B
TR
D
GIÁO D C VÀ ÀO T O
NG
I H C KINH T TP.HCM
NG LI U MAI KHANH
LU N V N TH C S KINH T
TP. H Chí Minh – N m 2000
MỤC LỤC
MỤC LỤC
I
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN VÀ HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN
1.1 KẾ TOÁN VÀ VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN
4
4
1.1.1 Đònh nghóa kế toán
4
1.1.2 Vai trò của kế toán
5
1.1.3 Phân biệt kế toán tài chính và kế toán quản trò
5
1.2 VÀI NÉT VỀ HỆ THỐNG KẾ TOÁN HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM
7
1.3 HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN
8
1.3.1 Sự phát triển hệ thống báo cáo kế toán từ khi đổi mới nền kinh tế
đất nước
8
1.3.2 Đònh nghóa báo cáo kế toán
10
1.3.3 Mục đích của báo cáo kế toán
11
1.3.4 Yêu cầu đối với báo cáo kế toán
13
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN ÁP DỤNG
21
CHO CÔNG TY DÂY VÀ CÁP ĐIỆN VIỆT NAM
2.1 GIỚI THIỆU CÔNG TY DÂY VÀ CÁP ĐIỆN VIỆT NAM (CADIVI)
VÀ BỘ MÁY KẾ TOÁN CÔNG TY
21
2.1.1 Vài nét về Công ty CADIVI
21
2.1.2 Bộ máy kế toán của CADIVI
23
2.2 THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN ÁP DỤNG
29
CHO CADIVI HIỆN NAY
2.2.1 Thực trạng của hệ thống báo cáo quản trò trong CADIVI
29
2.2.2 Thực trạng của hệ thống báo cáo tài chính trong CADIVI
30
2.2.3 Nhận xét rút ra từ thực trạng của Công ty
31
2.3 SỰ CẦN THIẾT CỦA HỆ THỐNG BÁO CÁO QUẢN TRỊ TRONG
35
CÔNG TY CADIVI
-i-
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN
ÁP DỤNG CHO CÔNG TY DÂY VÀ CÁP ĐIỆN VIỆT NAM
38
3.1 MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG
BÁO CÁO KẾ TOÁN ÁP DỤNG CHO CADIVI
38
3.1.1 Mục tiêu hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán
38
3.1.2 Phương hướng hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán
38
3.2 MỘT SỐ Ý KIẾN HOÀN THIỆN HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN
ÁP DỤNG CHO CÔNG TY CADIVI
39
3.2.1 Hệ thống báo cáo tài chính
39
3.2.2 Hệ thống báo cáo quản trò
44
KẾT LUẬN
57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I
PHỤ LỤC
1
- ii -
MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung sang cơ chế thò trường có sự quản lý của nhà nước theo
đònh hướng xã hội chủ nghóa. Trình độ quản lý doanh nghiệp, trong điều kiện
mới, đang được nâng cao dần thông qua công tác đào tạo mới và đào tạo lại.
Chính vì vậy mà đònh hướng xây dựng hệ thống báo cáo tài chính áp dụng cho
các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay là: dễ làm, dễ hiểu, dễ kiểm tra, từng
bước nâng dần yêu cầu về thông tin đối với kế toán doanh nghiệp, từng bước
hội nhập vào kế toán của các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần
theo kòp trình độ quản lý doanh nghiệp của các nước trong khu vực và trên thế
giới; làm cho sự phát triển của kế toán đồng hành với sự phát triển của kinh tế.
Tuy nhiên, để thích nghi với môi trường kế toán mới trong giai đoạn hiện
nay, các mục tiêu khi xây dựng hệ thống báo cáo tài chính áp dụng cho các
doanh nghiệp Việt Nam cần đạt được là:
• Phải đáp ứng được nhu cầu cung cấp thông tin cho các đối tượng
sử dụng, cho từng loại hình doanh nghiệp trước và sau khi thò
trường chứng khoán được hình thành ở Việt Nam.
• Phải phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế qua việc vận dụng các
chuẩn mực kế toán quốc tế phù hợp với môi trường kế toán đang
biến động ở Việt Nam.
Kế toán vẫn mang tính pháp lý, song trong khuôn khổ pháp lý, cho phép
các doanh nghiệp lựa chọn các giải pháp kế toán thích hợp, vừa đáp ứng được
yêu cầu cung cấp thông tin "trung thực, hợp lý" cho các nhà đầu tư; các nhà cho
vay; vừa đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin "chính xác, hợp pháp" phục
vụ cho mục đích quản lý vó mô và thu thuế của các cơ quan chức năng của nhà
nước.
Dễ làm, dễ hiểu, dễ kiểm tra, từng bước nâng dần yêu cầu về thông tin
đối với kế toán doanh nghiệp, từng bước hội nhập vào kế toán của các nước
trong khu vực và trên thế giới, góp phần theo kòp trình độ quản lý doanh nghiệp
của các nước trong khu vực và trên thế giới; làm cho sự phát triển của kế toán
đồng hành với sự phát triển kinh tế.
-1-
Luận án này nhằm nêu ra những vấn đề cơ bản về kế toán theo hướng
giải thích các khái niệm và đối chiếu với thông lệ quốc tế. Mục đích cuối cùng
là góp phần vào sự hiểu biết một cách khoa học bản chất của các nghiệp vụ và
quá trình xử lý để từ đó giúp hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán doanh nghiệp
đặc biệt là trong điều kiện quá trình cải cách đang và sẽ tiếp tục diễn ra tại
Việt Nam theo xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
II. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay, kế toán là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu cho các tác nhân
kinh tế để ra quyết đònh. Muốn vậy, hệ thống kế toán của các nước trên thế
giới nói chung và hệ thống kế toán Việt Nam nói riêng đã không ngừng hoàn
thiện và phát triển, trong đó, hệ thống sẽ đònh hình cho các hoạt động kinh
doanh đang diễn ra trên thò trường. Xuất phát từ thực tiễn đó tôi đã quyết đònh
chọn và thực hiện đề tài: “Một số ý kiến hoàn thiện hệ thống báo cáo
kế toán áp dụng cho Công ty dây và cáp điện Việt Nam (CADIVI)”
nhằm góp phần vào việc phát huy vai trò của doanh nghiệp trong tình hình mới
– nền kinh tế hội nhập.
III. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Mục đích của đề tài là hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán của công ty
CADIVI song song với quá trình Việt Nam đang xây dựng và hoàn thành các
chuẩn mực kế toán Việt Nam. Với mục đích này, phạm vi nghiên cứu của đề tài
là toàn bộ báo cáo kế toán tại công ty CADIVI trên cơ sở nghiên cứu hệ thống
báo cáo tài chính hiện hành của Việt Nam nhằm vận dụng có chọn lọc vào điều
kiện công ty. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ hệ thống báo cáo kế
toán của doanh nghiệp, xem xét một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn để có những giải pháp hữu ích cho quá trình xây dựng và hoàn thiện
hệ thống báo cáo kế toán tại doanh nghiệp CADIVI.
IV. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt trong đề tài là phương
pháp duy vật biện chứng. Dựa vào phương pháp này, vấn đề đánh giá những ưu
khuyết điểm của hệ thống báo cáo kế toán của doanh nghiệp trong giai đoạn
mới của các doanh nghiệp Việt Nam được xem xét như là một hiện tượng
khách quan luôn biến đổi, vận động và do đó hệ thống báo cáo của doanh
nghiệp cũng cần được thường xuyên hoàn thiện. Một số các nguyên tắc và
phương pháp sau đây cũng được quán triệt và vận dụng: nguyên tắc khách
-2-
quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc thống nhất giữa lòch sử và lôgic,
nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể, phương pháp diễn dòch- quy nạp,
phương pháp hệ thống v.v…
V. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài bao gồm ba
chương:
Chương 1:
Chương 2:
Chương 3:
Tổng quan về kế toán và hệ thống báo cáo kế toán.
Thực trạng của hệ thống báo cáo kế toán áp dụng cho Công
ty dây và cáp điện Việt Nam.
Một số ý kiến hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán áp dụng
cho Công ty dây và cáp điện Việt Nam.
-3-
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN VÀ HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ
TOÁN
1.1 KẾ TOÁN VÀ VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN
1.1.1 Đònh nghóa kế toán
Quá trình nghiên cứu cho ta thấy đònh nghóa về kế toán phụ thuộc vào
điều mà những nhóm người khác nhau trong xã hội đòi hỏi ở kế toán vào một
thời điểm nào đó. Chẳng hạn “Kế toán xã hội chủ nghóa là công việc tính toán,
ghi chép phản ánh bằng con số một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống các
loạïi vật tư, tiền vốn và mọi hoạt động kinh tế, qua đó mà giám đốc tình hình
thực hiện kế hoạch Nhà nước, tình hình bảo vệ tài sản xã hội chủ nghóa”. Hay
trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thò trường thì “Kế toán là hoạt động
dòch vụ. Chức năng của nó là cung cấp thông tin đònh lượng về các thực thể
kinh tế. Thông tin chủ yếu là thông tin tài chính nhằm mục đích là có ích cho
việc đề ra các quyết đònh kinh tế”.
Ngoài ra còn có các đònh nghóa khác như:
Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước Việt Nam đã đònh nghóa “Kế toán là
công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trò, hiện vật và thời
gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trò để phản ánh kiểm tra tình hình
vận động của các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động kinh doanh, sử
dụng vốn và kinh phí nhà nước cũng như các tổ chức, các xí nghiệp” [2,16]
Theo Ủy ban thuật ngữ của Viện kế toán công chứng Hoa Kỳ thì “Kế
toán là nghệ thuật ghi chép phân loại và tổng hợp theo cách có ý nghóa và theo
hình thái tiền tệ, các giao dòch và các sự kiện mà ít nhất có một phần đặc tính
tài chính và diễn giải kết quả từ chúng” [2,16]
Gần đây kế toán được đònh nghóa có liên quan đến thông tin đònh lượng
như sau: “Kế toán là một hoạt động dòch vụ, chức năng của kế toán là cung cấp
thông tin đònh lượng, chủ yếu có bản chất tài chính về những đối tượng kinh tế
mà mục tiêu để ra các quyết đònh kinh tế, lựa chọn giữa các phương án kinh
doanh khác nhau” [2,17]
Cho dù có những quan điểm khác nhau nhưng phần lớn các đònh nghóa
đều hướng đến nội dung “Kế toán là một quá trình thu thập, xử lý và truyền đạt
-4-
những thông tin có ích về một tổ chức kinh tế cho các đối tượng sử dụng để ra
các quyết đònh kinh tế”
1.1.2 Vai trò của kế toán
Kế toán là công cụ quản lý có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối
với bản thân doanh nghiệp mà còn đối với các cơ quan chức năng của nhà nước
cũng như các đối tượng khác có quyền lợi trực tiếp hoặc gián tiếp đối với hoạt
động của doanh nghiệp.
Đối với Nhà nước: Thông tin của kế toán là căn cứ để tổng hợp, để tính
thuế, để kiểm tra và chỉ đạo theo yêu cầu quản lý chung.
Đối với Doanh nghiệp: thông tin của kế toán là cơ sở để lập kế hoạch,
kiểm tra, đánh giá, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch, kiểm tra việc chấp
hành luật pháp và là cơ sở để ra quyết đònh.
Đối với đối tượng khác: thông tin của kế toán là căn cứ để quyết đònh
đầu tư, mua bán, thanh toán cũng như xử lý những vấn đề liên quan đến quyền
hạn, trách nhiệm giữa doanh nghiệp với các bên có liên quan
1.1.3 Phân biệt kế toán tài chính và kế toán quản trò
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thò trường, một trong những chức
năng quan trọng của kế toán là cung cấp thông tin hữu ích về một thực thể kinh
tế cho các đối tượng sử dụng để đề ra các quyết đònh. Tùy theo thông tin do kế
toán cung cấp phục vụ cho đối tượng sử dụng nào mà người ta phân biệt kế
toán tài chính và kế toán quản trò.
•
Kế toán tài chính: đưa ra những thông tin kế toán ngoài việc nó được
sử dụng trong nội bộ quản lý của doanh nghiệp nó chủ yếu cung cấp
thông tin kế toán cho các đối tượng bên ngoài quan tâm đến doanh
nghiệp. Do đó kế toán tài chính được xây dựng trên những cơ sở
chung nhất của tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
•
Kế toán quản trò: gắn liền với chức năng cung cấp thông tin hữu ích
phục vụ duy nhất cho nội bộ ban quản trò doanh nghiệp để đề ra các
quyết đònh kinh tế về quản trò doanh nghiệp.
-5-
a/ Những điểm khác nhau giữa kế toán quản trò và kế toán tài chính
Những điểm khác nhau giữa kế toán quản trò và kế toán tài chính được
tóm tắt bằng bảng sau:
Bảng 1-1: Sự khác biệt giữa kế toán tài chính và kế toán quản trò
Chức năng cơ bản
Kế toán tài chính
Kế toán quản trò
- Ghi chép nghiệp vụ
- Chứng minh cho quyết
đònh
- Công bố các báo cáo - Cung cấp thông tin
tài chính
quản trò: hoạch đònh và
kiểm soát
Đối tượng sử dụng thông - Thành phần bên ngoài - Thành phần bên trong
tin
doanh nghiệp
doanh nghiệp
Đặc điểm thông tin
- Có tính lòch sử
- Có tính tương lai
- Chính xác
- Kòp thời
- Khách quan
- Chủ quan
- Giá trò
- Giá trò, hiện vật
- Công khai
- Mang tính bí mật nội
bộ về việc hoạch đònh và
kiểm soát hướng đến
tương lai
- Tôn trọng các nguyên - Không có những chỉ
Chuẩn mực của thông tin tắc kế toán được thừa dẫn hoặc hạn chế chỉ có
những tiêu chuẩn có ích
nhận chung
Phạm vi báo cáo
- Toàn doanh nghiệp
- Từng bộ phận
Kỳ báo cáo
- Bất cứ khi nào được
- Đònh kỳ trên cơ sở đều cần đến, không nhất
đặn
thiết
trên
cơ sở đều đặn
Tính pháp lệnh
- Có tính pháp lệnh
- Không có tính pháp
lệnh
Như vậy, kế toán quản trò dùng cho nội bộ của người quản lý; đặt trọng
tâm cho tương lai nhiều hơn; cần số liệu thích hợp và linh động; ít chú trọng đến
tính chính xác của số liệu mà chú trọng đến các số liệu phi tiền tệ; chú trọng
-6-
đến từng bộ phận của doanh nghiệp hơn là toàn doanh nghiệp; không tuân thủ
những nguyên tắc chung của kế toán; không mang tính pháp lệnh.
b/ Những điểm giống nhau giữa kế toán quản trò và kế toán tài chính
•
Cả hai bộ phận của hệ thống thông tin kế toán, cùng liên quan đến
trách nhiệm và việc quản lý doanh nghiệp.
•
Đều có liên hệ với hệ thống thông tin kế toán, cùng dựa trên hệ
thống ghi chép ban đầu của kế toán.
•
Đều cung cấp thông tin hữu ích giúp đối tượng sử dụng ra quyết đònh.
•
Đều có khái niệm trách nhiệm và quản lý: kế toán tài chính liên
quan đến khái niệm quản lý trên toàn doanh nghiệp, còn kế toán
quản trò liên quan đến khái niệm quản lý trên từng bộ phận doanh
nghiệp.
1.2 VÀI NÉT VỀ HỆ THỐNG KẾ TOÁN HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM
Từ thực tế thử nghiệm và sau đó áp dụng vào thực tiễn, từ những ý kiến,
những phương án, giải pháp hoàn thiện hệ thống kế toán doanh nghiệp đã được
trao đổi rộng rãi, hệ thống kế toán doanh nghiệp chính thức đã được ban hành
theo Quyết đònh 1141-TC/QĐ/CĐKT ngày 01-11-1995 của Bộ trưởng Bộ tài
chính, áp dụng thống nhất trong cả nước từ 01-01-1996.
Cùng với hệ thống tài khoản kế toán; chế độ chứng từ kế toán và chế độ
sổ kế toán, hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp đã được ban hành theo
quyết đònh trên. Ở quyết đònh này, lần đầu tiên trong tiến trình lòch sử kế toán
Việt Nam, thuật ngữ “báo cáo tài chính” được sử dụng trong văn bản pháp quy
về kế toán. Có thể nói Quyết đònh 1141-TC/QĐ/CĐKT ngày 01-11-1995 của
Bộ trưởng Bộ tài chính là mốc lòch sử đánh dấu sự phân biệt chính thức kế toán
tài chính và kế toán quản trò nói chung cùng với hệ thống báo cáo tài chính và
hệ thống báo cáo quản trò nói riêng.
Nghiên cứu tiến trình lòch sử của kế toán nói chung và hệ thống báo cáo
kế toán doanh nghiệp nói riêng ở Việt Nam, chúng ta có thể rút ra một số kết
luận sau:
• Trong giai đoạn nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp chưa có sự phân biệt kế toán tài chính và kế
toán quản trò nói chung và hệ thống báo cáo tài chính và hệ thống
-7-
báo cáo quản trò nói riêng do nhu cầu thông tin của các đối tượng sử
dụng bên ngoài doanh nghiệp – các cơ quan chủ quản và các cơ quan
chức năng của Nhà nước – và của các nhà quản trò doanh nghiệp gắn
chặt với nhau.
• Trong giai đoạn xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng
cơ chế mới về quản lý kinh tế – cơ chế kế hoạch hóa theo phương
thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghóa, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, mầm mống của sự phân biệt kế toán tài chính và kế
toán quản trò nói chung và mầm mống của sự phân biệt hệ thống báo
cáo tài chính và hệ thống báo cáo quản trò nói riêng đã hình thành do
nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp
– các cơ quan chủ quản và các cơ quan chức năng của Nhà nước – đã
tách rời nhu cầu thông tin của các nhà quản trò doanh nghiệp.
• Trong giai đoạn nền kinh tế vận hành theo cơ chế thò trường có sự
quản lý của Nhà nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, bắt đầu có
sự phân biệt kế toán tài chính và kế toán quản trò nói chung cũng như
hệ thống báo cáo tài chính và hệ thống báo cáo quản trò nói riêng, do
yếu tố cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh đã hình thành cùng với
cơ chế thò trường; các đối tượng sử dụng thông tin kế toán, bên ngoài
doanh nghiệp, được mở rộng-không chỉ là các cơ quan chức năng của
Nhà nước mà còn là các nhà đầu tư, các chủ nợ…
1.3 HỆ THỐNG BÁO CÁO KẾ TOÁN
1.3.1 Sự phát triển hệ thống báo cáo kế toán từ khi đổi mới nền kinh tế
đất nước
Báo cáo chính trò của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam (khóa VI) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, xác đònh: “Cơ chế
vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo đònh hướng xã hội chủ
nghóa là cơ chế thò trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách và các công cụ khác”. Quan điểm này tiếp tục được xác đònh trong
Báo cáo chính trò của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
(khóa VII) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: “…tiếp tục phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thò trường có sự quản lý
của Nhà nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa”.
Như vậy, đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là nền kinh tế nhiều thành
phần được vận hành theo cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước theo
-8-
đònh hướng xã hội chủ nghóa. Điều này làm thay đổi hẳn môi trường kế toán so
với các giai đoạn trước.
Để hội nhập vào thế giới và khu vực, đòi hỏi Việt Nam phải chuyển biến
về nhiều mặt, trong đó có kế toán nói chung và hệ thống báo cáo kế toán nói
riêng. Chính những thay đổi của môi trường kế toán trên đòi hỏi phải có một sự
cải cách hệ thống kế toán nói chung và hệ thống báo cáo kế toán nói riêng.
Quan điểm đònh hướng đổi mới được nêu ra là:
• Đổi mới chế độ kế toán phải được thực hiện một cách căn bản trên cơ
sở tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ kế toán nền kinh tế thò trường,
xóa bỏ các yếu tố của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trong kế toán.
• Đổi mới chế độ kế toán phải hướng theo một mô hình kế toán kinh tế
thò trường tiên tiến và phổ biến trên thế giới, có tính tới điều kiện và
khả năng thực tế và yêu cầu quản lý của ta.
• Đổi mới chế độ kế toán phải phù hợp và phục vụ có hiệu quả cho
việc thu nhận các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản kế toán quốc gia
(SNA), phải được tiến hành đồng bộ và cùng với việc đổi mới các cơ
chế chính sách liên quan trước hết là cơ chế tài chính doanh nghiệp.
• Đổi mới chế độ kế toán phải theo hướng tin học hóa và hiện đại hóa
công tác kế toán, đồng thời phải đơn giản, dễ làm, dễ kiểm tra, vừa
phục vụ được yêu cầu quản trò kinh doanh của cơ sở, vừa đảm bảo
đáp ứng yêu cầu quản trò kinh doanh của cơ sở, vừa đảm bảo đáp ứng
yêu cầu quản lý và kiểm soát vó mô của Nhà nước; được quốc tế chấp
nhận.
Trên tinh thần đó, Ban nghiên cứu và soạn thảo dự án cải cách hệ thống
kế toán doanh nghiệp Việt Nam đã được thành lập. Sau nhiều lần dự thảo với
sự tham gia tích cực của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia lý luận và thực
tiễn về kế toán, Bộ tài chính đã có quyết đònh số 1205 và 1206 TC/CĐKT ngày
14/12/1994 ban hành hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống báo cáo kế toán
áp dụng cho các doanh nghiệp được chọn thử nghiệm từ 01/01/1995.
Tóm lại, thời gian qua, môi trường kế toán Việt Nam có những biến động
lớn, chi phối đònh hướng phát triển kế toán nói chung và hệ thống báo cáo kế
toán áp dụng cho các doanh nghiệp nói riêng. Cùng với những thay đổi về cơ
chế quản lý kinh tế, khi nền kinh tế còn vận hành trong cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, hệ thống báo cáo kế toán cũng được hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu
-9-
thông tin đã thay đổi của các cơ quan chủ quản, các cơ quan quản lý chức năng
của Nhà nước. Khi cơ chế vận hành nền kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung sang cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước theo đònh hướng xã
hội chủ nghóa, hệ thống kế toán doanh nghiệp nói chung và hệ thống báo cáo
kế toán doanh nghiệp nói riêng đã kòp thời cải cách để đáp ứng nhu cầu thông
tin của các đối tượng sử dụng trong thời kỳ mới.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thò trường thì báo cáo kế toán được
sử dụng như một phương tiện để cung cấp thông tin cho những người sử dụng đề
ra các quyết đònh kinh tế: “Báo cáo kế toán đònh kỳ là những báo cáo tổng hợp
nhất về tình hình tài sản, công nợ và nguồn vốn, cũng như tình hình tài chính
kết quả kinh doanh trong kỳ của một doanh nghiệp nhằm phục vụ các yêu cầu
thông tin cho việc đề ra các quyết đònh của chủ doanh nghiệp, hội đồng quản trò
doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay hiện tại, tương lai và các cơ quan tổ
chức chức năng“
Thuật ngữ “Báo cáo tài chính“ lần đầu tiên được sử dụng trong Quyết
đònh số 1141 – TC /QĐ/CĐKT ban hành ngày 01/11/1995 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính. Đây là một bước thay đổi mang ý nghóa quan trọng vì cùng với việc phân
biệt kế toán tài chính và kế toán quản trò trong hệ thống kế toán thì cũng phân
biệt hệ thống báo cáo tài chính, kết quả của kế toán tài chính, và hệ thống báo
cáo quản trò, kết quả của kế toán quản trò.
1.3.2 Đònh nghóa báo cáo kế toán
Khi nền kinh tế còn vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung thì: “
Báo cáo kế toán là phương pháp kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo
các chỉ tiêu kinh tế về tình hình kết quả sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn
của một đơn vò kế toán trong một thời kỳ nhất đònh vào một hệ thống biểu mẫu
báo cáo đã quy đònh “
Vậy báo cáo kế toán là một trong các phương pháp của kế toán được sử
dụng để thực hiện các chức năng của nó – chức năng phản ánh và kiểm tra đối
tượng kế toán trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Báo cáo tài chính được đònh nghóa dưới nhiều hình thức khác nhau:
•
“Báo cáo tài chính được dùng để mô tả hoạt động và tình trạng tài
chính của các loại hình tổ chức khác nhau“.
- 10 -
•
“Các báo cáo tài chính chuyển đến ban quản trò và những người bên
ngoài có quan tâm một hình ảnh súc tích về khả năng sinh lợi và tình
hình tài chính của một doanh nghiệp. Chúng là sản phẩm cuối cùng
của quá trình kế toán“.
Trong “Khuôn mẫu cho việc lập và trình bày các báo cáo tài chính“ của
Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) thì:
•
“Các báo cáo tài chính (…) được lập và trình bày ít nhất mỗi năm một
lần và đã được đònh hướng theo yêu cầu về thông tin của người sử
dụng bên ngoài“.
•
“Các báo cáo tài chính hình thành nên một bộ phận của quá trình
báo cáo tài chính. Một bộ báo cáo tài chính hoàn chỉnh thường bao
gồm bảng cân đối tài sản, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo luân
chuyển tiền tệ (…) và những biểu bảng ghi chú, giải thích khác, là
một bộ phận không tách rời của các báo cáo tài chính “
Báo cáo quản trò là những báo cáo chi tiết phục vụ yêu cầu quản lý và
điều hành sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp và từng bộ phận doanh
nghiệp. Tùy theo yêu cầu và khả năng quản lý trong từng ngành, từng doanh
nghiệp, từng thành phần kinh tế…mà hệ thống báo cáo kế toán quản trò có thể
khác nhau về số lượng cũng như kết cấu nhưng các báo cáo này phải cung cấp
được những thông tin cần thiết cho các nhà quản trò trong việc điều hành và
quản lý doanh nghiệp.
Tóm lại báo cáo kế toán là hệ thống thông tin đã được hệ thống kế toán
xử lý nhằm cung cấp thông tin có ích cho người sử dụng để ra các quyết đònh
kinh tế. Và tùy theo đối tượng sử dụng, nếu là các đối tượng bên trong doanh
nghiệp thì đó là hệ thống báo cáo quản trò, còn nếu cung cấp cho cả các đối
tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp thì đó là hệ thống báo cáo tài chính.
1.3.3 Mục đích của báo cáo kế toán
Đối tượng sử dụng báo cáo kế toán và nhu cầu thông tin của họ sẽ quyết
đònh mục đích của báo cáo kế toán, do đó khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, không có sự phân biệt giữa kế toán tài chính và kế toán
quản trò thì cũng không có sự phân biệt về mục đích báo cáo của hai hệ thống
này. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thò trường thì sự phân biệt này được
thể hiện rõ và mục đích của báo cáo tài chính được xác đònh trong
- 11 -
QĐ1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc
ban hành “Chế độ kế toán doanh nghiệp”
“Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản,
công nợ, nguồn vốn, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp trong một kỳ hạch toán. Cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính
chủ yếu cho việc đánh giá tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp,
đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua và
những dự đoán trong tương lai. Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan
trọng cho việc đề ra các quyết đònh về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất,
kinh doanh, hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của các chủ doanh nghiệp, chủ sở
hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.”
Ngoài ra mục đích lập báo cáo tài chính còn được xác đònh trong “Khuôn
mẫu cho việc lập và trình bày các báo cáo tài chính” sẽ đáp ứng nhu cầu của
người sử dụng thông tin trong việc:
• Dự đoán khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra tiền và các
khoản tương đương tiền trong tương lai.
• Dự đoán nhu cầu vay trong tương lai.
• Dự đoán năng lực của doanh nghiệp trong việc huy động các
nguồn tài trơ.ï
• Dự đoán khả năng của doanh nghiệp trong việc thực hiện các cam
kết tài chính khi nó đến hạn.
• Đánh giá những thay đổi tiềm tàng trong các nguồn lực kinh tế mà
doanh nghiệp có thể kiểm soát trong tương lai.
• Dự đoán năng lực của doanh nghiệp để tạo ra những dòng tiền từ
cơ sở các nguồn lực hiện có.
• Đánh giá hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được từ việc sử dụng các
nguồn lực bổ sung.
• Đánh giá các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt
động tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.
- 12 -
• Đánh giá khả năng tạo ra tiền, các khoản tương đương tiền trong
tương lai của doanh nghiệp và nhu cầu sử dụng các nguồn tiền
này.
Vậy báo cáo tài chính được lập nhằm đáp ứng những yêu cầu chung nhất
của hầu hết những người sử dụng. Tuy nhiên, các báo cáo tài chính không cung
cấp toàn bộ các thông tin mà người sử dụng yêu cầu để ra các quyết đònh kinh
tế vì chúng chỉ đưa ra các ảnh hưởng tài chính quá khứ và cũng không bắt buộc
cung cấp các thông tin phi tài chính, do đó báo cáo quản trò được lập nhằm đáp
ứng nhu cầu này. Nó được lập để cung cấp thông tin hữu ích phục vụ cho việc
hoạch đònh, kiểm soát và ra quyết đònh của nhà quản trò ở những cấp độ khác
nhau phù hợp với đặc điểm hoạt động cụ thể của nhà doanh nghiệp.
1.3.4 Yêu cầu đối với báo cáo kế toán
a/ Yêu cầu đối với báo cáo tài chính
¬ Dựa trên hai giả thuyết căn bản là:
•
Cơ sở dồn tích
Để đáp ứng được các mục đích của mình, các báo cáo tài chính được lập
trên cơ sở kế toán dồn tích. Theo cơ sở này, ảnh hưởng của các nghiệp vụ, các
sự kiện được hạch toán khi chúng phát sinh (mà không phải vào thời điểm thực
tế thu tiền hoặc chi tiền) và chúng được ghi chép trong các báo biểu kế toán và
được thể hiện trong các báo cáo tài chính của kỳ mà chúng phát sinh. Các báo
cáo tài chính được lập trên cơ sở kế toán dồn tích không chỉ thông báo cho
người sử dụng các nghiệp vụ đã qua có liên quan đến việc thu chi tiền tệ mà
còn thông báo cho người sử dụng các thông tin về các nghóa vụ doanh nghiệp
phải thanh toán và các nguồn tiền doanh nghiệp sẽ thu trong tương lai. Vì thế
các báo cáo tài chính đó cung cấp những thông tin về các nghiệp vụ quá khứ và
các sự kiện khác rất hữu ích để người sử dụng các thông tin đó đưa ra các quyết
đònh hợp lý.
•
Tính liên tục của hoạt động kinh doanh
Các báo cáo tài chính được lập theo giả đònh doanh nghiệp đang hoạt
động và sẽ tiếp tục hoạt động trong một tương lai có thể dự kiến trước. Vì thế,
người ta giả đònh rằng doanh nghiệp không có ý đònh mà cũng không cần thiết
phải từ bỏ hoặc thu hẹp quy mô hoạt động của mình một cách nghiêm trọng.
Nếu thực tế diễn ra trái với giả đònh trên đây thì báo cáo tài chính có thể phải
- 13 -
được lập theo một giả đònh khác và như vậy giả đònh đó sẽ được trình bày cụ
thể.
¬ Các đònh tính của một báo cáo tài chính:
•
Dễ hiểu
Chất lượng cơ bản của các thông tin do các báo cáo tài chính cung cấp là
những thông tin này phải dễ hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây
được hiểu là người có kiến thức về kinh doanh và hoạt động kinh tế, hiểu biết
về kế toán ở mức vừa phải, sẵn lòng nghiên cứu các thông tin được cung cấp
với mức độ tập trung suy nghó vừa phải. Tuy nhiên, thông tin về những vấn đề
phức tạp cần được kèm theo báo cáo tài chính vì nó phục vụ cho các yêu cầu ra
các quyết đònh về quản lý kinh tế của người sử dụng, những thông tin này
không thể bò loại ra vì lý do là nó có thể sẽ là rất khó hiểu đối với người sử
dụng.
•
Thích hợp
Để có ích các thông tin phải phù hợp để đáp ứng các yêu cầu đưa ra các
quyết đònh kinh tế của người sử dụng. Những thông tin có chất lượng phù hợp là
những thông tin có tác động đến quyết đònh kinh tế của người sử dụng bằng
cách giúp họ đánh giá các sự kiện quá khứ, hiện tại hoặc tương lai hoặc xác
nhận, chỉnh lý các đánh giá quá khứ của họ.
Vai trò xác nhận và dự đoán của các thông tin có quan hệ tương hỗ lẫn
nhau. Ví dụ các thông tin về mức độ tài sản và cơ cấu tài sản rất có giá trò với
người sử dụng khi họ muốn dự đoán khả năng của doanh nghiệp để tận dụng cơ
hội và phản ứng với các tình huống ngược lại. Các thông tin tương tự đóng vai
trò xác nhận về các chuẩn đoán quá khứ, ví dụ, tìm ra cách thức để xây dựng
nên doanh nghiệp hoặc lập kế hoạch kinh doanh.
Các thông tin về tình hình tài chính và tình hình kinh doanh đã qua
thường được sử dụng như những căn cứ để dự đoán tình hình tài chính tương lai.
Tuy nhiên, khả năng dự đoán từ các thông tin lấy trong các báo cáo tài chính sẽ
được tăng cường thông qua cách trình bày các sự kiện nghiệp vụ đã qua. Ví dụ,
dự đoán giá trò của báo cáo thu sẽ có giá trò xác thực hơn nếu như các khoản
mục bất thường, khoản mục đặc biệt, khoản mục không đònh kỳ của thu nhập
hoặc chi phí được trình bày riêng biệt.
- 14 -
•
Trọng yếu
Tính thích hợp của các thông tin còn chòu ảnh hưởng bởi bản chất và tính
trọng yếu của thông tin đó. Trong một số trường hợp, chỉ cần bản chất của các
thông tin cũng đủ để xác đònh tính phù hợp của những thông tin đó. Ví dụ, khi
báo cáo về một bộ phận mới có thể sẽ có ảnh hưởng tới việc đánh giá các rủi ro
và các thuận lợi mà doanh nghiệp sẽ gặp trong tương lai bất kể tính trọng yếu
của những kết quả mà bộ phận mới sẽ đạt trong kỳ báo cáo. Trong những
trường hợp khác cả bản chất và tính trọng yếu đều rất quan trọng, ví dụ, giá trò
hàng tồn kho hiện có của đơn vò được phân theo chủng loại chính phù hợp với
hoạt động kinh doanh.
Các thông tin được coi là trọng yếu nếu không có hoặc xác đònh sai
những thông tin đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyết đònh kinh tế của
người sử dụng thông tin. Mức độ trọng yếu lại tùy thuộc vào mức độ của hạng
mục hoặc mức độ của các sai lầm mà trong hoàn cảnh cá biệt nào đó đã bò bỏ
sót hoặc xác đònh sai. Vì vậy, khái niệm trọng yếu đưa ra một ngưỡng hơn là
một đònh tính mà thông tin phải chứa đựng nếu nó là hữu ích.
•
Đáng tin cậy
Để hữu ích thông tin phải đáng tin cậy. Các thông tin có chất lượng đáng
tin cậy khi chúng không mắc những sai lầm nghiêm trọng hoặc phản ánh méo
mó một cách cố ý và có thể phụ thuộc vào người sử dụng các thông tin đó cho
một mục đích khách quan hợp lý.
Các thông tin có thể thích hợp nhưng lại không đáng tin cậy về bản chất
hoặc cách trình bày bởi vì các thông tin này có thể có những sai lầm mà người
ta chưa phát hiện ra. Ví dụ nếu trò giá của khoản tiền đòi bồi thường trong một
vụ kiện tụng tranh chấp có thể sẽ là không hợp lý khi ta công nhận toàn bộ số
tiền này trong bảng tổng kết tài sản nhưng sẽ là hợp lý khi ta trình bày khoản
tiền đó ở tài liệu bổ sung.
- 15 -
•
Trình bày trung thực
Để có độ tin cậy, các thông tin phải được trình bày một cách trung thực
về những giao dòch và các sự kiện khác có liên quan. Nó trợ giúp cho việc trình
bày hoặc có thể được dự kiến là hợp lý để trình bày. Vì vậy bảng tổng kết tài
sản cần trình bày một cách trung thực các nghiệp vụ, sự kiện khác có liên quan
đến việc đánh giá tài sản có, công nợ và vốn cổ phần của doanh nghiệp vào
thời điểm lập báo cáo mà những chỉ tiêu đó đáp ứng được các yêu cầu của các
tiêu thức hạch toán.
Hầu hết các thông tin tài chính đều phụ thuộc vào một số rủi ro do việc
trình bày chưa xác thực với tình hình thực tế, ví dụ thông tin không khách quan
vô tư hoặc do những khó khăn tiềm tàng trong việc xác đònh các nghiệp vụ, sự
kiện khác mà lẽ ra những thông tin đó phải được xác đònh một cách chuẩn xuất
phát từ những nghiệp vụ, những sự kiện thực tế. Trong một số trường hợp việc
tính toán ảnh hưởng tài chính của các chỉ tiêu có thể không thật chắc chắn đến
nỗi mà thường doanh nghiệp không dám công nhận chúng trong báo cáo tài
chính của mình, ví dụ, mặc dù hầu hết các doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh đều có cố gắng xây dựng uy tín nhưng thật khó tính toán khi xác đònh chỉ
tiêu này một cách đáng tin cậy. Trong những trường hợp khác, có thể sẽ là thích
hợp khi hạch toán các khoản mục và trình bày các rủi ro sai lầm xung quanh
việc hạch toán và đánh giá chúng.
•
Nội dung hơn hình thức
Nếu thông tin được trình bày một cách trung thực về những nghiệp vụ và
sự kiện khác mà chúng phải trình bày, điều cần thiết ở đây là những thông tin
đó được tính toán và trình bày phù hợp với bản chất kinh tế và hình thái sở hữu
chứ không đơn thuần chỉ là hình thức pháp lý của chúng. Hình thái của các giao
dòch hoặc các sự kiện khác không phải lúc nào cũng nhất quán với hình thức
pháp lý hoặc hình thức cơ cấu của chúng. Ví dụ, một doanh nghiệp có thể
nhượng bán một tài sản cho doanh nghiệp khác theo phương thức nào đó để lập
thành những chứng từ chuyển giao quyền sở hữu pháp lý cho người mua, nhưng
cũng có thể trong thỏa thuận mua bán sẽ có một điều khoản là doanh nghiệp
tiếp tục được hưởng các lợi ích kinh tế do tài sản này mang lại trong tương lai.
Trong những trường hợp như vậy việc báo cáo bán hàng sẽ không trình bày
được toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh (nếu có giao dòch).
- 16 -
•
Tính khách quan
Để có độ tin cậy cao, thông tin trong các báo cáo tài chính phải khách
quan, không bò xuyên tạc, bóp méo một cách vô lý. Các báo cáo tài chính sẽ
không được coi là khách quan nếu như bằng việc lựa chọn hoặc trình bày thông
tin chúng có ảnh hưởng đến việc ra các quyết đònh hoặc xét đoán và cách lựa
chọn trình bày đó nhằm đạt đến kết quả mà người lập báo cáo đã biết trước.
•
Thận trọng
Tuy nhiên, những người lập các báo cáo tài chính thường phải trình bày
các nội dung về nhiều sự kiện, tình thế không chắc chắn khó có thể tránh được,
chẳng hạn như khả năng thu hồi các khoản phải thu khó đòi, thời gian hữu dụng
có thể của máy móc thiết bò và số lượng các trái quyền có thể phát sinh. Các
yếu tố không chắc chắn như vậy được hạch toán bằng cách trình bày nội dung
bản chất của nó và thực hiện nguyên tắc thận trọng trong việc lập các báo cáo
tài chính. Thận trọng bao gồm cả mức độ lường trước các sự kiện cần xét đoán
trong quá trình dự đoán trên cơ sở những dữ liệu không thật chắc chắn, ví dụ
như tài sản và thu nhập thì không được tính cao lên, ngược lại công nợ và chi
phí lại không được tính thấp xuống. Tuy nhiên việc thực hiện tính thận trọng
cũng không có nghóa là che dấu nguồn dự trữ hoặc lập các quỹ dự phòng lớn
hơn yêu cầu thực tế. Việc cố ý ghi giá trò của các tài sản hoặc thu nhập thấp
hơn thực tế hoặc xác đònh chi phí công nợ cao hơn thực tế không được coi là sự
thận trọng mà là xuyên tạc sự thật và điều này sẽ dẫn đến việc các thông tin
trong báo cáo tài chính thiếu khách quan.
•
Đầy đủ
Để có độ tin cậy, các thông tin trong các báo cáo tài chính phải được
hoàn tất trong phạm vi những vấn đề trọng yếu và chi phí bỏ ra. Một sự bỏ sót
có thể gây ra những thông tin sai lệch dẩn đến những kết luận nhầm lẫn và như
vậy các thông tin không được coi là thích hợp vì chúng không đầy đủ và không
đáng tin cậy.
•
Có thể so sánh được
Người sử dụng phải có khả năng so sánh các thông tin trong các báo cáo
tài chính của kỳ này với kỳ trước để xác đònh xu hướng biến động về tình hình
tài chính và kinh doanh của doanh nghiệp. Người sử dụng cũng phải so sánh các
- 17 -
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp khác nhau để đánh giá mối tương quan
về tình hình tài chính và tình hình kinh doanh và các thay đổi về tình hình tài
chính giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác đònh tính toán và trình bày các
ảnh hưởng tài chính của các giao dòch và các sự kiện khác như vậy phải được
tiến hành một cách nhất quán giữa kỳ này với các kỳ khác trong phạm vi một
doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau.
Một ngụ ý quan trọng của tính chất đònh tính về tính có thể so sánh được
là người sử dụng phải được thông báo về các chính sách kế toán mà doanh
nghiệp áp dụng để lập các báo cáo tài chính cũng như mọi thay đổi về các
chính sách này và ảnh hưởng của những thay đổi đó. Người sử dụng cần có thể
xác đònh sự khác biệt giữa các chính sách kế toán đối với các giao dòch và các
sự kiện mà một doanh nghiệp đã sử dụng giữa kỳ này với kỳ khác và giữa các
doanh nghiệp khác nhau. Tuân thủ các Chuẩn Mực Kế Toán Quốc Tế, bao
gồm việc trình bày các chính sách kế toán mà doanh nghiệp đã sử dụng, giúp
cho các báo cáo tài chính có thể so sánh được với nhau.
Sự cần thiết cho việc so sánh được sẽ không bò lẫn lộn với tính đồng nhất
đơn thuần và không được phép gây trở ngại trong việc áp dụng và nâng cao các
chuẩn mực kế toán. Vì người sử dụng muốn so sánh sự biến động về tình hình
tài chính, tình hình kinh doanh qua các kỳ khác nhau, cho nên bất kỳ một doanh
nghiệp nào khi thực hiện các phương pháp kế toán giống nhau đối với các giao
dòch và dữ kiện thì sẽ không thích hợp nếu như chính sách kế toán tuân theo đó
không giữ được tính chất về đònh tính, tính phù hợp và độ tin cậy.
¬ Những hạn chế về tính phù hợp và tin cậy của thông tin
•
Kòp thời
Nếu có sự chậm trể trong việc báo cáo các thông tin thì sự chậm trể đó
có thể làm mất đi tính phù hợp của các thông tin. Các nhà quản lý có thể cần sự
cân đối giữa việc báo cáo đúng kỳ với việc cung cấp các thông tin đáng tin cậy.
Để cung cấp những thông tin trên cơ sở kòp thời người ta cho rằng cần thiết phải
báo cáo trước khi tất cả các phương diện giao dòch hoặc sự kiện được nhận biết.
Ngược lại, việc báo cáo chậm trể khi mà tất cả các phương diện đều
được biết thì các thông tin có thể có độ tin cậy cao nhưng sẽ có rất ít tác dụng
cho việc đưa ra các quyết đònh kinh tế kòp thời. Để đạt được sự cân đối về tính
phù hợp và độ tin cậy người ta phải cân nhắc sao cho phải phục vụ tốt nhất cho
các yêu cầu ra các quyết đònh kinh tế của người sử dụng.
- 18 -
•
Cân đối giữa lợi ích và chi phí
Cân đối giữa lợi ích và chi phí là một hạn chế hơn là tính chất đònh tính.
Lợi ích từ các thông tin phải cao hơn những chi phí bỏ ra để có được thông tin
đó. Tuy nhiên, việc đánh giá lợi ích và chi phí chủ yếu là một quá trình xét
đoán.
Hơn nữa các chi phí không cần thiết là phải tính cho những người sử
dụng dù họ có thể hưởng lợi ích từ những thông tin mà họ thu được. Các lợi ích
cũng có thể người sử dụng thông tin được hưởng nhiều hơn là những người cung
cấp thông tin, ví dụ, việc cung cấp thông tin bổ sung cho những người cho vay
có thể làm giảm bớt các chi phí đi vay của doanh nghiệp.Vì vậy, sẽ rất là khó
khăn khi người ta kiểm tra tính toán cân đối giữa lợi ích và chi phí trong mọi
trường hợp cá biệt. Hơn nữa, những người soạn thảo các chuẩn mực nói riêng
cũng như những người lập và báo cáo tài chính phải nhận thức được hạn chế
này.
•
Cân đối giữa các tính chất đònh tính
Trên thực tế việc cân đối hoặc sự cân bằng giữa các tính chất đònh tính
thường là rất cần thiết. Nói chung thì việc đạt được sự cân đối hợp lý giữa các
tính chất đònh tính nhằm để đáp ứng mục đích của các báo cáo tài chính luôn
luôn là mục tiêu của người lập và người sử dụng các báo cáo tài chính. Tầm
quan trọng tương đối của các tính chất đònh tính trong những trường hợp khác
nhau đó là xét đoán chuyên môn.
b/ Yêu cầu đối với báo cáo quản trò
Nhìn chung yêu cầu đối với những thông tin trên báo cáo quản trò cũng
giống như những yêu cầu đối với những thông tin trên báo cáo tài chính nhưng
những yêu cầu nói trên cũng có những đặc điểm như sau:
• Tính thích hợp của thông tin trên báo cáo quản trò thể hiện ở chỗ
thông tin đó phải thích hợp với từng nhà quản trò, từng quyết đònh cụ
thể và từng bộ phận trong doanh nghiệp.
• Thông tin trên báo cáo quản trò chủ yếu phục vụ cho nội bộ doanh
nghiệp nên tính so sánh của nó chỉ trong phạm vi từng phương án,
từng bộ phận thực hiện các chức năng, từng trung tâm trách nhiệm
trong doanh nghiệp.
- 19 -
• Trong khi báo cáo tài chính mang tính bắt buộc thì báo cáo quản trò
mang tính hướng dẩn do đó doanh nghiệp chỉ lập báo cáo quản trò khi
thông tin trên báo cáo đó mang lại lợi ích cao hơn chi phí bỏ ra để có
được thông tin đó. Vì vậy, yêu cầu cân đối giữa lợi ích và chi phí của
thông tin trên báo cáo quản trò là quan trọng.
Tuy nhiên, thông tin trên báo cáo quản trò chủ yếu hướng về tương lai,
phục vụ cho việc hoạch đònh, kiểm soát, ra quyết đònh của các nhà quản trò và
không chòu sự chi phối của các nguyên tắc kế toán được quy đònh do đó tính có
ích, tính kòp thời của thông tin là yêu cầu rất quan trọng.
Tóm lại, hệ thống báo cáo kế toán là nguồn cung cấp thông tin quan
trọng cho nhiều đối tượng sử dụng khác nhau để đề ra các quyết đònh kinh tế.
Tùy vào đối tượng sử dụng thông tin cũng như tính chất thông tin mà hệ thống
báo cáo kế toán được chia thành hệ thống báo cáo tài chính và hệ thống báo
cáo quản trò. Báo cáo tài chính chủ yếu phục vụ cho đối tượng sử dụng bên
ngoài và được soạn thảo theo những nguyên tắc kế toán quy đònh nhằm cung
cấp những thông tin có ích và có độ tin cậy cao. Còn báo cáo quản trò thì chỉ
phục vụ cho nội bộ doanh nghiệp và được trình bày theo yêu cầu của bản thân
doanh nghiệp nên nó không chòu sự chi phối của các nguyên tắc kế toán mà
mang tính đa dạng và linh hoạt cao để giúp cho nhà quản trò ở các cấp độ quản
lý khác nhau trong doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực
hiện các chức năng quản lý của mình.
- 20 -
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG BÁO CÁO
KẾ TOÁN ÁP DỤNG CHO CÔNG TY
DÂY VÀ CÁP ĐIỆN VIỆT NAM
2.1 GIỚI THIỆU CÔNG TY DÂY VÀ CÁP ĐIỆN VIỆT NAM (CADIVI)
VÀ BỘ MÁY KẾ TOÁN CÔNG TY
2.1.1 Vài nét về Công ty CADIVI
a/ Lòch sử hình thành Công ty CADIVI
Công ty Dây và Cáp Điện Việt Nam - CADIVI thành lập ngày 16-101975 theo Quyết đònh số 220/TC LK của Tổng cục trưởng Tổng cục Cơ Khí
Luyện Kim và Điện Tử với tên gọi lúc bấy giờ là Công Ty Dây Đồng Miền
Nam, trên cơ sở thống nhất quản lý các xí nghiệp thuộc ngành dây và cáp điện
của 10 doanh nghiệp tư nhân trên đòa bàn thành phố Hồ Chí Minh và Khu Công
nghiệp Biên Hòa-Đồng Nai được hình thành trong chế độ cũ trước ngày miền
Nam hoàn toàn giải phóng - 30/4/1975, sau đó lần lượt được đổi tên:
• Công ty Luyện Kim Màu - Quyết đònh số 237/CP ngày 3-12-1976 của
Thủ tướng Chính Phủ.
• Xí nghiệp Liên Hiệp Cán Kéo Dây Đồng và Nhôm - Quyết đònh số 210
ngày 29-9-1982 của Bộ Trưởng Bộ Cơ Khí Luyện Kim.
• Xí nghiệp Liên Hiệp Dây và Cáp Điện - CADIVI - Quyết đònh số
207/CL-TC ngày 6-11-1989 của Bộ Trưởng Bộ Cơ Khí Luyện Kim.
• Công ty Dây và Cáp Điện Việt Nam - CADIVI - Quyết đònh số
238/CL-TC CBĐT ngày 23-03-1995 của Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp
Nặng.
Công ty Dây và Cáp Điện Việt Nam - CADIVI thuộc Tổng Công ty
Thiết Bò Kỹ Thuật Điện - Bộ Công Nghiệp Nặng, nay là Bộ Công Nghiệp, là
doanh nghiệp nhà nước chuyên sản xuất, chế tạo các loại dây và cáp điện phục
vụ rộng rãi cho các ngành kinh tế quốc dân và các nhu cầu sử dụng dây và cáp
điện trong sinh hoạt thường ngày.
Công ty Dây và Cáp Điện Việt Nam còn sản xuất các thiết bò chuyên
dùng như: máy biến áp 1 pha 25-75-100 KVA, động cơ điện, cầu dao điện, biến
- 21 -
dòng điện, hạt PVC, cáp bọc cao su, cáp điều khiển… và các loại sản phẩm
khác như: nhôm hình phục vụ xây dựng cơ bản, trang trí nội thất…
Hiện nay Công ty Dây và Cáp Điện Việt Nam là đơn vò chủ yếu sản
xuất kinh doanh sản phẩm dây và cáp điện có chất lượng cao trên thò trường
trong nước.
Công ty Dây và Cáp Điện Việt Nam (Vietnam Electric Wire and Cable
Corp) tên giao dòch là CADIVI.
Các xí nghiệp thành viên của CADIVI:
1. Xí nghiệp Thành Mỹ (THAMYCO) - Khu Công nghiệp Biên Hòa
Đồng Nai
2. Xí nghiệp Tân Á ( SUNAWICA) - Q. Tân Bình - TP. Hồ Chí Minh
3. Xí nghiệp Long Biên (VIDICO) - Khu Công nghiệp Biên Hòa Đồng
Nai
4. Xí nghiệp Khí Cụ Điện 2 - Q. 6 -TP. Hồ Chí Minh
5. Xí nghiệp Việt Thái (VITHAICO) - Khu Công nghiệp Biên Hòa
Đồng Nai
b/ Những đặc điểm chủ yếu về tổ chức quản lý và phân cấp quản lý:
¬ Đặc điểm tổ chức quản lý
Công ty Dây và Cáp điện Việt Nam thực hiện chế độ quản lý hai cấp:
cấp công ty và cấp các xí nghiệp phụ thuộc, trực thuộc. Công ty là cấp quản lý
tập trung thống nhất, các xí nghiệp thành viên tùy theo đặc điểm mà được công
ty phân quyền hạn và một số mặt quản lý nhất đònh. Hầu hết các xí nghiệp đều
hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế nội bộ trừ Xí nghiệp Khí Cụ Điện
2 hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập.
Ở công ty: giúp việc cho giám đốc có các phó giám đốc (phụ trách kinh
doanh, kỹ thuật) và các phòng chuyên môn (kế hoạch vật tư, tổ chức hành
- 22 -