa chọn mô hình
kế toán một người. Rõ ràng là sự trả công cho một lao động bao giờ cũng thấp hơn là sự trả
công cho hai lao động.
Đối với các trường hợp giao khoán, mức trả công thông thường từ 300.000 đ/tháng –
600.000 đ/tháng; trong các trường hợp thuê kế toán trực tiếp, mức lương dao động từ 600.000
đ/tháng – 2.000.000 đ/tháng đối với các doanh nghiệp trong nước, và từ 1.500.000 đ/tháng đến
5.000.000 đ/tháng đối với các doanh nghiệp nước ngoài.
2.2.2/ Bộ máy đơn giản:
Ưu điểm thứ hai của mô hình kế toán một người là sự đơn giản của bộ máy kế toán.
Qua các hình thức tổ chức kế toán vừa nêu ở trên, có thể nhận ra ngay đây chính là

hình thức tối giản mà bộ máy kế toán có thể có. Sự đơn giản trong tổ chức bộ máy chính là ưu
thế so với các mô hình tổ chức bộ máy kế toán khác, vì trong các doanh nghiệp trên đòa bàn
Tỉnh Đồng Nai, phần lớn là doanh nghiệp nhỏ, đều thích sự đơn giản trong bộ máy kế toán nói
riêng, cũng như bộ máy quản lý nói chung.
Tính đơn giản của bộ máy còn giúp cho chủ doanh nghiệp có thể cải cách, thay đổi bộ
máy kế toán cho phù hợp với tình hình phát triển của doanh nghiệp.
2.2.3/ Tính linh hoạt cao:

Trang 16


Ưu điểm thứ ba của mô hình là tính linh hoạt và khả năng thích ứng cao của bộ máy
kế toán.
Do chỉ có một kế toán, việc điều chỉnh, sửa chữa các bút toán khi phát hiện sai sót
được thực hiện một cách nhanh chóng, nhất là trong điều kiện có máy vi tính hổ trợ. Các yêu
cầu điều chỉnh của chủ doanh nghiệp về mặt kế toán như: điều chỉnh dự toán, bổ sung nghiệp
vụ kinh tế phát sinh, thay đổi mức phân bổ đònh kỳ… đều được đáp ứng kòp thời.
Khả năng thích ứng cao của mô hình còn thể hiện qua việc thay đổi các phương pháp
kế toán dễ dàng tại thời điểm đầu năm tài chính. Theo yêu cầu của chủ doanh nghiệp, kế toán
có thể lưạ chọn, thay đổi các phương pháp kế toán trong việc xác đònh vật tư, hàng hóa tồn kho
(bằng phương pháp kê khai thường xuyên hoặc đònh kỳ); trong việc xác đònh giá vốn hàng bán
(bằng phương pháp thực tế đích danh, nhập trước xuất trước, nhập sau xuất trước hoặc bình
quân gia quyền) cũng như các phương pháp xác đònh sản phẩm dở dang cuối kỳ; các phương
pháp tập hợp, phân bổ chi phí và các phương pháp tính giá thành sản phẩm.

2.2.4/ Trách nhiệm cụ thể:
Ưu điểm thứ tư của mô hình kế toán một người là việc chòu trách nhiệm cụ thể
của bộ máy kế toán.
Tất nhiên, trong mọi trường hợp, chủ doanh nghiệp sẽ là người chòu trách nhiệm
chính về báo cáo tài chính cũng như các báo cáo khác của doanh nghiệp mình.

Trách nhiệm ở đây được xác đònh trong phạm vi nội bộ doanh nghiệp, cụ thể là
giữa chủ doanh nghiệp và kế toán. Sau khi nhận các chứng từ đầu vào và đầu ra, kế toán có
trách nhiệm hoàn thành các sổ sách và lập các báo cáo theo yêu cầu. Các sai sót trong quá
trình lập sổ sách cũng như các báo cáo kế toán, thống kê; các báo cáo thuế, thuộc về trách
nhiệm của người kế toán, và duy nhất một người chòu trách nhiệm.
Ưu điểm này còn thể hiện ở chỗ, người kế toán không biết, và không chòu trách
nhiệm về các gian lận của doanh nghiệp, thường xuất hiện theo các chứng từ đầu vào hoặc đầu
ra. Điều này thể hiện rõ trong các trường hợp giao khoán việc cho kế toán: chủ doanh nghiệp
chòu toàn bộ trách nhiệm về tính hợp pháp của chứng từ ban đầu mà mình cung cấp. Do vậy,
khả năng gian lận của kế toán chắc chắn không thể xảy ra, trừ trường hợp có thỏa thuận với

Trang 17


chủ doanh nghiệp, hoặc bản thân kế toán tham gia vào việc lập các chứng từ đầu vào hoặc đầu
ra.
Trên đây là các ưu thế cơ bản của mô hình kế toán một người trong các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai. Chính các ưu thế này đã tạo sức thu hút
các chủ doanh nghiệp lựa chọn mô hình này khi cần thiết phải tổ chức công tác kế toán trong
doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, mô hình kế toán một người tồn tại
nhiều hạn chế, mà chúng ta sẽ xem xét lần lượt sau đây.
2.3/ Các hạn chế của mô hình kế toán một người:
2.3.1/ Thông tin ban đầu có độ tin cậy thấp:
Các thông tin ban đầu bao gồm các chứng từ ban đầu, các hợp đồng, các tài liệu mà
chủ doanh nghiệp cung cấp cho kế toán để làm căn cứ ghi sổ. Quá trình cung cấp thông tin có
thể gặp phải các sai sót vi phạm tính có thực và tính đầy đủ. Cụ thể như sau:
- Không đảm bảo tính có thực:
Có một số trường hợp, giá trò mà chứng từ ban đầu phản ảnh không hoàn toàn phù
hợp với nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Ví dụ:

-

Đối với các doanh nghiệp thu mua nông sản, chứng từ ban đầu là các bảng kê mua
hàng của nông dân. Thông thường các bảng kê mua hàng thường có giá thống
nhất (theo thời điểm). Tuy nhiên, thực tế ai cũng biết là nông sản luôn luôn có sự
khác biệt về ẩm độ, màu sắc, mùi vò… dẫn đến chắc chắn có sự khác biệt về giá
cả (tính cho cùng một thời điểm thu mua).

-

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, có tình trạng các biên bản kiểm
kê tồn kho luôn luôn khớp đúng với số lượng trên sổ sách. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy luôn có sự sai biệt do chênh lệch hao hụt trong quá trình nhập xuất xăng dầu.

-

Đối với các doanh nghiệp thuộc loại hình doanh nghiệp tư nhân, hóa đơn tiền
điện và hóa đơn tiền điện thoại hàng tháng được thanh toán đủ, mặc dù thực tế
khoản chi này đã bao hàm chi sinh hoạt của gia đình doanh nghiệp.

-

Không đảm bảo tính đầy đủ:

Trang 18


Trong điều kiện việc lưu hành hóa đơn chưa đều khắp trên thò trường hiện nay, việc
xác đònh các khoản chi cho các chứng từ đầu vào một cách đầy đủ là một việc làm hết
sức khó khăn đối với một số loại hình doanh nghiệp.

Ví dụ:
-

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng dòch vụ ăn uống, hóa đơn đầu vào
bao gồm rất nhiều mặt hàng chợ như: rau quả, thực phẩm tươi sống, thực phẩm
chế biến… Các mặt hàng này do rất nhiều người cung cấp, mà trong đó không phải
ai cũng có đăng ký kinh doanh và nhận hóa đơn tài chính. Để hợp thức hóa chứng
từ đầu vào, các doanh nghiệp này thường yêu cầu một trong những người cung cấp
(thường là nhà cung cấp chủ yếu nhất, đồng thời phải có hoá đơn tài chính), ghi
tổng hợp tất cả các mặt hàng vào một hóa đơn, để làm chứng từ đầu vào.

-

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh có phát sinh các khoản chi phí vận chuyển
bằng xe thô sơ (xe xích lô, xe ba gác), thì không thể kê các khoản chi phí này vào
sổ kế toán.

-

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xe máy đã qua sử dụng, các khoản chi sửa
chữa, tân trang xe được cơ quan thuế ấn đònh mức trần cho chi phí sửa chữa, tân
trang. Các khoản chi vượt quá mức trần sẽ không được phản ảnh vào sổ sách kế
toán.

Theo báo cáo kết quả kiểm tra ngày 26/04/1997

của Thanh tra Sở Thương Mại-

Du Lòch Tỉnh Đồng Nai có đoạn:
“ Qua kiểm tra các cửa hàng, Đoàn Thanh tra nhận thấy các loại xe máy giữa khâu

nhập và khâu xuất đã có phát sinh khoản chi phí sửa chữa, tân trang. Tuy nhiên trong
chi phí của công ty chỉ phản ảnh một phần nhỏ khoản chi phí này. Kế toán đơn vò công
ty cho biết đã thực hiện theo tinh thần công văn số 525/CV-NV ngày 13/8/1996 của Cục
Thuế Tỉnh Đồng Nai gửi các Chi cục Thuế quy đònh các đònh mức chi phí cho một chiếc
xe bán ra”
2.3.2/ Không đảm bảo đầy đủ nội dung tổ chức công tác kế toán:
Ở phần ưu điểm trên có nêu, tính đơn giản là một trong những ưu thế của mô hình kế
toán một người. Tuy nhiên do chỉ có một người, một số công việc kế toán đã không được thực

Trang 19


hiện trong kỳ kế toán. Xét trên góc độ tổ chức công việc, tính đơn giản của mô hình kế toán
một người lại là một hạn chế trong quá trình thực hiện nội dung tổ chức công tác kế toán.
Đối chiếu với nội dung tổ chức kế toán đã nêu ở phần cơ sở lý luận, có thể có những
thiếu sót trong mô hình kế toán một người như sau:
2.3.2.1/ Về tổ chức vận dụng hệ thống chứng từ kế toán:
Trừ các doanh nghiệp có trang bò phần mềm kế toán, trong đó mẫu các chứng từ được
tạo lập sẵn trên máy; các doanh nghiệp thực hiện tổ chức công tác kế toán bằng phương pháp
thủ công bỏ qua việc lập các chứng từ kế toán rất nhiều. Thông thường ngoài các chứng từ cung
cấp và các hóa đơn giá trò gia tăng do doanh nghiệp lập, kế toán doanh nghiệp chỉ tập trung lập
các chứng từ ban đầu như: phiếu thu, phiếu chi, phiếu nhập kho.
Việc bảo quản, lưu trữ chứng từ ban đầu cũng gặp nhiều trở ngại. Do đặc thù của mô
hình, nên người kế toán có trách nhiệm lập và ghi vào sổ các chứng từ ban đầu, tuy nhiên việc
lưu giữ lại thuộc về trách nhiệm của chủ doanh nghiệp. Trong các trường hợp giao khoán công
việc kế toán, khi giao nhận và bàn giao lại các chứng từ kế toán, thường không có các biên bản
giao nhận, bàn giao chứng từ kế toán, chỉ dựa vào lòng tin là chủ yếu. Cho đến nay, chưa phát
hiện các trường hợp nào về thất lạc chứng từ ban đầu, nhưng chính thủ tục giao nhận này đã tạo
ra khe hở, không thể quy trách nhiệm cụ thể một khi trường hợp thất thoát chứng từ xảy ra.
2.3.2.2/ Về tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán:

Phần lớn các doanh nghiệp sử dụng hệ thống tài khoản áp dụng cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (ban hành theo quyết đònh số 1177-TC/QĐ/CĐKT ngày 23 tháng 12 năm 1996 của
Bộ tài Chính). Tuy nhiên, việc vận dụng hệ thống tài khoản kế toán chưa đảm bảo phản ảnh
đầy đủ, cụ thể mọi nội dung hạch toán, mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, cụ thể như
sau:
-

Không thực hiện các nghiệp vụ trích trước (như trích trước lương), chỉ kết chuyển
lương thực tế phát sinh vào giá thành hoặc chi phí quản lý.

-

Không thực hiện các nghiệp vụ phân bổ như phân bổ lương, phân bổ khấu hao,
phân bổ nguyện liệu, công cụ, dụng cụ… xuất dùng vào các đối tượng tính giá
thành có liên quan. Thông thường, kế toán doanh nghiệp kết chuyển thẳng vào tài
khoản giá thành (TK 154) hoặc chi phí quản lý ( TK 642).

Trang 20


-

Theo dõi ngoài sổ kế toán một số loại nghiệp vụ kinh tế: Nhằm đơn giản hóa một
số nghiệp vụ kinh tế phát sinh, doanh nghiệp đã bỏ qua việc ghi chép vào các tài
khoản có liên quan như: tài khoản tạm ứng ( TK 141); Hàng mua đang đi trên
đường (TK 151) Phải thu của khách hàng (TK 131 – đối với những khách hàng có
công nợ nhỏ và thường xuyên). Các nghiệp vụ kinh tế này sẽ được doanh nghiệp
theo dõi vào sổ riêng, không vào sổ kế toán.
Ví dụ:
-


Trường hợp tạm ứng cho người lao động:

Khi người lao động tạm ứng, doanh nghiệp sẽ ghi sổ riêng, khi hoàn ứng, nếu
hoàn ứng bằng cách trừ lương, doanh nghiệp sẽ làm phiếu chi lương, đồng thời
gạch sổ riêng ( phần tạm ứng); nếu hoàn ứng bằng chứng từ mua hàng, doanh
nghiệp sẽ lập phiếu chi mua hàng, đồng thời gạch sổ riêng (phần tạm ứng). Rõ
ràng là trong hai trường hợp trên, nghiệp vụ tạm ứng đã không vào sổ kế toán.
-

Trường hợp hàng mua đang đi trên đường:

Khi gửi tiền đi mua hàng, doanh nghiệp sẽ ghi sổ riêng, Khi hàng mua về, kế toán sẽ
làm phiếu nhập kho và phiếu chi mua hàng, doanh nghiệp sẽ gạch sổ riêng (phần tiền
gửi đi). Trong trường hợp này nghiệp vụ gửi tiền đi mua hàng đã không được vào sổ
kế toán.
2.3.2.3/ Tổ chức lựa chọn vận dụng hình thức kế toán thích hợp:
Hầu hết các doanh nghiệp thực hiện tổ chức kế toán theo mô hình kế toán một người
đều áp dụng hình thức kế toán chứng từ ghi sổ. Tuy nhiên, hệ thống sổ sách kế toán chi tiết và
sổ sách kế toán tổng hợp còn rất đơn giản, còn bỏ qua nhiều sổ như: sổ theo dõi khấu hao tài
sản cố đònh, sổ lương (đối với các doanh nghiệp thương mại), sổ đăng ký chứng từ ghi sổ, sổ
thanh toán với ngân sách….
Việc tổ chức ghi sổ cái cũng rất đơn giản. Kế toán doanh nghiệp sẽ tập hợp các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh cùng nội dung (cùng đònh khoản) vào một dòng trên một tờ chứng
từ ghi sổ, sau đó ghi vào sổ cái. Bằng vào cách ghi này, sổ cái trở nên đơn giản hơn, và thông
thường chỉ cần một quyển sổ cái đã đủ dùng cho một năm tài chính.
2.3.2.4/ Tổ chức lập báo cáo kế toán, báo cáo thống kê, báo cáo thuế:

Trang 21



Nội dung này được thực hiện tương đối đầy đủ, do yêu cầu của các cơ quan quản lý
nhà nước, trước hết là cơ quan thuế. Ở một số doanh nghiệp, do độ tin cậy của thông tin ban
đầu không cao, mức độ quan tâm đến báo cáo kế toán của chủ doanh nghiệp rất thấp, chỉ xoay
quanh các chỉ tiêu nộp thuế. Riêng các báo cáo quản trò, trừ các doanh nghiệp nước ngoài, các
doanh nghiệp trong nước thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thường không yêu cầu kế
toán lập và cung cấp các thông tin về kế toán quản trò.
Ngược lại, các báo cáo thuế, báo cáo kế toán, thống kê đònh kỳ của doanh nghiệp đều
được kế toán lập và cung cấp kòp thời theo đúng yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước, và
số liệu trên các báo cáo này cũng phù hợp với số liệu trên các sổ sách kế toán của doanh
nghiệp, các sai sót nghiệp vụ thuộc lónh vực này thường ít khi xảy ra.
2.3.2.5/ Về tổ chức bộ máy kế toán:
Như tên của đề tài, đây chính là sự tối giản của việc tổ chức bộ máy kế toán. Rõ ràng
ở đây không có sự lựa chọn về mô hình, sự xác đònh phần hành kế toán và sự lựa chọn trong
phân công lao động kế toán.
Đối chiếu với cơ sở lý luận về công tác tổ chức kế toán trong doanh nghiệp , hiệu quả
của việc tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình kế toán một người đạt về mặt tiết kiệm chi phí,
nhưng chưa đạt về tính đầy đủ, chính xác của thông tin.
2.3.2.6/ Về tổ chức kiểm tra kế toán và kiểm toán nội bộ:
Đây là một khâu không thể thực hiện được trong mô hình kế toán một người. Thông
thường kế toán chỉ kiểm tra, đối chiếu các số liệu khi tiến hành lập bảng cân đối số phát sinh
hàng tháng. Nếu bảng cân đối đã lập, coi như các số liệu đã đúng. Đối với các trường hợp bảng
cân đối được lập từ các phần mềm kế toán thì rủi ro còn cao hơn, vì kế toán không thể phát
hiện các sai sót của mình trong quá trình nhập dữ liệu ban đầu. Một trong các biện pháp kiểm
tra cuối cùng là đối chiếu với các biên bản kiểm kê vật tư, hàng hóa tồn kho; biên bản đối
chiếu công nợ cuối kỳ… cũng không có tác dụng, khi kế toán sử dụng số liệu ghi trên sổ sách kế
toán để lập các biên bản kiểm kê này.
Sự yếu kém trong công tác kiểm tra kế toán tại các doanh nghiệp cũng góp phần tạo
điều kiện cho các gian lận được thực hiện từ phía chủ doanh nghiệp. Các gian lận thường xuất
hiện trên thò trường hiện nay bao gồm : sử dụng hóa đơn giả hoặc hóa đơn thật nhưng nghiệp vụ

kinh tế phát sinh không có thật; bỏ bớt hoá đơn đầu vào và hoá đơn đầu ra nhằm giảm thuế giá

Trang 22


trò gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp; kê tăng các khoản chi phí, thay đổi các khoản công
nợ nhằm làm thay đổi kết quả kinh doanh theo hướng giảm thuế phải nộp. Điều đáng nói là khi
phát hiện các gian lận của doanh nghiệp, các đoàn kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý
nhà nước đều thừa nhận rằng, số liệu trên sổ sách kế toán là phù hợp và khớp đúng từ khâu lập
chứng từ ban đầu đến khâu lập báo cáo kế toán, báo cáo thống kê.
Tại báo cáo kết quả kiểm tra số 16/TM-TTr ngày 3/5/1999 của Thanh tra Sở Thương
Mại và Du Lòch tỉnh Đồng Nai, phần kết luận có đoạn:
“ 3/ Về kết quả kinh doanh năm 1998:
Việc doanh nghiệp không đưa vào sổ sách kế toán 5 hoá đơn mua hàng tổng trò giá
189.360.000 đồng là vi phạm vào pháp lệnh kế toán thống kê, và làm thất thu ngân sách số tiền
2.991.888 đồng.
4/ Thực hiện hạch toán kế toán và báo cáo thống kê:
-

Doanh nghiệp tổ chức ghi chép chứng từ ban đầu phù hợp với các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh. Các hoá đơn doanh nghiệp sử dụng đều do Bộ Tài Chính phát hành.

-

Doanh nghiệp mở các loại sổ chi tiết, ghi chép rõ ràng đúng với các chứng từ ban
đầu.

-

Về hạch toán tổng hợp, doanh nghiệp tập hợp các chứng từ ban đầu theo cùng loại

nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

-

Doanh nghiệp đã lập các báo cáo kế toán đònh kỳ, số liệu phản ảnh trên các báo
cáo kế toán phù hợp với các sổ chi tiết, sổ tổng hợp của doanh nghiệp.”

Qua nhận đònh của báo cáo kiểm tra nói trên, có thể thấy được rằng: mặc dù sổ sách
kế toán của doanh nghiệp đầy đủ, chứng từ kế toán hợp lệ nhưng gian lận kế toán vẫn xảy ra.
2.3.2.7/ Đánh giá các hạn chế của mô hình kế toán một người trong các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai:
Để đánh giá đúng các hạn chế của mô hình kế toán một người chúng ta cần quay lại
động cơ của việc tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai.
Với yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể được quy đònh trong luật Doanh
nghiệp và luật Thuế Giá trò gia tăng, đối tượng được cung cấp thông tin kế toán – tài chính của
doanh nghiệp là đối tượng bên ngoài, chủ yếu là cơ quan thuế và các cơ quan quản lý nhà nước
khác.

Trang 23


Xuất phát từ yêu cầu trên, mục đích của công tác kế toán doanh nghiệp là cung cấp
kòp thời các thông tin qua các báo cáo thuế, báo cáo kế toán, báo cáo thống kê…. theo quy đònh
hiện hành.
Đa số các chủ doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
trong nước, thường không quan tâm đến nội dung của các thông tin kế toán do mình lập nên,
và chính đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến các hạn chế của mô hình kế toán một người trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai.
Công ty liên doanh Sáng Tạo, một doanh nghiệp liên doanh giữa Công ty trách nhiệm

hữu hạn Tân Sáng Tạo (loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn) và Công ty Industrial
Switchgear Pty LTD – Australia (doanh nghiệp nước ngoài), áp dụng mô hình kế toán một
người, một trong các doanh nghiệp hiếm hoi phát huy toàn bộ ưu thế của mô hình, và không hề
vướng vào các hạn chế như đã nên trên.
Với sự trang bò của phần mềm kế toán, mức lương của kế toán là 500 USD/tháng,
doanh nghiệp đã cung cấp đầy đủ các thông tin kế toán tài chính, kế toán quản trò cho các cơ
quan nhà nước, các bên liên doanh, các ngân hàng… một cách trung thực, khách quan và kòp
thời.
Chính từ đây, vấn đề then chốt đặt ra để giải quyết các hạn chế của mô hình kế toán
một người là sự quan tâm của chủ doanh nghiệp đến việc tổ chức công tác kế toán trong doanh
nghiệp mình. Nếu chủ doanh nghiệp thực sự quan tâm đến các thông tin kế toán – tài chính của
doanh nghiệp, tất yếu sẽ đầu tư nhiều hơn về trang bò kỹ thuật, phương tiện cho công tác tổ
chức kế toán, tiền lương của người kế toán sẽ được nâng cao hơn, và đây sẽ là tiền đề cơ bản
nhằm hoàn thiện mô hình kế toán một người trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa
bàn tỉnh Đồng Nai.
Từ các nhận đònh trên, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện mô
hình kế toán một người trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai.
Chương III:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM HOÀN THIỆN MÔ HÌNH KẾ TOÁN
MỘT NGƯỜI TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐỒNG NAI.

Trang 24


×