Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Xã hội càng phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh càng đợc mở rộng,
càng mang tính đa dạng, phức tạp thì nhu cầu thông tin càng trở nên bức thiết
và quan trọng.
Kế toán với chức năng thông tin và kiểm tra các hoạt động kinh tế - xã
hội của một tổ chức để phục vụ nhu cầu quản lý của các đối tợng bên trong và
bên ngoài tổ chức, doanh nghiệp còn có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay- giai đoạn toàn cầu hoá nền kinh tế , sự cạnh tranh mang tính
chất phức tạp, khốc liệt. Có thể nói, chính chất lợng và hiệu quả của công tác kế
toán ảnh hởng trực tiếp đến chất lợng và hiệu quả quản lý, điều hành tổ chức để
đạt đợc các mục tiêu đã đề ra.
Xuất phát từ yêu cầu và tính chất thông tin cung cấp cho các đối tợng bên
trong và bên ngoài tổ chức có sự khác biệt nên thông tin kế toán đợc phân biệt
thành thông tin KTTC và thông tin KTQT. Mặc dù KTQT mới đợc phát triển
trong giai đoạn gần đây nhng đã minh chứng đợc sự cần thiết và quan trọng của
nó đối với công tác quản trị, điều hành các tổ chức, doanh nghiệp , đặc biệt là
những đơn vị có quy mô lớn, hoạt động đa lĩnh vực, đa ngành trong phạm vi
rộng. KTQT đã, đang và dần trở thành công cụ khoa học giúp nhà quản trị thực
hiện tốt các chức năng hoạt động, kiểm soát và ra quyết định.
ở nớc ta, KTQT mới chỉ đợc đề cập và vận dụng trong thời gian gần đây.
Vì thế, việc hiểu để ứng dụng có hiệu qủa KTQT ở các doanh nghiệp có ý
nghĩa lớn lao để tăng cờng khả năng hội nhập, tạo nên sự an toàn cho nhà quản
trị khi có trong tay một công cụ khoa học hỗ trợ cho quá trình quản lý, điều
1
hành doanh nghiệp. Do vậy, xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức công tác
KTQT trong các doanh nghiệp nói chung và các DNKDDP nói riêng là một vấn
đề hết sức cần thiết. Đây chính là lý do tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài:
" Hoàn thiện mô hình KTQT trong các
doanh nghiệp Dợc phẩm"
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Đề tài góp phần làm rõ bản chất, nôị dung, phơng pháp nghiên cứu và
việc tổ chức công tác KTQT trong các DNKDDP.
- Thông qua việc nghiên cứu thực tế, đánh giá thực trạng KTQT trong các
DNKDDP ở Việt Nam, từ đó đa ra mô hình tổ chức công tác KTQT trong các
đơn vị này.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
Trọng tâm nghiên cứu của luận văn là xác định nội dung KTQT, nghiên
cứu thực trạng kế toán chi phí, doanh thu và kết quả ở các DNKDDP ở nớc ta,
từ đó đa ra phơng hớng mô hình tổ chức công tác KTQT ở các DNKDDP.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Luận văn đã trình bày và làm rõ sự cần thiết, cơ sở lý luận và thực tiễn
của tổ chức công tác KTQT trong các DNKDDP.
Qua việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng KTQT trong các DNKDDP,
luận văn đã phân tích những vấn đề còn hạn chế, nguyên nhân của những hạn
chế đó và đa ra các giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác KTQT trong các
DNKDDP.
5. Kết cấu của luận văn.
2
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đợc chia thành 3 chơng, cụ thể
nh sau:
Chơng 1 : Lý luận chung về KTQT trong doanh nghiệp.
Chơng 2 : Thực trạng và tổ chức công tác KTQT trong các
DNKDDP ở Việt Nam hiện nay.
Chơng 3 : Phơng hớng tổ chức công tác KTQT trong các DNKDDP
ở Việt Nam hiện nay.
3
Chơng 1:
lý luận chung về KTQT trong doanh nghiệp
1.1. Khái quát chung về KTQT.
1.1.1. Khái niệm:
Trớc đây, ngời ta chỉ đơn thuần định nghĩa kế toán nh là một công việc
giữ sổ sách của nhân viên kế toán. Năm 1941, việc các giám định viên kế toán
( Anurican Institute of Certified Public Accountants - AICPA) đã định nghĩa: "
Kế toán là một nghệ thuật của việc ghi chép, phân loại và tổng hợp bằng một
phơng pháp riêng và ghi bằng tiền các nghiệp vụ, sự kiện có tính chất tài chính
và giải thích kết quả của nó ". Cách định nghĩa này về kế toán dù sao cũng đợc
phổ biến rộng rãi.
Năm 1970, tổ chức AICPA xác định chức năng của kế toán là cung cấp
thông tin, nhất là thông tin về tài chính có ích để các tổ chức kinh tế thực hiện
việc ra quyết định ( mỗi đơn vị kinh tế là một đơn vị hạch toán độc lập).
Vậy có thể hiểu, kế toán là khoa học và nghệ thuật thu nhận, xử lý và
cung cấp thông tin ở doanh nghiệp mà thông tin đó có bản chất về kinh tế .
Trong các doanh nghiệp, thông tin kế toán không những cần thiết cho những
ngời ra quyết định quản lý bên trong đơn vị nh: Ông chủ, các nhà quản trị mà
còn cần thiết cho các đối tợng bên ngoài nh: Chủ đầu t, bạn hàng, ngân hàng, cơ
quan quản lý chức năng Do mục đích sử dụng thông tin của các đối t ợng khác
nhau nên thông tin do kế toán cung cấp cũng đa dạng và khác nhau về nội dung,
phạm vi, mức độ, tính chất và thời gian cung cấp, kể cả về mặt gía trị pháp lý
của thông tin. Chính vì lý do này mà kế toán doanh nghiệp đợc chia thành
KTTC và KTQT.
4
KTQT đa ra tất cả các loại thông tin kinh tế đã đợc đo lờng, xử lý và
cung cấp cho nội bộ sử dụng để ra quyết định và quản lý ; KTTC đa ra những
thông tin kế toán mà ngoài việc nó đợc sử dụng trong nội bộ ban quản lý, còn đ-
ợc cung cấp cho các tổ chức bên ngoài. Thông tin kế toán cung cấp, về bản chất,
thờng là thông tin kinh tế - tài chính định lợng và thông tin này giúp cho các
nhà quản trị hoàn thành các chức năng lập kế hoạch, tổ chức điều hành, kiểm
tra và ra quyết định. Trong môi trờng kinh doanh hiện nay, nhu cầu về thông tin
trong công tác quản lý đã có sự gia tăng rất lớn và đa dạng do áp lực của những
thay đổi nhanh chóng của các vấn đề nh : Toàn cầu hoá, sự cạnh tranh, sự tiến
bộ khoa học kỹ thuật Chính điều này và kết hợp với sự tiến bộ trình độ giáo
dục, trình độ chuyên môn kế toán đã làm cho kế toán phát triển sâu rộng hơn về
tính chất và đặc điểm thông tin cần phải cung cấp. Kế toán không chỉ dừng lại ở
việc cung cấp thông tin mang tính nguyên tắc mà đòi hỏi phải linh hoạt, kịp
thời, hữu ích. Đồng thời, thông tin kế toán cũng phải đảm bảo tính đơn giản,
nhanh chóng nhằm hỗ trợ đắc lực cho nhà quản trị trong môi trờng kinh doanh
mới.
Đến nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về KTQT . Ta có thể hiểu
thông qua một số khái niệm sau:
Theo GS,TS Ronald. W. Hiton- Trờng đại học Cornelb của Mỹ: " KTQT
là một bộ phận của hệ thống thông tin quản trị trong các tổ chức mà các nhà
quản trị dựa vaò đó để hoạch định và kiểm soát các hoạt động của tổ chức".
Theo GS, TS Jack. L. Snit.M. Krith và Wiliam. L. Stephens ở Trờng Đại
học South Florida: " KTQT là một hệ thống kế toán cung cấp cho các nhà quản
trị những thông tin định lợng mà họ cần để hoạch định và kiểm soát".
Theo quan điểm của giáo trình KTQT - Học viện Tài chính xuất bản
năm 2002: " KTQT là một khoa học thu nhận, xử lý và cụ thể, phục vụ cho các
5
nhà quản lý trong việc lập kế hoạch , tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá
tình hình thực hiện kế hoạch các hoạt động của doanh nghiệp ".
Tóm lại, dù các khái niệm có khác nhau về mặt câu chữ nhng thâu tóm
lại có thể hiểu, KTQT là một bộ phận của công tác kế toán nói chung, đồng thời
là một công cụ không thể thiếu đợc đối với công tác quản lý nội bộ doanh
nghiệp thông qua KTQT , các thông tin về hoạt động kinh tế tài chính của
doanh nghiệp đợc trình bày, diễn giải một cách cụ thể, tỉ mỉ, đáp ứng yêu cầu
quản lý theo từng chỉ tiêu chi tiết và quản lý từng bộ phận doanh nghiệp. KTQT
là loại kế toán dành cho ngời làm công tác quản lý. Nó đợc coi nh một hệ thống
trợ giúp cho các nhà quản lý và quyết định, là phơng tiện để thực hiện kiểm soát
quản lý trong doanh nghiệp.
1.1.2. Đối tợng, mục tiêu và nhiệm vụ của KTQT.
1.1.2.1. Đối tợng của KTQT.
KTQT không những đợc áp dụng cho các doanh nghiệp mà còn đợc áp
dụng cả cho những tổ chức, các đoàn thể D ới đây chỉ đề cập đến đối tợng của
KTQT trong các doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
- KTQT không phản ánh toàn bộ đối tợng của kế toán nói chung, mà chỉ
phản ánh thông tin cụ thể về từng loại tài sản, từng loại chi phí sản xuất kinh
doanh hoặc từng qúa trình sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu quản trị
doanh nghiệp.
- KTTC phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp,
còn KTQT chỉ phản ánh từng phần hoạt động kinh tế tài chính đó.
1.1.2.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của KTQT.
Đối với KTQT, mô hình doanh nghiệp thể hiện dới dạng gắn các mục
đích mà doanh nghiệp theo đuổi với các nguồn lực mà doanh nghiệp có thể huy
động và với việc tiêu dùng các nguồn lực này ( thể hiện các chi phí ).Nh vậy,
6
mục tiêu của KTQT là liên kết giữa việc tiêu dùng các nguồn lực ( các chi phí )
và nhu cầu tài trợ với các nguyên nhân của việc tiêu dùng các nguồn lực đó
( các chi phí phát sinh).
Mục đích mà doanh nghiệp theo đuổi có thể rất đa dạng, nh: Bán đợc một
lợng hàng hoá nào đó; tôn trọng và thực hiện một thời hạn giao hàng cụ thể
Để thực hiện đựơc mục tiêu này, cần phải huy động các nguồn lực vào đầu t
thiết bị, dự trữ hàng tồn kho, lao động ( nhân công) nghĩa là doanh nghiệp
phải đơng đầu với một nhu cầu đầu t về vốn cố định và vốn lu động. Vì vậy,
một trong các nhiệm vụ của KTQT là tính toán và đa ra mô hình về nhu cầu vốn
( vốn lu động và vốn cố định) cho một loại sản phẩm một thời hạn giao hàng
nào đó.
Trong thực tế, KTQT phải tính toán, đo lờng giá phí, giá thành của từng
loại hàng tồn kho, từng sản phẩm , lao vụ, dịch vụ, từng loại tài sản cố định
cũng nh xác định chi phí theo từng địa điểm phát sinh của chi phí nhằm tăng c-
ờng trách nhiệm vật chất của các bộ phận, cá nhân trong doanh nghiệp , tăng c-
ờng hạch toán kinh tế nội bộ doanh nghiệp.
Việc đo lờng chi phí của một hoạt động theo một mục đích nào đó là kết
quả cụ thể của KTQT. Tuy nhiên, một nhiệm vụ quan trọng hơn của KTQT là
phải giúp nhà quản lý có những giải pháp tác động lên các chi phí này, nghĩa là
cần phải xác định nguyên nhân gây ra chi phí để có thể can thiệp, tác động vào
các nghiệp vụ, các hoạt động phát sinh các chi phí. Nghĩa là cần:
- Một mặt, phân tích một cách cụ thể để hiểu các chi phí đợc hình thành
nh thế nào.
- Mặt khác, khuyến khích những ngời, những bộ phận có khả năng tới
các thành phần chi phí làm việc phù hợp với chính sách và quy định của doanh
nghiệp nhằm tiết kiệm và hạ thấp chi phí một cách hợp lý nhất, đảm bảo mối
quan hệ tối u giữa chi phí - khối lợng- lợi nhuận.
7
Ngoài ra, KTQT còn giúp ngời ra quyết định lựa chọn các giải pháp phù
hợp khi lựa chọn phơng án kinh doanh.
1.1.3. KTQT với chức năng quản lý.
Trách nhiệm của các nhà quản trị doanh nghiệp là điều hành và quản lý
các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Các chức năng cơ bản của quản lý đợc
khái quát bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ số 1-1:
Các chức năng cơ bản của quản lý
Qua sơ đồ này, có thể thấy sự liên tục của hoạt động quản lý từ khâu lập
kế hoạch đến thực hiện, kiểm tra, đánh giá rồi sau đó quay lại khâu lập kế
hoạch cho kỳ sau, tất cả đều xoay quanh trục ra quyết định.
Nh vậy, để làm tốt chức năng quản lý, nhà quản trị phải có thông tin cần
thiết để có thể ra quyết định đúng đắn. KTQT là nguồn chủ yếu, dù không phải
là duy nhất, cung cấp thông tin đó. KTQT với chức năng quản lý thể hiện trong
các khâu của quá trình quản lý đợc thể hiện cụ thể nh sau:
8
Lập kế hoạch
Ra quyết định
Kiểm tra
Thực hiện
Đánh giá
* Lập kế hoạch :
Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu phải đạt và vạch ra các bớc thực
hiện để đạt đợc những mục tiêu đó. Đó có thể là kế hoạch dài hạn hoặc ngắn
hạn.
Để chức năng lập kế hoạch của quản lý đợc thực hiện tốt, để các kế
hoạch đợc lập đảm bảo tính khoa học và tính khả thi cao đòi hỏi phải dựa trên
những thông tin đầy đủ thích hợp và có cơ sở. Các thông tin này chủ yếu do
KTQT cung cấp.
* Tổ chức thực hiện.
Với chức năng tổ chức thực hiện, nhà quản trị phải biết cách liên kết tốt
nhất giữa các yếu tố, tổ chức, con ngời và các nguồn lực sao cho kế hoạch đợc
thực hiện ở mức cao nhất và hiệu quả nhất. Để thực hiện tốt chức năng này, nhà
quản trị cũng phải có nhu cầu rất lớn đối với các thông tin KTQT để có thể ra đ-
ợc các quyết định ngắn hạn cũng nh dài hạn đúng đắn và phù hợp.
* Kiểm tra và đánh giá.
Nhà quản trị sau khi đã lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực hiện
kế hoạch, đòi hỏi phải kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Để làm đợc
điều này, nhà quản trị cần đợc các kế toán viên quản trị cung cấp các báo cáo
thực hiện để nhận đợc những vấn đề còn tồn tại cần có tác động của quản lý.
Thông thờng, các nhà quản trị thừa hành thờng đánh giá từng phần trong
phạm vi kiểm soát của họ. Các nhà quản trị cấp cao hơn không tham gia trực
tiếp vào quá trình hoạt động hàng ngày mà đánh giá và kiểm tra dựa vào các
báo cáo thực hiện của từng bộ phận thừa hành do kế toán quản trị cung cấp.
* Ra quyết định.
Phần lớn thông tin do KTQT cung cấp nhằm phục vụ chức năng ra quyết
định của nhà quản trị. Đây là một chức năng quan trọng xuyên suốt các khâu
9
quản trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch tổ chức thực hiện, cho đến kiểm tra
và đánh giá.
KTQT giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định không chỉ bằng
cách cung cấp thông tin phù hợp, mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân
tích vào những tình huống khác nhau, để từ đó nhà quản trị lựa chọn, ra quyết
định thích hợp nhất.
1.1.4. Phân biệt KTQT với KTTC.
KTQT và KTTC là hai bộ phận của kế toán doanh nghiệp, chúng có mối
quan hệ chặt chẽ, đồng thời cũng có nhiều điểm khác biệt nhau.
1.1.4.1. Sự giống nhau.
KTQT và KTTC có nhiều điểm giống nhau và là hai bộ phận không thể
tách rời của kế toán doanh nghiệp. Những điểm giống nhau cơ bản là:
- KTQT và KTTC đều đề cập đến các sự kiện kinh tế trong doanh nghiệp.
- KTQT và KTTC đều đợc ghi chép trên cơ sở các chứng từ về các nghiệp
vụ kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành ở doanh nghiệp.
- KTQT và KTTC đều phục vụ cho mục đích quản lý doanh nghiệp trên
các góc độ khác nhau. Nhà quản trị doanh nghiệp sử dụng thông tin của KTTC
trong quá trình thực hiện các chức năng của mình để kiểm tra, đánh giá tổng
quát về tình hình huy động, sử dụng vốn trong doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất
kinh doanh của kỳ qua, phát hiện những sai sót, những tiềm năng để có biện
pháp tốt hơn trong kỳ tới; còn sử dụng thông tin KTQT để đánh giá việc thực
hiện những yêu cầu quản trị kinh doanh đã đợc đề ra cụ thể ở doanh nghiệp.
- KTQT và KTTC đều biểu hiện thông tin kinh tế tài chính trong mối
quan hệ với trách nhiệm của nhà quản trị phạm vi. KTTC biểu hiện trách nhiệm
của ngời quản lý cấp cao, còn KTQT biểu hiện trách nhiệm của ngời quản lý
các cấp bên trong doanh nghiệp.
10
1.1.4.2. Sự khác nhau.
Xuất phát từ nguồn gốc hình thành và nhu cầu sử dụng khác nhau nên
KTQT và KTTC có những điểm khác nhau cơ bản sau:
* Về đối tợng sử dụng thông tin.
- KTQT đa ra tất cả các loại thông tin kinh tế đã đợc đo lờng, xử lý và
cung cấp chỉ cho nội bộ doanh nghiệp sử dụng phục vụ quản trị doanh nghiệp.
- KTQT đa ra những thông tin kinh tế mà ngoài việc nó đợc sử dụng
trong nội bộ doanh nghiệp, còn đợc cung cấp cho các tổ chức bên ngoài.
* Về nguyên tắc trình bày và cung cấp thông tin.
Thông tin KTTC phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực và chế độ hiện
hành về kế toán của từng quốc gia,kể cả các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về
kế toán đợc các quốc gia công nhận. Trái lại, trong nền kinh tế thị trờng, do yêu
cầu phải nhạy bén và nắm bắt nhanh các cơ hội kinh doanh đa dạng nên thông
tin KTQT cần linh hoạt, nhanh chóng và thích hợp với từng quyết định cụ thể
của ngời quản lý , không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán
chung. Các quy định của Nhà nớc về KTQT ( nếu có) cũng chỉ mang tính chất
hớng dẫn.
* Về tính pháp lý của kế toán.
KTTC có tính pháp lệnh, nghĩa là hệ thống sổ, ghi chép trình bày và cung
cấp thông tin của KTTC đều phải tuân theo các quy định thống nhất nếu muốn
đợc thừa nhận. Ngợc lại, tổ chức công tác quản trị lại mang tính nội bộ, thuộc
thẩm quyền của từng doanh nghiệp phù hợp với đặc thù quản lý, yêu cầu quản
lý, điều kiện và khả năng từng doanh nghiệp.
* Về đặc điểm thông tin.
- Thông tin của KTTC chủ yếu dới hình thức giá trị; còn thông tin của
KTQT đợc biểu hiện cả hình thái hiện vật và hình thái giá trị.
11
- Thông tin của KTTC là thông tin thực hiện về những nghiệp vụ đã phát
sinh, đã xảy ra; còn thông tin của KTQT chủ yếu đặt trọng tâm cho tơng lai vì
phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phơng án, đề án cho một sự kiện
hoặc một quá trình cha xảy ra.
- Thông tin của KTTC chủ yếu là các thông tin thuần tuý, đợc thu thập từ
các chứng từ ban đầu kế toán ; KTQT ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban
đầu của kế toán còn phải kết hợp với nhiều ngành khoa học khác nh thống kê,
hạch toán nghiệp vụ để tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin thành dạng có
thể sử dụng đợc. Vì trong KTQT , thông tin đợc thu thập nhằm phục vụ cho
chức năng và quyết định của nhà quản lý và thờng không có sẵn.
* Về hình thức báo cáo sử dụng.
Báo cáo sử dụng trong KTTC là các báo cáo kế toán tổng hợp ( gọi là các
báo cáo tài chính) phản ánh tổng quát về sản nghiệp kết qủa hoạt động của
doanh nghiệp trong một thời kỳ nh: Bảng cân đối kế toán , báo cáo kết quả kinh
doanh còn báo cáo của KTQT đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc
của doanh nghiệp nh: Báo cáo chi phí sản xuất và giá thành, Báo cáo nợ phải
trả
* Về kỳ báo cáo.
Kỳ báo cáo của KTQT thờng xuyên hơn và ngắn hơn kỳ báo cáo của
KTTC . Báo cáo của KTTC đợc soạn theo định kỳ, thờng là hàng quý, hàng
năm; còn báo cáo của KTQT đợc soạn thảo theo yêu cầu quản trị doanh
nghiệp , có thể là 7 ngày , 10 ngày hoặc hàng tháng.
1.2. Nội dung và phạm vi của KTQT trong doanh nghiệp.
12
KTQT có nội dung rất rộng, việc xác định nội dung và phạm vi của
KTQT còn là một vấn đề phức tạp và có nhiều ý kiến khác nhau. KTQT chỉ thu
nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về hoạt động kinh tế tài chính một cách
cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp . Vì vậy, nội dung của
KTQT đợc quyết định bởi yêu cầu cụ thể trong công tác quản trị doanh nghiệp
và mối tơng quan với KTTC ; nhằm đảm bảo tránh trùng lặp với kế toán chi tiết
trong KTTC, đồng thời phát huy tác dụng trong công tác quản trị doanh nghiệp.
Tuỳ vào từng doanh nghiệp có quy mô, có yêu cầu quản trị khác nhau mà nội
dung và phạm vi của KTQT cũng khác nhau có thể thâu tóm nội dung và phạm
vi của KTQT trong doanh nghiệp theo những cách tiếp cận sau:
1.2.1. Xét theo nội dung các thông tin mà KTQT cung cấp.
Nội dung của KTQT trong doanh nghiệp bao gồm:
- Kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm. Đây là nội dung hạch
toán cơ sở để làm nền tảng tính toán cho các mục tiêu dự kiến. Thông tin về lĩnh
vực này có vai trò hết sức quan trọng, cần phải chi tiết hoá đến từng khoản mục
và đối tợng chi phí để tiến hành việc phân loại theo tiêu chuẩn thích hợp với
KTQT nh: Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lợng sản phẩm ( chi phí
bất biến, chi phí khả biến và chi phí hỗn hợp), phân loại chi phí theo mối quan
hệ của chi phí với các khoản mục trên báo cáo tài chính ( chi phí sản xuất , chi
phí thời kỳ)
Trên cơ sở phân loại chi phí, KTQT xác định các chỉ tiêu quản trị chi phí
nh chi phí tính cho sản phẩm hoàn thành, chi phí trên doanh thu; lợi nhuận trên
chi phí Từ đó xác định đựơc cần phải mở những tài khoản chi tiết nào, sổ kế
toán nào để thu thập, xử lý thông tin phục vụ yêu cầu nhiều hơn đến phơng
pháp phân bổ chi phí, từ đó để tìm ra phơng pháp phân bổ hợp lý nhất.
- KTQT doanh thu và kết quả kinh doanh.
13
Nội dung cơ bản của KTQT doanh thu và kết quả kinh doanh căn cứ vào
yêu cầu quản trị cụ thể về doanh thu và kết quả kinh doanh để phân loại doanh
thu theo nhóm, mặt hàng hoặc theo địa điểm kinh doanh, xác định các chỉ tiêu
dự đoán về doanh thu, kết quả và mở các tài khoản, sổ chi tiết nhằm cung cấp
các thông tin một cách cụ thể về doanh thu và kết quả kinh doanh.
- KTQT về các hoạt động đầu t tài chính.
Nội dung của KTQT về các hoạt động đầu t tài chính trong doanh nghiệp
đợc căn cứ vào yêu cầu cụ thể để xác định các chỉ tiêu đầu t, hiệu quả đầu t,
thời gian đầu t; mở các tài khoản và sổ chi tiết nhằm thu thập, xử lý hoạt động
đầu t theo từng hoạt động đầu t, từng khoản đầu t phục vụ yêu cầu quản trị
doanh nghiệp.
- KTQT về các hoạt động khác của doanh nghiệp.
Nội dung KTQT các hoạt động khác trong doanh nghiệp đợc căn cứ vào
yêu cầu cụ thể quản lý các chỉ tiêu khác nh: Quản trị công nợ, tình hình và khả
năng thanh toán để mở sổ kế toán theo dõi các hoạt động này.
Trong các nội dung nói trên, trọng tâm của KTQT là lĩnh vực chi phí. Vì
vậy, một số tác giả cho rằng, KTQT là kế toán chi phí.
1.2.2. Xét theo quá trình KTQT trong mối quan hệ với khả năng quản
lý.
Nội dung của KTQT bao gồm các khâu sau:
- Chính thức hoá các mục tiêu của doanh nghiệp thành các chỉ tiêu kinh
tế. Nghĩa là , các mục tiêu của doanh nghiệp không còn ở dạng chung chung
nữa mà đợc thể hiện cụ thể, rõ ràng dới dạng con số, chỉ tiêu kinh tế.
- Lập dự toán chung và các dự toán chi tiết.
Trong doanh nghiệp , lập dự toán là khâu rất quan trọng , không thể thiếu
trong công tác kế hoạch. Việc lập dự toán chung và dự toán chi tiết phải dựa
14
trên cơ sở số liệu, tài liệu thu thập đợc từ hệ thống sổ kế toán phản ánh quá trình
đã thực hiện của chỉ tiêu nào đó; dựa vào các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nớc
và của ngành, đơn vị để lập dự toán theo từng chỉ tiêu.
- Thu thập, cung cấp thông tin về kết quả thực hiện các mục tiêu.
Thông tin kế toán quản trị cung cấp về bản chất thờng là thông tin kinh tế
- tài chính định lợng và thông tin này giúp cho các nhà quản trị hoàn thành các
chức năng lập kế hoạch, tổ chức điều hành, kiểm tra và ra quyết định. Trong
môi trờng kinh doanh hiện nay, nhu cầu về thông tin trong công tác quản lý đã
có sự gia tăng rất lớn và đa dạng do áp lực của những thay đổi nhanh chóng về
các vấn đề nh: Toàn cầu hoá về kinh tế, sự cạnh tranh vì vậy, kế toán quản trị
cần phải thu thập, cung cấp thông tin một cách linh hoạt, kịp thời, hữu ích.
Đồng thời phải thông tin của KTQT phải đảm bảo tính đơn giản, nhanh chóng
nhằm hỗ trợ đắc lực cho nhà quản trị doanh nghiệp.
- Soạn thảo báo cáo KTQT.
Cũng nh KTTC, " sản phẩm " của KTQT chính là các báo cáo KTQT.Báo
cáo KTQT chính là việc so sánh hoạt động thực tế với các định mức hoặc mục
tiêu. Có rất nhiều loại báo cáo KTQT khác nhau nhng đặc điểm quan trọng của
các loại báo cáo này là kết quả đợc so sánh với định mức. Sau đó, ban quản trị
doanh nghiệp sẽ điều chỉnh hoạt động dựa theo những mức chênh lệch đó, sau
khi điều tra nguyên nhân của vấn đề sao cho phù hợp nhất.
Nh vậy,thông tin của KTQT không chỉ là thông tin quá khứ thông tin
thực hiện mà còn gồm có các thông tin về tơng lai ( kế hoạch , dự đoán).Mặt
khác, thông tin KTQT không chỉ là các thông tin về giá trị còn bao gồm các
thông tin khác nh: hiện vật, thời gian lao động
1.3. Tổ chức công tác KTQT trong doanh nghiệp.
15
1.3.1. Các nhân tố ảnh hởng đến tổ chức công tác KTQT trong
doanh nghiệp.
KTQT là một công cụ quan trọng đáp ứng yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
Tổ chức công tác KTQT khoa học và hợp lý là điều kiện cần thiết để thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ và vai trò cũng nh đảm bảo đợc chất lợng và hiệu quả
của công tác KTQT trong doanh nghiệp. Nh chúng ta biết, không phải tất cả các
doanh nghiệp đều tiến hành tổ chức công tác KTQT nh nhau, mà tuỳ mỗi đơn
vị, mỗi doanh nghiệp mà công tác tổ chức KTQT khác nhau. Tuy nhiên, chúng
ta có thể khái quát những nhân tố ảnh hởng đến tổ chức công tác KTQT trong
doanh nghiệp nh sau:
* Các nhân tố khách quan.
- Chế độ , thể lệ về quản lý kinh tế tài chính của Nhà nớc nói chung.
- Quy mô và phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn nh, với
một doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, về KTQT doanh thu và kết quả kinh
doanh thì chỉ cần cụ thể tới từng ngành nghề, từng mặt hàng, nhng đối với
doanh nghiệp lớn, đặc biệt là tập đoàn thì phải chi tiết tới từng khu vực, từng địa
bàn.
- Môi trờng kinh doanh : Trong điều kiện hội nhập kinh tế nh hiện nay,
môi trờng kinh doanh thay đổi sẽ trực tiếp ảnh hởng đến hoạt động của doanh
nghiệp, từ đó ảnh hởng tới tổ chức KTQT.
* Các nhân tố chủ quan.
- Trình độ quản lý của doanh nghiệp. Chúng ta biết rằng, KTQT nhằm
phục vụ cho nội bộ doanh nghiệp, mà chủ yếu là cho Ban quản trị để ra quyết
định. Vì vậy, trình độ quản lý chính là nhân tố chủ quan có ảnh hởng tới việc tổ
chức công tác KTQT trong doanh nghiệp.
16
- Khả năng và trình độ của đội ngũ cán bộ kế toán hiện có của doanh
nghiệp. Đây là một nhân tố rất quan trọng trong việc tổ chức công tác KTQT ở
đơn vị.
- Tình hình trang bị các phơng tiện kỹ thuật tính toán trong doanh
nghiệp.
1.3.2. Nội dung tổ chức công tác KTQT trong doanh nghiệp.
KTQT là một khoa học thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt
động của doanh nghiệp một cách cụ thể phục vụ cho các nhà quản lý trong việc
lập kế hoạch tổ chức thực hiện,kiểm tra và đánh giá tình hình thực hiện các hoạt
động của doanh nghiệp.
* Xét dới góc độ chức năng công tác KTQT trong doanh nghiệp đợc tổ
chức theo các nội dung sau:
- Tổ chức thu thập thông tin .
Thông tin KTQT là thông tin về toàn bộ hoạt động kinh tế, tài chính ở
doanh nghiệp, mà hoạt động kinh tế - tài chính này đợc hình thành từ các hoạt
động kinh tế - tài chính đã phát sinh và sẽ phát sinh. KTQT có thể sử dụng
nhiều nguồn tin khác nhau, mỗi nguồn tin cung cấp các thông tin đặc thù khác
nhau phục vụ cho việc phân tích, đánh giá và lập dự đoán
Tổ chức thu thập thông tin là công việc khởi đầu của toàn bộ quy trình
KTQT, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc ra quyết định của các nhà
quản lý. KTQT đợc coi nh một hệ thống trợ giúp cho các nhà quản lý ra quyết
định, là phơng tiện để thực hiện kiểm soát quản lý trong doanh nghiệp.
- Phân tích thông tin:
Đây là quá trình tiến hành phân tích, phân loại, đánh giá dựa trên các
thông tin đã thu nhận đợc, để đa ra đợc các chỉ tiêu phù hợp và cần thiết. Đây là
công đoạn quan trọng nhất của một hệ thống thông tin, nó sẽ quyết định chất l-
17
ợng đầu ra của một hệ thống. Nếu thông tin đợc xử lý tốt và chính xác, thì các
thông tin đầu ra sẽ là những thông tin hữu ích giúp cho doanh nghiệp có đợc
những quyết định đúng đắn. Ngợc lại, nếu thông tin không đợc xử lý chính xác
thì thông tin đầu ra không những không giúp ích đợc cho các nhà quản lý trong
công tác ra quyết định thậm chí còn khiến các quyết định đợc ban hành một
cách sai lầm, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
- Cung cấp thông tin KTQT cho nhà quản trị.
Sau khi xử lý và phân tích tổng hợp các thông tin liên quan đến các chỉ
tiêu quản lý, KTQT phải đảm bảo cung cấp thông tin cho nhà quản lý theo từng
tình huống cụ thể; nhận xét, đánh giá và trình bày kiến nghị cho từng phơng
án.Việc ra quyết định lựa chọn phơng án tốt nhất thuộc quyền của ngời lãnh
đạo cao nhất trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, họ phải tham khảo các ý kiến khác
nhau đã đợc trình bày trong báo cáo các KTQT và các tờ trình phong án kinh
doanh của các bộ phận quản lý, t vấn trong doanh nghiệp. Vì vậy, lựa chọn ph-
ơng án đúng hay không phụ thuộc rất nhiều vào quá trình thu nhận, xử lý và
cung cấp thông tin của KTQT.
Có thể mô tả nội dung tổ chức công tác KTQT trong doanh nghiệp theo
từng chức năng quản lý nh sau:
Sơ đồ 1
Tổ chức KTQT theo chức năng quản lý.
18
Hoạt động kinh tế
Báo cáo cho nhà
quản trị
Chọn lọc và ghi chép số liệu
( Tổ chức thu nhận thông tin)
Phân tích số liệu
(thông tin)
Ra quyết định
Cung cấp thông tin
* Xét theo các khâu công việc trong quá trình kế toán, tổ chức công
tác KTQT gồm có các nội dung sau:
- Chứng từ kế toán.
Ngoài việc sử dụng những thông tin về các nghiệp vụ kinh tế tài chính
phát sinh và thực sự hoàn thành trên các chứng từ bắt buộc, mang tính pháp lý
cao, KTQT còn sử dụng rộng rãi hệ thống chứng từ hớng dẫn phản ánh các
nghiệp vụ kinh tế " nội sinh" trong nội bộ doanh nghiệp. Các chứng từ này do
doanh nghiệp quy định trên cơ sở hớng dẫn của Nhà nớc hoặc doanh nghiệp tự
lập ra theo các yêu cầu quản lý cụ thể ở doanh nghiệp. Việc thu nhận, kiểm
tra , xử lý và luân chuyển chứng từ cũng xác lập theo cách riêng, nhằm đảm bảo
cung cấp các thông tin cụ thể, nhanh chóng và thích hợp cho việc ra các quyết
định quản lý.
- Tài khoản kế toán.
Để có số liệu một cách chi tiết, tỷ mỷ phục vụ quản trị doanh nghiệp,
KTQT phải sử dụng những tài khoản chi tiết đến cấp 2, cấp 3, cấp 4 và chi
tiết các tài khoản theo từng địa điểm phát sinh chi phí, từng loại hàng hoá, dịch
vụ để đáp ứng yêu cầu quản lý từng chỉ tiêu cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tế,
đối tợng kế toán cụ thể cần theo dõi chi tiết lại quá nhiều, làm chi phí hạch toán
tăng lên. Do đó, nhà quản lý cần cân đối giữa chi phí bỏ ra và lợi ích thu về để
làm sao việc sử dụng tài khoản chi tiết là hợp lý nhất.
- Sổ kế toán.
Ngoài việc ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính trên các sổ
kế toán tổng hợp, KTQT còn tổ chức ghi chép các thông tin chi tiết trên các sổ
kế toán chi tiết để phục vụ cho yêu cầu quản trị doanh nghiệp hàng ngày.
19
- Tính giá và lập báo cáo KTQT.
Đối với KTQT , việc tính giá các loại tài sản mang tính linh hoạt cao hơn
và gắn với mục đích sử dụng các thông tin về giá theo yêu cầu quản trị doanh
nghiệp. Các dữ liệu để tính giá không chỉ căn cứ vào các chi phí thích hợp cho
từng quyết định cá biệt, đặc biệt là các quyết định mang tính ngắn hạn.
Các báo cáo trong KTQT là các bảng cân đối bộ phận ( cho từng bộ
phận, trung tâm chi phí, loại tài sản ). Các báo cáo này còn đ ợc gọi là báo cáo
kế toán nội bộ, đợc lập theo kỳ hạn ngắn hơn các Báo cáo tài chính. Ngoài các
chỉ tiêu về tiền tệ, các bảng cân đối bộ phận còn sử dụng rộng rãi các thớc đo về
hiện vật và thời gian lao động. Đồng thời, ngoài các tổng hợp cân đối về các chỉ
tiêu quá khứ, chỉ tiêu đã thực hiện, KTQT còn thiết lập các cân đối trong dự
đoán, trong kế hoạch giữa nhu cầu tài chính và nguồn tài trợ, giữa yêu cầu sản
xuất - kinh doanh và các nguồn lực đợc huy động
Có thể mô tả nội dung tổ chức công tác KTQT trong doanh nghiệp theo
khâu công việc nh sau:
Sơ đồ 1 .
Tổ chức KTQT theo khâu công việc.
1.4. Sự biểu hiện của KTQT trong hệ thống kế toán Việt Nam.
20
Chứng
từ
kế toán
Báo
cáo
KTQT
Sổ
kế
toán
quản
trị
TKKT
quản trị
Ghi chép
Phân tíchPhân loại
KTQT là một vấn đề còn tơng đối mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt
Nam. Có thể khái quát các quan điểm về KTQT nh sau:
* Quan điểm thứ nhất: Cho rằng KTQT là khoa học thu nhận, xử lý và
cung cấp thông tin về hoạt động của doanh nghiệp một cách cụ thể, phục vụ cho
các nhà quản lý trong việc lập kế hoạch thực hiện, kiểm tra và đánh giá tình
hình thực hiện kế hoạch các hoạt động của doanh nghiệp.
Theo quan điểm này, KTQT là loại kế toán dành cho ngời làm công tác
quản lý. KTQT đợc coi nh một hệ thống trợ giúp cho các nhà quản lý ra các
quyết định, là phơng tiện để thực hiện kiểm soát quản lý trong doanh nghiệp.
KTQT không chỉ là kế toán chi tiết, phạm vi của KTQT khá rộng; nó
không chỉ bao gồm những thông tin của kế toán chi tiết mà còn bao gồm thông
tin của hạch toán nghiệp vụ, lập kế hoạch, xây dựng dự đoán chi phí, định giá
sản phẩm trong nội bộ doanh nghiệp.
* Quan điểm thứ 2: Cho rằng KTQT là việc ghi chép kế toán nhằm thu
nhập, xử lý , cung cấp các thông tin chi tiết cụ thể về hoạt động kinh tế tài chính
của doanh nghiệp để phục vụ yêu cầu quản lý và điều hành ở doanh nghiệp.
Theo quan diểm này, KTQT trớc hết phải là kế toán có liên hệ mật thiết
với hệ thống KTTC, ghi chép, phản ánh các số liệu chi tiết cả về chỉ tiêu số lợng
và chỉ tiêu giá trị nhằm cung cấp những thông tin chi tiết hơn cho quản lý mà
KTTC cha cung cấp đợc.
Giữa hai quan điểm trên có sự khác nhau nh sau:
+ Quan điểm 1 khẳng định, KTQT không phải là kế toán chi tiết và cũng
không phải là kế toán chi tiết cộng thêm các công việc cung cấp thông tin ngoài
kế toán chi tiết. Nghĩa là, KTQT hoàn toàn tách biệt với kế toán chi tiết và đợc
dùng phục vụ cho yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
21
+ Quan điểm 2 thừa nhận sự đồng nghĩa giữa KTQT và kế toán chi tiết.
Vì vậy, ở Việt Nam từ trớc đến nay đã có KTQT , đó chính là hệ thống thông
tin chi tiết của kế toán phục vụ cho việc quản lý doanh nghiệp. Nghĩa là, không
thể nói KTQT là vấn đề hoàn toàn mới mẻ.
Từ đó có thể rói rằng, hệ thống kế toán Việt Nam là hệ thống kế toán kết
hợp giữa KTTC và KTQT , trong đó chủ yếu là KTTC. Tuy vậy, KTQT đã có sự
biểu hiện rõ ràng trong chế độ kế toán và ở sự vận dụng của các doanh nghiệp
trong quá trình thu nhận, xử lý, hệ thống hoá, cung cấp thông tin cho các nhà
quản trị.
Trong chế độ kế toán Việt Nam đã ban hành và đang áp dụng tại các
doanh nghiệp đều có hớng dẫn theo các nội dung cơ bản sau:Hệ thống tài khoản
kế toán, chế độ chứng từ kế toán , chế độ sổ kế toán, chế độ báo cáo kế
toán.Việc hớng dẫn của Nhà nớc mang tính định hớng theo những nguyên tắc
kế toán, căn cứ vào đó để các doanh nghiệp vận dụng sao cho phù hợp với đặc
điểm, điều kiện và loại hình doanh nghiệp nhằm phục vụ cung cấp thông tin cho
yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp. Đây chính là những vấn đề định hớng
cho KTQT.
1.5. Các mô hình tổ chức công tác KTQT trong doanh nghiệp.
Việc tổ chức công tác KTQT trong doanh nghiệp là một vấn đề quan
trọng và không đơn giản. Vì vậy, cần phải xem xét, lựa chọn để làm sao xây
dựng và thực thi một mô hình phù hợp và hiệu quả nhất. Hiện nay, trong các
doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức công tác KTQT thờng đợc áp dụng theo 2 mô
hình sau:
1.5.1. Mô hình tổ chức kết hợp KTQT với KTTC.
Theo mô hình này, hệ thống KTQT đợc tổ chức kết hợp với hệ thống
KTTC. Cụ thể nh sau:
22
- Về tổ chức bộ máy kế toán : KTQT và KTTC đợc tổ chức thành một hệ
thống thống nhất, không phân chia thành bộ phận KTQT và bộ phận KTTC mà
chỉ phân chia thành các bộ phận kế toán thực hiện từng phần hành công việc kế
toán theo chức trách, nhiệm vụ đợc phân công. Các bộ phận này vừa làm nhiệm
vụ KTQT, vừa làm nhiệm vụ KTTC.
- Về tài khoản kế toán : KTTC sử dụng các tài khoản kế toán tổng hợp,
còn KTQT sử dụng các tài khoản kế toán chi tiết và các phơng pháp khác nh:
thống kê, toán . Để hệ thống hoá, xử lý và cung cấp thông tin cho nhà quản
trị.
- Về sổ kế toán: KTTC ghi sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết, còn
KTQT căn cứ vào yêu cầu quản trị cụ thể đối với từng chỉ tiêu để mở sổ KTQT
nhằm thu nhận đợc các thông tin phục vụ nhà quản trị.
- Về báo cáo kế toán :Mỗi bộ phận kế toán có chức năng thu nhận, cung
cấp thông tin kế toán vừa ở dạng tổng hợp vừa ở dạng chi tiết theo yêu cầu
quản lý. Căn cứ vào các thông tin này, bộ phận kế toán tổng hợp lập báo cáo tài
chính, báo cáo KTQT để cung cấp thông tin phục vụ cho các đối tợng bên trong
và bên ngoài doanh nghiệp.
+ Ưu điểm: Tiện lợi, dễ điều hành, gọn nhẹ, kế toán tổng hợp bộ phận
nào kết hợp kế toán chi tiết bộ phận ấy. Do đó, thông tin kế toán rõ ràng và
đáng tin cậy hơn.
+ Nhợc điểm: Khó chuyên môn hoá từng lĩnh vực.
+Điều kiện áp dụng: Thích hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc
biệt thích hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay.
1.5.2. Mô hình tổ chức tách riêng KTQT với KTTC.
Theo mô hình này, KTQT đợc tổ chức tách riêng với KTTC trên những
điểm cơ bản sau:
23
- Về tổ chức bộ máy kế toán : KTQT và KTTC đợc tổ chức thành hai hệ
thống riêng biệt. Tuỳ vào điều kiện và nhu cầu của từng doanh nghiệp mà tổ
chức nên các phần hành KTQT sao cho phù hợp nhất.
- Về tài khoản kế toán : Theo mô hình này, các tài khoản KTQT đợc xây
dựng thành một hệ thống riêng, mang ký hiệu riêng, nội dung ghi chép cũng có
những điểm khác với KTTC . KTQT ngoài việc phản ánh theo chỉ tiêu giá trị
còn phản ánh theo chỉ tiêu hiện vật.
- Về chứng từ kế toán : Ngoài việc sử dụng các chứng từ bắt buộc, mô
hình tổ chức KTQT này còn sử dụng rộng rãi hệ thống chứng từ hớng dẫn phản
ánh các nghiệp vụ kinh tế " nội sinh " trong nội bộ doanh nghiệp.
- Về sổ kế toán : xây dựng hệ thống sổ kế toán riêng phục vụ cho việc ghi
chép các nghiệp vụ thuộc KTQT.
- Về báo cáo kế toán : Theo mô hình này, các báo cáo KTQT đợc lập
riêng dới dạng các bảng cân đối bộ phận ( báo cáo kế toán nội bộ) với kỳ hạn
ngắn hơn các báo cáo tài chính. Ngoài các chỉ tiêu về tiền tệ, các Bảng cân đối
bộ phận còn sử dụng rộng rãi các thớc đo về hiện vật và thời gian lao động ;
ngoài các chỉ tiêu quá khứ, các chỉ tiêu đã thực hiện, KTQT còn thiết lập các
cân đối trong dự đoán, trong kế hoạch.
+ Ưu điểm: Phân định ranh giới công việc rõ ràng, mang tính chuyên
môn hoá cao, chuyên sâu về lĩnh vực giúp cho từng bộ phận có điều kiện nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Nhợc điểm: Cồng kềnh, kém linh hoạt, hiệu quả kinh tế thấp.
+ Điều kiện áp dụng: Thích hợp với các doanh nghiệp có quy môn lớn
với trình độ cơ giới hoá cao. Phù hợp với kế toán pháp và các nớc Đông Âu.
kết luận chơng 1
24
Qua quá trình nghiên cứu về cơ sở lý luận chung về KTQT nh: khái
niệm, đối tợng, nhiệm vụ, vai trò của KTQT thể hiện qua việc cung cấp thông
tin cho nhiều đối tợng sử dụng khác nhau. Ta thấy, nhu cầu sử dụng thông tin
KTQT là vô cùng cần thiết đối với các nhà quản trị doanh nghiệp. Chính nhu
cầu này là cơ sở hình thành nên môn KTQT.
Từ nhiều quan điểm khác nhau về KTQT giúp ta rút ra bản chất, nội
dung, chức năng cơ bản của KTQT . Chơng này đã đề cập đến những điểm
giống và khác nhau cơ bản giữa KTQT và KTTC , đồng thời chỉ ra sự biểu hiện
của KTQT trong hệ thống kế toán Việt Nam và các mô hình tổ chức công tác
KTQT ở Việt Nam .
25