Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ: Nghiên cứu trường hợp thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.4 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Trần Thị Thuỷ

tÝn ng-ìng bµ chóa kho ë ch©u thæ b¾c bé:
nghiªn cøu tr-êng hîp thê bµ chóa kho
ë lµng cæ mÔ, thµnh phè b¾c ninh
Chuyên ngành: Văn hoá dân gian
Mã số: 62 22 01 30

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội - 2015


Công trình đƣợc hoàn thành tại:
VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Nguyễn Chí Bền

TS. Phan Phƣơng Anh

Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Thu Yến
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Hiền
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Phản biện 3: PGS.TS. Phạm Quỳnh Phƣơng


Viện Nghiên cứu Văn hóa
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện, tại
Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
Vào hồi:..... giờ..... ngày..... tháng.... .năm 2015.
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam.
- Thư viện Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.


1

MỞ ĐẦU
1. Lý‎do chọn đề tài
Bà Chúa Kho là một trong những phúc thần của người Việt, chiếm
vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của cộng đồng dân cư châu thổ
Bắc Bộ. Nhân dân thờ cúng Bà Chúa Kho ở nhiều nơi, dưới hình mẫu vị
thần “chủ kho”, một nữ nhân vật thờ vốn tồn tại từ rất lâu trong lịch sử
Việt Nam. Việc thờ cúng Bà Chúa Kho là nhằm tôn vinh một vị nữ thánh,
một biểu tượng gợi nhắc về nguồn gốc quá khứ đem đến niềm tự hào của
cộng đồng.
Trong gần 30 năm trở lại đây, cùng với quá trình đổi mới của đất
nước, việc thờ cúng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ đã có sự
chuyển biến mạnh mẽ, trở thành một hiện tượng tín ngưỡng dân gian thu
hút hàng trăm nghìn lượt khách hành hương mỗi năm. Sự phát triển tín
ngưỡng Bà Chúa Kho không chỉ tác động mạnh mẽ đến đời sống tâm linh
của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ mà còn ảnh hưởng đến cả phương diện
hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa. Do vậy, tín ngưỡng Bà Chúa Kho đã
thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học bởi nó thể hiện nhiều khía cạnh
và động năng của một xã hội chuyển đổi.
Cho đến nay, có hàng chục công trình nghiên cứu công bố liên quan

đến tín ngưỡng Bà Chúa Kho. Trong đó có 2 nhóm vấn đề được đề cập, đó
là: 1/ Tìm hiểu nguồn gốc hình thành tín ngưỡng Bà Chúa Kho; 2/ Mô tả
hiện trạng, những vấn đề bất cập và khám phá các nguyên nhân biến đổi
của tín ngưỡng Bà Chúa Kho đặt trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế xã hội
Việt Nam sau giai đoạn Đổi mới. Các nghiên cứu này đã cung cấp những
nhận thức mới về nguồn gốc, vị trí, vai trò của tín ngưỡng Bà Chúa Kho
trong đời sống đương đại; góp phần làm sáng tỏ các nguyên nhân biến đổi
sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở bối cảnh sau Đổi mới, cung cấp một
số giải pháp giúp các nhà quản lý văn hóa, chính quyền địa phương có cơ
sở quản lý lễ hội tốt hơn.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây chưa đưa ra được một trường
hợp nghiên cứu nào nhằm làm rõ "quá trình sáng tạo truyền thống", quy
luật biến đổi tín ngưỡng Bà Chúa Kho theo hướng truyền thống biến đổi
cho phù hợp với bối cảnh mới; chưa đặt hiện tượng tín ngưỡng Bà Chúa


2
Kho trong bối cảnh châu thổ Bắc Bộ để so sánh với các nơi khác thờ Bà
Chúa Kho nhằm làm rõ hiện tượng “tín ngưỡng có sức thu hút đặc biệt” này.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tín ngưỡng Bà Chúa Kho,
chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ
Bắc Bộ: Nghiên cứu trường hợp thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, thành
phố Bắc Ninh; với mong muốn đóng góp một phần kết quả nghiên cứu về
quy luật biến đổi tín ngưỡng Bà Chúa Kho nói riêng, tín ngưỡng dân gian
Việt Nam nói chung. Hy vọng rằng đây sẽ là một nghiên cứu trường hợp
hữu ích để đối thoại với một số nghiên cứu của các tác giả khác cũng sử
dụng cách tiếp cận này.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ quá trình "sáng tạo
truyền thống” với nội hàm sáng tạo truyền thuyết, hệ thống điện thờ, nghi

lễ và cơ cấu tổ chức quản lý gắn với đối tượng tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở
làng Cổ Mễ, trong bối cảnh sinh hoạt tín ngưỡng thờ Bà Chúa Kho vùng
châu thổ Bắc Bộ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, phường Vũ
Ninh, thành phố Bắc Ninh trong bối cảnh các làng thờ Bà Chúa Kho vùng
châu thổ Bắc Bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: không gian thờ phụng Bà Chúa Kho ở làng
Cổ Mễ, có so sánh với không gian thờ phụng Bà Chúa Kho ở các địa
phương vùng châu thổ Bắc Bộ.
- Phạm vi thời gian: từ năm 1986 đến nay.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt khoa học, luận án cung cấp những nhận thức mới về vấn đề
sáng tạo và biến đổi văn hóa truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ nói riêng và
Việt Nam nói chung. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án góp
phần phục vụ công tác quản lý di sản văn hóa trong xây dựng đời sống văn
hoá đương đại.


3
5. Những kết quả và đóng góp của luận án
- Luận án đã khái quát diện mạo và đặc trưng tín ngưỡng Bà Chúa
Kho ở các địa phương trong vùng châu thổ Bắc Bộ. Trên cơ sở phân tích
các nguyên nhân chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội dẫn đến sự mở rộng
và thay đổi chức năng thờ cúng của tín ngưỡng Bà Chúa Kho, luận án mô
tả thực trạng, xu hướng biến đổi tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ
trong bối cảnh châu thổ Bắc Bộ. Đó là tiến trình khai thác các giá trị truyền
thống phục vụ cho cuộc sống hiện tại; "sáng tạo truyền thống" trong những

khuôn khổ và phạm vi mới.
- Luận án đã bàn luận và lý giải các kết quả "sáng tạo truyền thống"
tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ; các ảnh hưởng của nó đến xu
hướng thực hành tín ngưỡng hiện nay, đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa
của cộng đồng làng. Bên cạnh những mặt tích cực, sự thay đổi tín ngưỡng
Bà Chúa Kho cũng có những tác động tiêu cực về một số mặt văn hóa, xã
hội, môi trường và an ninh trật tự xã hội. Kết quả nghiên cứu góp phần làm
sáng tỏ lý thuyết "sáng tạo truyền thống" của Eric Hobsbawm; làm tài liệu
tham khảo cho các nhà quản lý văn hóa, chính quyền địa phương trong
việc xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách quản lý sinh hoạt tín ngưỡng
thờ Bà Chúa Kho nói riêng và sinh hoạt tín ngưỡng dân gian nói chung
trong vùng châu thổ Bắc Bộ.
6. Bố cục nội dung luận án
Ngoài phần Mở đầu (9 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham
khảo (10 trang) và Phụ lục (106 trang), Nội dung nghiên cứu của luận án
được trình bày trong 4 chương: Chương 1. Tổng quan, cơ sở lý thuyết,
cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu (24 trang); Chương 2. Nhận
diện việc thờ phụng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ (23 trang);
Chương 3. Quá trình "Sáng tạo truyền thống" tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở
làng Cổ Mễ (44 trang); Chương 4. Tín ngưỡng Bà Chúa Kho, những vấn
đề bàn luận (23 trang).


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, CÁCH TIẾP CẬN
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến
vấn đề biến đổi tín ngưỡng Bà Chúa Kho. Có thể chia những tài liệu

nghiên cứu này thành hai nhóm cơ bản: 1/ Nhóm tài liệu tập trung mô tả
hiện trạng và sự thay đổi hệ thống di tích, truyền thuyết, nghi thức thực
hành tín ngưỡng Bà Chúa Kho tại một không gian và thời gian xác định; 2/
Nhóm tài liệu nghiên cứu về ảnh hưởng của biến đổi kinh tế, chính trị, xã
hội Việt Nam thời kỳ Đổi mới đối với sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho.
1.1.1. Nghiên cứu hệ thống di tích, truyền thuyết, nghi thức thực
hành tín ngưỡng Bà Chúa Kho
- Các nghiên cứu đề cập đến lịch sử di tích, truyền thuyết, nghi thức
thực hành tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ: Truyền thuyết ở Cổ Mễ,
Tìm hiểu truyền thuyết Bà Chúa Kho trong bối cảnh văn hoá dân gian Hà
Bắc, Hiện tượng Bà Chúa Kho và tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Ninh, Bà
Chúa Kho trong tục thờ cúng các nữ thần của người Việt, Góp phần tìm
hiểu tín ngưỡng thờ Bà Chúa Kho ở đền Cổ Mễ (Bắc Ninh), Tín ngưỡng
Bà Chúa Kho và sự biến đổi của xã hội Việt Nam…
- Các nghiên cứu về di tích, truyền thuyết, nghi thức thực hành tín
ngưỡng Bà Chúa Kho ở những địa phương khác, thuộc châu thổ Bắc Bộ:
Các nữ thần Việt Nam, Bà Chúa Kho thành Hoàng làng Giảng Võ, Lý lịch
di tích lịch sử - văn hóa đền Trung Đồng, Lý lịch di tích đền Bà Chúa Kho
Hưng Yên...
1.1.2. Nghiên cứu về Bà Chúa Kho trong bối cảnh kinh tế, chính
trị, xã hội Việt Nam thời kỳ Đổi mới
- Các công trình nghiên cứu bao gồm kỷ yếu hội thảo khoa học: Tín
ngưỡng Bà Chúa Kho và khu di tích Cổ Mễ, Ngày xuân với tục vay tiền xin
lộc Bà Chúa Kho, Hiện tượng Bà Chúa Kho và tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc
Ninh, Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng, Vàng mã
cho người sống, chuyển hóa tâm linh trong một xã hội mở, Giao dịch với
thần thánh: một nghiên cứu về cái tôi và niềm tin qua hiện tượng Bà
Chúa Kho ở Bắc Việt Nam…



5
1.1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu
1.1.3.1. Các vấn đề đã được đề cập tới
Các tác giả đã tập trung tìm hiểu nguồn gốc Bà Chúa Kho thông qua
hệ thống truyền thuyết, di tích; xem xét cơ cấu tổ chức quản lý; nghiên cứu
sự tác động của kinh tế thị trường đến lễ hội Bà Chúa Kho; nghiên cứu
hoạt động thực hành tín ngưỡng Bà Chúa Kho... Những nghiên cứu của
Ngô Đức Thịnh, Lê Hồng Lý, Nguyễn Kim Hiền,… đã khám phá thực
hành tín ngưỡng của các nhóm xã hội, coi Bà Chúa Kho như một đối
tượng giúp họ làm ăn buôn bán; đề cập đến sự thay đổi tổ chức quản lý lễ
hội, quá trình tu bổ di tích… Người đọc thấy được sự biến đổi tín ngưỡng
Bà Chúa Kho vùng châu thổ Bắc Bộ một mặt phản ánh các thay đổi bên
trong nội tại vùng, mặt khác thể hiện những động thái chính trị, kinh tế, xã
hội ẩn chứa bên trong quá trình biến đổi tín ngưỡng này.
1.1.3.2. Những vấn đề đã được đồng thuận
Các tác giả có sự đồng thuận trong cách giải thích tín ngưỡng thờ Bà
Chúa Kho như là một hiện tượng tín ngưỡng "nóng", là kết quả của các
nguyên nhân thay đổi nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, tác động của nền
kinh tế thị trường, sự đổi mới chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước về di sản tín ngưỡng, nghi lễ truyền thống... Các tác giả cũng đã chỉ
ra triển vọng của lễ hội đền Bà Chúa Kho với một số xu hướng biến đổi và
thích nghi với đời sống đương đại.
1.1.3.3. Những vấn đề chưa đề cập tới
Hầu hết các tác giả mới chủ yếu tập trung mô tả sinh hoạt tín
ngưỡng Bà Chúa Kho từ khi phục hồi cho đến năm 2007; chưa có tác giả
nào đi sâu làm rõ sự biến đổi tín ngưỡng Bà Chúa Kho như là kết quả của
sự "sáng tạo truyền thống" của cộng đồng địa phương. Trong quá trình
nghiên cứu, các tác giả chưa áp dụng phương pháp điều tra xã hội học. Do
đó, việc thăm dò ý kiến dư luận xã hội về hiện tượng tín ngưỡng Bà Chúa
Kho còn hạn chế. Ngoài ra, các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những

trường hợp nghiên cứu đơn lẻ mà chưa hệ thống hóa các sinh hoạt tín
ngưỡng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
Trên cơ sở các công trình của các tác giả đi trước, chúng tôi tiếp tục tập
trung nghiên cứu về Tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ: Nghiên
cứu trường hợp thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh.


6
Luận án áp dụng quan điểm lý thuyết “sáng tạo truyền thống” của tác giả
Eric Hobsbawm nhằm làm rõ sự sáng tạo và biến đổi của tín ngưỡng Bà
Chúa Kho trong xã hội hiện nay.
1.2. Cơ sở lý thuyết, cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
của luận án
1.2.1. Một số khái niệm công cụ
- Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên;
tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ
cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín
ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn
hóa, đạo đức xã hội.
- Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, còn gọi là tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam, là tín ngưỡng bản địa của các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam.
- Tín ngưỡng Bà Chúa Kho là một hình thức tín ngưỡng dân gian
tôn thờ nhân vật Bà Chúa Kho của người Việt. Mục đích tôn thờ, cúng lễ
Bà Chúa Kho của những người thực hành nghi lễ chủ yếu nhằm "vay tiền,
xin lộc", cầu mong sự che chở, giúp đỡ về kinh doanh buôn bán, công
danh, sức khỏe, nuôi sinh con cái...
- Châu thổ Bắc Bộ là khái niệm về vùng địa lý - văn hoá châu thổ
Bắc Bộ Việt Nam. Khu vực này bao trùm lên các tỉnh: Hà Nam, Hải
Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh,
Nam Định, Ninh Bình, phần đồng bằng các tỉnh: Phú Thọ, Bắc Giang,

Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh.
- Truyền thống: là niềm tin hoặc hành vi được lưu truyền trong một
nhóm hay xã hội có ý nghĩa biểu tượng hoặc có ý nghĩa đặc biệt với nguồn
gốc trong quá khứ.
1.2.2. Các lý thuyết
1.2.2.1. Lý thuyết "sáng tạo truyền thống"
"Sáng tạo truyền thống" là một khái niệm do nhà sử học người Anh
Eric Hobsbawm và cộng sự T. Ranger đề xướng (trong một công trình
nghiên cứu cùng tiêu đề “Sáng tạo truyền thống" (The Invention of
Tradition) năm 1983. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã dịch cụm từ
Invention of Tradition là "tạo dựng truyền thống", "tạo lập truyền thống",
"làm ra truyền thống" khi không muốn sử dụng từ "sáng tạo truyền thống"


7
để tránh hiểu lầm là chỉ nhìn thấy những hàm ý tốt hoặc tích cực trong quá
trình biến đổi truyền thống. Trong luận án này chúng tôi dùng cụm từ "sáng
tạo truyền thống" để thể hiện cùng quan điểm với tác giả Eric Hobsbawm và
Ranger và tránh hiểu lầm một lý thuyết kiến tạo truyền thống (the
constructivist theory of tradition) của Richard Handler và Jocelyn Linnekin.
Eric Hobsbawm và Ranger cho rằng trên thế giới có nhiều truyền
thống được cho là có từ lâu đời, nhưng lại có "truyền thống" hoàn toàn có
nguồn gốc gần đây và mới được sáng tạo do một sự kiện nào đó và trong
khoảng một thời gian ngắn. Ông định nghĩa truyền thống được sáng tạo là
một tập hợp những thực hành, thường nằm dưới sự chi phối của những luật
lệ thành văn hay bất thành văn, có bản chất nặng tính nghi thức hoặc hình
tượng, nhằm khắc sâu các giá trị và tiêu chuẩn hành vi nhất định vào tâm
thức cộng đồng qua hình thức tái diễn, đồng thời ngụ ý‎một dòng chảy tiếp
nối từ quá khứ. Theo ông, khi một biến đổi xã hội diễn ra trong thời gian
quá ngắn làm yếu đi hay tiêu hủy hoàn toàn những mô hình xã hội cũ vốn

tương thích với các truyền thống cũ, các xã hội sẽ cố gắng tạo ra những mô
hình mới mà đối với chúng các truyền thống cũ nói trên không còn phù
hợp nữa. Sự thích nghi với bối cảnh hiện tại được cộng đồng thực hiện
bằng cách sử dụng các mô hình cũ cho những mục đích mới.
Ở Việt Nam, nhiều nhà khoa học xã hội thuộc nhiều lĩnh vực,
chuyên ngành đã áp dụng lý thuyết "sáng tạo truyền thống" của Eric
Hobsbawm vào nghiên cứu của họ. Qua nghiên cứu của mình, các nhà
khoa học trên đã khám phá sự “sáng tạo truyền thống” trong tín ngưỡng
truyền thống của Việt Nam như tín ngưỡng thờ Hùng Vương, tín ngưỡng
thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở làng xã...
Lý thuyết "sáng tạo truyền thống" của Eric Hobsbawm và quan điểm của
các nhà khoa học ở Việt Nam như một cơ sở quan trọng của luận án, ở đó,
xác lập cơ sở lý thuyết để phân tích các "sáng tạo truyền thống" tín ngưỡng
Bà Chúa Kho trong bối cảnh sau Đổi mới.
1.2.2.2. Lý thuyết tiếp biến văn hóa
Tiếp biến văn hóa bắt nguồn từ khái niệm tiếng Anh là "Acculturation",
được sử dụng để giải thích quá trình thay đổi văn hóa và biến đổi tâm lý như
là kết quả cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa. Lý thuyết tiếp biến văn hóa giải
thích sự thay đổi văn hóa của xã hội là kết quả của sự vay mượn từ xã hội


8
khác. Nó có thể xảy ra trong trạng thái xung đột (chiến tranh…) hoặc trạng
thái hòa bình (sự truyền bá tư tưởng, tôn giáo; trao đổi văn hóa nghệ thuật).
Trong luận án này, lý thuyết tiếp biến văn hóa được vận dụng nhằm làm sáng
tỏ quá trình thay đổi tín ngưỡng Bà Chúa Kho và biến đổi tâm lý của những
người đi lễ đến thờ cúng nhân vật thờ này như là kết quả cuộc giao lưu, tiếp
nhận giữa các truyền thống văn hóa địa phương; giữa cộng đồng làng thờ Bà
Chúa Kho với các cộng đồng lớn hơn (như nhóm dân cư người Việt vùng
châu thổ Bắc Bộ).

1.2.3. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu
1.2.3.1. Cách tiếp cận
Luận án sẽ tiếp cận tín ngưỡng Bà Chúa Kho theo hướng "sáng tạo
truyền thống" ở các khía cạnh: sáng tạo truyền thuyết, sáng tạo nhân vật
thờ cúng và thực hành nghi lễ, sáng tạo cơ cấu tổ chức quản lý tín ngưỡng,
tạo dựng không gian tín ngưỡng thờ Bà Chúa Kho.
1.2.3.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận án gồm có: Nghiên
cứu tư liệu đã xuất bản, điều tra xã hội học, quan sát tham dự, phỏng vấn sâu,
mô tả, phân tích, diễn giải, so sánh.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu về tín
ngưỡng Bà Chúa Kho vùng châu thổ Bắc Bộ, trong đó nhấn mạnh đến sự
đóng góp của các nhà nghiên cứu về tín ngưỡng Bà Chúa Kho trong bối
cảnh kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Nhiều nội dung
đánh giá của các tác giả có sự đồng thuận, nhưng cũng có những vấn đề
chưa được đề cập tới. Những vấn đề nghiên cứu còn bỏ trống của các tác
giả đi trước giúp chúng tôi chọn lựa hướng nghiên cứu phù hợp cho luận
án, từ đó có thể đóng góp thêm những thông tin có giá trị về mặt nhận thức
khoa học và thực tiễn.
Để làm rõ vấn đề nghiên cứu trong luận án, luận án có dựa trên cơ
sở một số khái niệm, lý thuyết, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu.
Luận án áp dụng lý thuyết sáng tạo truyền thống và tiếp biến văn hóa để
giải thích và làm rõ sự sáng tạo và biến đổi tín ngưỡng Bà Chúa Kho trong
bối cảnh vùng châu thổ Bắc Bộ, từ sau Đổi mới; tiếp cận phân tích ở


9
những khía cạnh sáng tạo về truyền thuyết, nhân vật thờ cúng, thực hành
nghi lễ, cơ cấu tổ chức quản lý tín ngưỡng, và không gian thờ cúng Bà.

Chƣơng 2
NHẬN DIỆN VIỆC THỜ PHỤNG BÀ CHÚA KHO
Ở VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ
2.1. Nhân vật truyền thuyết Bà Chúa Kho ở tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang
Kết quả điền dã của chúng tôi năm 2012 cho thấy có ít nhất 6 cộng
đồng làng thờ Bà Chúa Kho ở tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, đó là: làng Cổ
Mễ, phường Vũ Ninh; làng Quả Cảm, xã Hoà Long; làng Thượng Đồng,
phường Vạn An; phố Thiên Đức, phường Vệ An, thành phố Bắc Ninh;
làng Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; làng Hạ
Đồng, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Theo truyền thuyết ở các làng, nhận vật thờ Bà Chúa Kho có nguồn
gốc là Bà Chúa Quả Cảm (Bà Chúa Lẫm), Hoàng phi đệ tam cung của Vua
Trần Anh Tông. Lễ hội chính ở các làng đều tổ chức vào ngày 10 tháng
giêng và lễ hội ngày 15 tháng 8 âm lịch. Nghi lễ tổ chức ở các làng Quả
Cảm, Thượng Đồng, Trung Đồng và Hạ Đồng gần giống nhau với lễ rước
kiệu, trò chơi dân gian: đu, vật, chọi gà, kéo co... Riêng đền Bà Chúa Kho
ở làng Cổ Mễ, lễ giỗ chính của Bà ngày 12 tháng Giêng. Ngoài lễ hội
chính, đền tổ chức cúng lễ quy mô trong cả năm. Lễ “vay” và “trả” tiền
vàng, đồ mã với số lượng lớn xuất hiện sau thập niên 80 thế kỷ trước. Có
hàng chục vạn lượt người đi lễ mỗi năm, đặc biệt đông đảo là những người
làm nghề kinh doanh, buôn bán, cán bộ nhà nước...
2.2. Các nhân vật đồng dạng
Ngoài Bà Chúa Kho ở tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, nhân vật thờ có
tên gọi Bà Chúa Kho còn xuất hiện ở nhiều nơi như Hà Nội, Nam Định,
Hưng Yên, Thái Bình... Họ chỉ có danh xưng giống nhau là Bà Chúa Kho
nhưng vai trò và chức năng thờ cúng hoàn toàn khác nhau. Đó là tín
ngưỡng thờ các Bà: Quản Trưởng Quốc Khố Lý Thị Châu Nương ở đình
Giảng Võ, Hà Nội; Bạch Hoa Tiết Liệt Anh Phong Giám Thương Công
Chúa ở các di tích miếu thờ Cột cờ, đền Nguyên Thương, đền Bồng Lai ở
thành phố Nam Định; Lê Bạch Nương Thiên Phủ Chư Tích ở đường Điện

Biên III, thành phố Hưng Yên; Bà Chúa Ngừ Trần Thị Dung ở thôn Lại,
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.


10
2.3. Một số nhận xét
2.3.1. Sự khác biệt về xuất thân của Bà Chúa Kho tại các nơi thờ cúng
- Các nhân vật thờ Bà Chúa Kho ở Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên và
Thái Bình là nhân vật được lịch sử hóa có công trông giữ kho lương, vũ khí
cho đất nước, được nhân dân tôn vinh thần thánh hoá sau khi mất. Bà Chúa
Kho ở làng Cổ Mễ có một truyền thuyết cho rằng nguồn gốc tên gọi này gắn
với núi Kho, tương truyền là nơi cất của cải, vũ khí của vua quan nhà Lý khi
đánh giặc Tống. Do đó, Bà Chúa Kho còn được hiểu là nữ thần trông coi núi
Kho. Nhân vật Bà Chúa Quả Cảm hay Bà Chúa Lẫm ở tỉnh Bắc Ninh, Bắc
Giang có nguồn gốc không liên quan đến việc trông coi kho tàng nhưng vẫn
được nhân dân gọi là Bà Chúa Kho. Tên gọi nôm này mới xuất hiện.
2.3.2. Sự khác nhau về hệ thống điện thần ở các di tích thờ Bà
Chúa Kho
Các đền thờ Bà Chúa Kho vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc do nhiều
nguyên nhân đã có sự xáo trộn gian thờ, đồ cúng bị mất mát, hư hỏng. Một
số ngôi đền xây dựng mới ban thờ hoàn toàn. Những dấu ấn của tín
ngưỡng thờ Mẫu, Tứ Phủ đã xuất hiện. Các đền thờ Bà Chúa Kho ở làng
Cổ Mễ, Vệ An, Quả Cảm, Thượng Đồng đều thờ nữ thần trong tín ngưỡng
Đạo Mẫu. Tại điện thần Bà Chúa Kho ở Cổ Mễ, ngoài ban thờ Bà Chúa
Kho còn thờ Tam toà Thánh Mẫu, Tứ phủ công đồng,... Đền thờ Bà Chúa
Kho ở làng Quả Cảm có thêm sự xâm nhập của Đạo giáo. Đền Bà Chúa
Kho ở Thượng Đồng và ở Hạ Đồng phối thờ tiến sĩ Nguyên Suý Cao Hiển
- Cao Sơn Đại Vương. Tại các đình, đền thờ Bà Chúa Kho ở Hà Nội, Nam
Định, Hưng Yên và Thái Bình, cách bài trí ban thờ không nhấn mạnh đến
đối tượng thờ Mẫu. Sự hội nhập tín ngưỡng Tứ phủ ở các đền này chưa

đến mức sâu sắc. Có hai loại hình tín ngưỡng cùng tịnh dung trong một điện
thần của di tích thờ Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh - Kinh Bắc: Tín ngưỡng thờ
thần và tín ngưỡng thờ Mẫu. Tuy các di tích có cách bài trí điện thần khác
nhau nhưng ở đâu Bà Chúa Kho cũng là nhân vật trung tâm cao nhất, và
các vị thần khác có vị thế thấp hơn.
2.3.3. Sự khác nhau trong thực hành nghi lễ thờ cúng ở các địa phương
Ở 4 làng thờ Bà Chúa Kho (Quả Cảm, Thượng Đồng, Trung Đồng,
Hạ Đồng), việc chọn thời gian tổ chức lễ hội về cơ bản là giống nhau (ngày
10 tháng giêng và 15 - 8). Lễ hội Bà Chúa Kho ở Hà Nội, Nam Định, Hưng


11
Yên, Thái Bình cũng tổ chức vào ngày sinh và ngày hóa của các Bà. Lễ hội
ở các làng này diễn ra theo nghi lễ cổ truyền có rước kiệu, lễ tế, các trò
chơi dân gian, trò diễn. Đây là sinh hoạt lễ hội ở trong phạm vi một số làng
tôn thờ vị thần bảo hộ cộng đồng. Khác với các lễ hội trên, lễ hội đền Bà
Chúa Kho ở Cổ Mễ kéo dài suốt cả năm. Người đi lễ tới vay “tiền” Bà
Chúa Kho đầu năm về làm ăn hay xin “lộc rơi lộc vãi” và cuối năm đi lễ tạ
“trả” tiền vay của Bà. Với mục đích chính của người đi lễ là vay tiền và
xin lộc, nên lễ hội ở đây nghiêng về phần lễ nhiều hơn hội.
Tiểu kết chƣơng 2
Trong chương 2, luận án đã nhận diện các nhân vật truyền thuyết Bà
Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ; mô tả di tích, truyền thuyết và nghi lễ thờ
cúng Bà Chúa Kho ở tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang, cũng như các nhân vật
đồng dạng. Các “Bà Chúa Kho” được thờ cúng có nguồn gốc và vai trò khác
nhau. Quá trình tu bổ tôn tạo di tích và tái lập nghi lễ truyền thống sau thời
kỳ Đổi mới không còn giữ được “nguyên gốc” so với trước kia. Các điện
thần có xu hướng mở rộng, tích hợp những loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu,
Tứ Phủ... Việc tổ chức lễ hội thay đổi về thời gian, không gian và nghi lễ
thực hành. Có lễ hội diễn ra trong vài ba ngày, nhưng cũng có khi kéo dài

nhiều tháng; có trường hợp chỉ diễn ra trong phạm vi một vài làng, nhưng có
nơi lễ hội thu hút khách thập phương của cả vùng, cả nước tham dự.
Ở chương tiếp theo, chúng tôi sẽ bàn luận về “sự sáng tạo truyền
thống" và biến đổi tín ngưỡng thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ để thấy
được cách thức sáng tạo của cộng đồng địa phương và đóng góp của họ đối
với sinh hoạt tín ngưỡng này.
Chƣơng 3
QUÁ TRÌNH "SÁNG TẠO TRUYỀN THỐNG"
TÍN NGƢỠNG BÀ CHÚA KHO Ở LÀNG CỔ MỄ
3.1. Quá trình tạo dựng di tích đền Bà Chúa Kho làng Cổ Mễ
3.1.1. Đặc điểm đền Bà Chúa Kho làng Cổ Mễ trước thời kỳ Đổi mới
Đền Bà Chúa Kho tọa lạc trên núi Kho, tương truyền là nơi đặt kho
quân lương của triều đình nhà Lý trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống
phương Bắc (năm 1077). Ban đầu đền chỉ là một ngôi miếu nhỏ. Đến thời
Lê, miếu được ban sắc và phong thần chủ là "Chủ khố linh từ". Thời Tự Đức,
làng Cổ Mễ trùng tu đền và hoàn thành vào năm 1859. Trong kháng chiến


12
chống Pháp và chống Mỹ, đền bị hủy hoại gần như toàn bộ. Đến năm 1986,
đền bị xuống cấp nghiêm trọng, đồ thờ không còn, không gian nhỏ hẹp.
3.1.2. Tạo dựng đền Bà Chúa Kho trong thời kỳ Đổi mới
Trong bối cảnh Đổi mới, làng Cổ Mễ đã có những động thái tích cực
nhằm phục hồi sinh hoạt nghi lễ và các di tích thờ cúng của cộng đồng. Để có
thể xây dựng lại đền, nhân dân làng Cổ Mễ đã giải quyết 4 thách thức lớn là:
1/ Không có các tài liệu ghi chép đầy đủ về hệ thống điện thờ, tượng thờ, công
trình kiến trúc có liên quan. Hầu hết đồ thờ cúng của đền đã bị hư hỏng hoặc
thất lạc; 2/ Chính quyền chưa công khai ủng hộ việc xây dựng đền; 3/ Nguồn
kinh phí xây dựng đền quá ít ỏi, do đa số dân Cổ Mễ còn nghèo; 4/ Việc xây
dựng, mở rộng đền gặp khó khăn về quỹ đất và giải phóng mặt bằng.

Cộng đồng Cổ Mễ đã nỗ lực kiến tạo lại ngôi đền bằng cách thiết lập cơ
chế tổ chức tín ngưỡng mới dưới hình thức Hội người cao tuổi để quy tụ sự
đoàn kết các thành viên trong cộng đồng; khôn khéo thương thảo với chính
quyền và cơ quan chức năng nhằm đưa đền Bà Chúa Kho vào danh mục xếp
hạng di tích quốc gia; mở rộng thần điện, dung nạp nhiều vị thần theo thời
gian, đặc biệt là sự góp mặt của tín ngưỡng thờ Mẫu, Tứ Phủ; bổ sung các
công trình chức năng mới, trong đó có công trình phục vụ kinh doanh tín
ngưỡng. Việc tạo dựng không gian thờ cúng tại đền Bà Chúa Kho sau Đổi
mới đã tạo nên một sức hấp dẫn tâm linh đối với người dân trong và ngoài
cộng đồng trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Số
lượng du khách thập phương đến lễ Bà Chúa Kho không ngừng tăng là một
dấu hiệu cho thấy sự đồng thuận của người dân đối với việc xây dựng, mở
rộng không gian tín ngưỡng này.
3.2. Sáng tạo trong thực hành tín ngƣỡng Bà Chúa Kho
3.2.1. Đặc điểm sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho trước thời kỳ
Đổi mới
Theo các bậc cao niên trong làng, xưa kia lễ hội đền Bà Chúa Kho
được tổ chức vào ngày giỗ của Bà là 12 tháng Giêng với lễ vật đơn giản có
xôi, bánh trái, hoa quả. Đền Bà Chúa Kho ban đầu chủ yếu phục vụ nhu
cầu của những người trong cộng đồng làng. Trước năm 1970, những người
hành lễ ở đền là người có căn đồng được dân làng Cổ Mễ giao cho quản lý
đền; và tại đền đã có tục cúng tiền vàng mã kèm đồ lễ, nhưng chỉ là vàng
thoi làm bằng giấy nhỏ như bao diêm. Sau thời gian bị chính quyền ngăn


13
cấm, cho là hành vi mê tín, hoạt động sinh hoạt nghi lễ ở đền Bà Chúa Kho
dần mai một. Cho đến trước thời kỳ Đổi mới, làng Cổ Mễ không còn tổ
chức lễ hội mang tính cộng đồng nào có liên quan đến Bà Chúa Kho. Việc
thờ cúng Bà chỉ có một số người dân thực hành một cách "lén lút" không

chính thức.
3.2.2. Tái tạo sinh hoạt nghi lễ thờ Bà Chúa Kho trong thời kỳ Đổi mới
Sau Đổi mới, dưới sự tác động của kinh tế thị trường và chính sách
đổi mới của Nhà nước về lễ hội truyền thống, dân làng Cổ Mễ đã từng
bước tái tạo sinh hoạt lễ hội đền Bà Chúa Kho. Quá trình phục dựng lễ hội
gặp nhiều khó khăn do thời gian bị đứt đoạn kéo dài và chủ thể đi lễ đã có
sự thay đổi đáng kể. Sự thay đổi đối tượng đi lễ dẫn đến sự thay đổi thực
hành nghi lễ và nhu cầu thờ cúng: những người bên ngoài cộng đồng đến
đền Bà Chúa Kho nhằm mục đích cầu xin tiền bạc, công danh, sức khỏe…
Để đáp ứng nhu cầu đi lễ của khách thập phương, cộng đồng làng
Cổ Mễ đã sáng tạo ra hình thức nghi lễ mới: một mặt cộng đồng vẫn duy
trì lễ hội chính tưởng nhớ Bà Chúa Kho, mặt khác sáng tạo ra hình thức
cúng lễ "vay tiền Bà Chúa đầu năm, trả lễ Bà Chúa cuối năm". Họ đã điều
chỉnh thời gian thực hành nghi lễ cho phù hợp với đối tượng đi lễ. Đồng
thời người dân chuyển từ vai trò tham dự nghi lễ chính trước đây trở thành
người tổ chức, hướng dẫn khách thập phương thực hành nghi lễ. Do có tục
vay tiền xin lộc nên thời gian lễ hội đã kéo dài trong suốt cả năm; các diễn
biến của lễ hội chỉ tập trung vào phần lễ tại đền mà không tổ chức lễ rước,
phần hội với các trò chơi dân gian như trước kia. Lễ vật cúng Bà Chúa
Kho trước đây chỉ có đồ chay thì ngày nay có tới ba loại: lễ mặn, lễ ngọt
và lễ mã. Bên cạnh đó, cộng đồng sáng tạo ra các hình thức dịch vụ phục
vụ cho nghi lễ “vay tiền xin lộc Bà Chúa Kho” như cúng thuê, sắp lễ, cung
cấp tiền vàng, đồ mã, làm kho phát lộc…
3.3. Sáng tạo cơ cấu tổ chức quản lý tín ngƣỡng
3.3.1. Đặc điểm tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho trước
thời kỳ Đổi mới
Thời phong kiến, việc tổ chức lễ hội đền Bà Chúa Kho trong năm do
Hội đồng làng đảm nhiệm. Hội đồng làng này được tổ chức và hoạt động
theo hương ước do làng xây dựng, trong đó đề cao tiêu chuẩn "trọng tước"
tức chọn người cao tuổi vào vị trí đứng đầu. Hội đồng làng thường họp vào



14
các dịp chuẩn bị tổ chức lễ trọng để bàn bạc, phân công trách nhiệm cho
các thành viên trong làng tham gia và đóng góp vào nghi lễ. Việc trông coi
đền được Hội đồng làng giao cho các Bà đồng vốn là những người ngoài
địa phương.
Sau năm 1945, việc trông coi đền vẫn được Hội đồng làng giao cho
các Bà đồng tiếp tục đảm nhiệm. Cho đến trước Đổi mới, bộ máy tổ chức
sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ không còn tồn tại. Thời
kỳ này, không có bằng chứng nào cho thấy có sự tồn tại của một cơ cấu tập
thể tổ chức riêng cho sinh hoạt tín ngưỡng ở đền Bà Chúa Kho.
3.3.2. Sáng tạo cơ cấu tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho
trong thời kỳ Đổi mới
Sau Đổi mới, để đáp ứng yêu cầu tái tạo không gian thờ cúng và tổ
chức sinh hoạt nghi lễ, dân làng Cổ Mễ đã sáng tạo ra một cơ cấu tổ chức
quản lý tín ngưỡng mới trên cơ sở kế thừa nguyên tắc truyền thống, đó là
Hội vui tuổi thọ, sau này đổi tên thành Hội người cao tuổi. Hội hoạt động
theo quy chế do tất cả các thành viên đóng góp xây dựng; có năng lực tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, nhân lực, tiền công đức, tài sản và
các nhiệm vụ tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở phạm vi nhà
đền. Để công tác quản lý và tổ chức lễ hội được tốt, Hội đã thiết lập ra
"Ban chấp hành hai giới" và phân chia việc theo giới, thành viên bắt buộc
phải là người gốc thôn Cổ Mễ. Mỗi năm Hội tiến hành đại hội tổng kết
đánh giá ưu và khuyết điểm trong năm, bầu ra Ban chấp hành, Ban kiểm
soát mới theo hình thức luân phiên.
Việc tổ chức lễ hội đền được thực hiện theo những điều khoản của
bản Nội quy Hội người cao tuổi làng Cổ Mễ, trong đó có ghi rõ quy định
về lợi ích của các thành viên được hưởng khi tham gia quản lý, phục vụ tín
ngưỡng. Mọi người dân trong làng đều phải tuân theo những quy định mà

Hội người cao tuổi đặt ra. Tại làng Cổ Mễ, Hội người cao tuổi tham gia
tích cực vào quá trình tạo dựng tín ngưỡng Bà Chúa Kho. Họ là nhân tố
kết nối quá khứ với hiện tại, sáng tạo các yếu tố truyền thống trong quá
khứ trở thành nhân tố tích cực cho sự phát triển tín ngưỡng thờ Bà Chúa
Kho ở làng Cổ Mễ nói riêng, ở vùng châu thổ Bắc Bộ nói chung. Điều này
khác hẳn với quan điểm cho rằng nhu cầu văn hóa của người già thiên về
bảo lưu và hưởng thụ, ít mang tính sáng tạo.


15
3.4. Truyền thuyết Bà Chúa Kho và sáng tạo dân gian
3.4.1. Những câu chuyện truyền thuyết về Bà Chúa Kho trước
thời kỳ Đổi mới
Về truyền thuyết Bà Chúa Kho có nhiều dị bản khác nhau, thậm chí
trái ngược nhau. Có một truyền thuyết về nguồn gốc Bà Chúa Kho lưu
truyền ở 5 làng Quả Cảm, Cổ Mễ, Thượng Đồng, Trung Đồng và Hạ Đồng
cho rằng Bà Chúa Kho chính là nhân vật Bà Chúa Quả Cảm hay Bà Chúa
Lẫm, Bà Chúa được thờ ở núi Kho. Một truyền thuyết khác kể rằng Bà
Chúa Kho tại các làng này xuất thân trong một gia đình nề nếp, lấy vua đời
nhà Trần, và có công lao khai khẩn đất hoang, tạo dựng làng xóm, lập nên
ruộng đồng, cai quản 72 trang ấp. Rồi Bà trở thành vị hoàng hậu, giúp dân
giúp nước, sau đó hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ đất nước. Nhà vua và nhân
dân thương tiếc phong Bà làm phúc thần, cho lập miếu thờ ở quê nhà và
những làng xóm mà Bà đã có công xây dựng. Ở đây, truyền thuyết hoàn
toàn không nói gì đến việc Bà làm nhiệm vụ coi giữ kho tàng.
Một truyền thuyết khác lại cho rằng Bà Chúa Kho ở các làng trên
chính là Bà Chúa Sành. Bà là con một nhà nghèo khó làm nghề gốm ở làng
Quả Cảm. Bà chính là người đã làm được chân cũi bằng gốm giúp ích cho
nghề trồng dâu nuôi tằm. Bà cũng là người giỏi giang thành thạo buôn bán.
Sau khi Bà mất, nhân dân tôn thờ là Bà Chúa Sành.

Trong các truyền thuyết nói trên, chúng tôi không thấy có truyền
thuyết nào đề cập đến nhân vật Bà Chúa Kho gắn với nghi lễ vay tiền, xin
lộc rơi, lộc vãi.
3.4.2. Tạo dựng truyền thuyết về Bà Chúa Kho trong thời kỳ Đổi mới
Phải ít nhất từ sau năm 1986, làng Cổ Mễ mới có sự xuất hiện
những câu chuyện có liên quan đến nhân vật Bà Chúa Kho gắn với lễ vay
tiền, xin lộc. Theo các thành viên Hội người Cao tuổi, những người đi lễ,
và trên các phương tiện truyền thông: có rất nhiều câu chuyền về những
người kinh doanh buôn bán có nhu cầu vay tiền Bà Chúa Kho làm ăn, hay
du khách thập phương đến xin lộc rơi lộc vãi, cầu xin sức khỏe, và các
mục đích cá nhân khác... đều linh ứng. Những câu chuyện thêu dệt xung
quanh Bà Chúa Kho về khả năng giúp con người đương đại như "kinh
doanh", "tìm của trong két công ty bị mất", "chữa bệnh nan y", "tìm mộ liệt
sỹ", "cai nghiện game cho con cái", "báo mộng số đề", "giúp vượt biên đến


16
Mỹ thành công"... tồn tại khá phổ biến trong làng Cổ Mễ, đặc biệt là những
người trong Hội người cao tuổi của làng, cũng góp phần làm tăng tính
thiêng của nhân vật này.
Điều lý thú là những câu chuyện kể có phần hư cấu này dường như
rất ít liên hệ về quá khứ hay hiện tại của cộng đồng làng Cổ Mễ, mà nó
thường đề cập đến những người bên ngoài cộng đồng. Quá trình nhào nặn
huyền thoại và lịch sử đã khiến cho Bà Chúa Kho từ một nhân vật huyền
thoại trở thành một nhân vật lịch sử hóa cụ thể với những yếu tố hợp lý để
tồn tại và phát triển gắn bó với sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội,
biến vị thánh này trở thành một Bà Chúa Kho Tiền linh thiêng. Gần đây,
còn xuất hiện truyền thuyết cho rằng Bà Chúa Kho là hiện thân của Thánh
Mẫu nên có thể hội nhập vào điện thần Mẫu Liễu Hạnh, Tứ phủ. Ngoài ra,
nhiều địa phương đang có xu hướng cố gắng sáng tạo ra những câu chuyện

để nhập Bà Chúa Kho vào các nhân vật lịch sử địa phương hoặc hệ thống
điện thần thờ nữ thần.
Những truyền thuyết mới về Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ được sáng
tạo trên cơ sở kết hợp với các tín ngưỡng, phong tục tập quán ở đây và bổ
sung những mục đích mới, cách diễn giải mới về vai trò của Bà trong bối
cảnh thay đổi. Truyện kể làm xương cốt, bệ đứng, chỗ dựa cho niềm tin,
còn niềm tin cùng những hành động nghi lễ làm sống động, phong phú hơn
nội dung truyện kể. Cùng với thời gian, truyền thuyết về Bà Chúa Kho tiếp
tục được nuôi dưỡng, được sáng tạo và phát triển phù hợp với nhu cầu của
những người thực hành tín ngưỡng đương đại.
3.5. Những kết quả của quá trình tạo dựng tín ngƣỡng Bà Chúa
Kho ở làng Cổ Mễ sau thời kỳ Đổi mới
3.5.1. Thụ hưởng lợi ích
Theo số liệu tổng hợp của Ban quan lý đền Cổ Mễ, trung bình mỗi năm
có 80 vạn lượt người đi lễ đền. Tiền công đức thu được hàng năm lên tới
hàng chục tỉ đồng. Số tiền này được chi vào trùng tu, tôn tạo các di tích của
làng; một phần chi bồi dưỡng cho các cụ trực tiếp tham gia việc quản lý,
phục vụ tại các di tích của làng. Chỉ tính riêng 5 năm trở lại, Ban quản lý
di tích đã sử dụng nguồn thu để đầu tư hơn 30 tỷ đồng trùng tu xây dựng
các công trình. Ngoài ra, số tiền công đức còn được trích một phần nộp
cho ngân sách xã, xây dựng các công trình phúc lợi: đường điện - trường -


17
trạm, làm từ thiện tại địa phương: như khuyến học, giúp đỡ người cơ nhỡ,
người bệnh. Từ những thay đổi của tín ngưỡng Bà Chúa Kho, nghề nghiệp
của các thành viên trong làng cũng có sự thay đổi, thu nhập người dân
cũng được cải thiện nhờ sản xuất và kinh doanh tiền vàng, đồ mã bán cho
những người đi lễ. Hiện nay, đền Bà Chúa Kho đang có kế hoạch đưa vào
đẩy mạnh khai thác phục vụ phát triển du lịch. Việc gắn kết này cũng là

nhằm mục đích nâng cao nguồn thu, quảng bá cho di tích và lễ hội.
3.5.2. Phát sinh các mặt tiêu cực
Kết quả khảo sát cho thấy các hành vi kinh doanh tín ngưỡng đền Bà
Chúa Kho gây ra những bất cập và phần nào làm giảm giá trị tốt đẹp về lễ
hội. Nhiều người dân đến cúng lễ chỉ biết tới vay tiền xin lộc, không biết
đến các mục đích ý nghĩa khác của việc thờ cúng Bà Chúa Kho cũng như
chưa thực sự hiểu rõ về nguồn gốc lịch sử của đền và nhân vật thờ. Đặc
biệt, các hành vi lợi dụng lễ hội để thu lợi, ép buộc người đi lễ, “buôn thần
bán thánh” theo kiểu đặt lễ thuê, khấn thuê, đặt nhiều “hòm công đức”, đổi
tiền lẻ, tuỳ tiện nâng giá dịch vụ; hay hiện tượng lộn xộn, ùn tắc giao
thông, mất an ninh trật tự đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin
đại chúng gần đây gây sự phản cảm trong dự luận xã hội cũng như gây ấn
tượng không tốt cho du khách. Ngoài ra, việc đốt nhiều tiền vàng, đồ mã
trong quá trình thực hành nghi lễ cũng dẫn đến sự lãng phí tiền của.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong bối cảnh Đổi mới cộng đồng Cổ Mễ đã thực hiện quá trình
“sáng tạo truyền thống” tín ngưỡng Bà Chúa Kho theo cách riêng của họ.
Cộng đồng đã tạo dựng không gian di tích với việc mở rộng hệ thống điện
thờ, dung nạp thêm nhiều vị thánh thần “mới”; sáng tạo cơ cấu tổ chức lễ
hội của làng, ban hành các quy định và cơ chế quản lý mới trên cơ sở
nguyên tắc tổ chức dân chủ làng xã; sáng tạo truyền thuyết về nhân vật Bà
Chúa Kho theo hướng thay đổi quyền năng của Bà để phục vụ nhu cầu
kinh tế; sáng tạo và bồi đắp thêm tục vay tiền xin lộc của những người
thực hành tín ngưỡng trên cơ sở những yếu tố truyền thống. Điều này đã
khiến cho sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho biến đổi nhanh và trở nên
thích hợp hơn với bối cảnh mới. Quá trình tạo dựng này không chỉ thuần
túy vì lý do văn hóa, tâm linh mà còn vì cả lý do kinh tế và sự cạnh tranh
giữa các cộng đồng làng xã. Cộng đồng làng Cổ Mễ đã coi lễ hội tín



18
ngưỡng Bà Chúa Kho như một tác nhân kích thích sự phát triển kinh tế của
làng, tạo dựng vị thế của làng ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
Trong quá trình sáng tạo nói trên, Hội người cao tuổi làng Cổ Mễ
nổi lên như một lực lượng có khả năng quy tụ sự đoàn kết của các thành
viên trong cộng đồng, trở thành một biểu tượng lưu giữ văn hóa truyền
thống. Họ đã tạo dựng cơ cấu tổ chức xã hội “mới” trong làng bằng việc
vận dụng nguyên tắc trọng tước vốn là yếu tố cấu thành nên phương thức
tổ chức bộ máy làng xã, thực hành tín ngưỡng Bà Chúa Kho trước đây, để
gia tăng sức mạnh cố kết cộng đồng trong việc quản lý và tổ chức lễ hội
trong xã hội đương đại. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quá trình “sáng tạo truyền
thống” tín ngưỡng Bà Chúa Kho cũng bộc lộ những bất cập cần khắc phục.
Sự sáng tạo một Bà Chúa Kho có chức năng như Bà Chúa Kho tiền đã tạo
điều kiện thúc đẩy quá trình thương mại hóa lễ hội. Việc khép kín quy
trình lễ hội theo mô hình tổ chức hiện nay làm tăng tính “lệ làng”, giảm
tính “phép nước”. Hệ quả là vai trò của Nhà nước trong việc quản lý thực
hành tín ngưỡng ở đền Bà Chúa Kho trở nên mờ nhạt.
Chƣơng 4
TÍN NGƢỠNG BÀ CHÚA KHO,
NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN
4.1. Vị thế nổi trội của tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ
Trái ngược với đa số các làng thờ Bà Chúa Kho khác ở vùng châu
thổ Bắc Bộ, làng Cổ Mễ trong quá trình phục hồi nghi lễ đã sớm thoát khỏi
tư tưởng phát triển lễ hội chỉ để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của riêng
cộng đồng. Toàn bộ dân làng, mà đứng đầu là Hội người cao tuổi, đã cùng
nhau đoàn kết xây dựng 1 bản Nội quy "chặt chẽ" cho phép cộng đồng
thực thi nghĩa vụ và đảm bảo quyền lợi của mình khi tham gia quản lý lễ
hội đền Bà Chúa Kho. Bản Nội quy đã cho thấy sự thích nghi của cộng
đồng đối với cách tổ chức lễ hội mới trong cơ chế kinh tế thị trường, có kế
thừa những nguyên tắc tổ chức truyền thống (trọng lão, dân chủ làng xã,

quân bình về quyền lợi…).
Bên cạnh đó, người dân làng Cổ Mễ còn góp phần sáng tạo ra truyền
thuyết về Bà Chúa Kho như một "Bà chủ ngân hàng" cho dân "vay tiền"
làm ăn, mà nhờ đó Bà dễ dàng "tham gia vào nền kinh tế thị trường". Điều
này đã "đánh trúng" tâm lý của tầng lớp kinh doanh buôn bán. Đây là nét


19
độc đáo và cũng là lợi thế của đền Bà Chúa Kho Cổ Mễ so với các đền Bà
Chúa Kho khác ở châu thổ Bắc Bộ.
Nhờ vận dụng hiệu quả cơ chế kinh tế thị trường, nắm bắt chính
sách đổi mới của Nhà nước về tín ngưỡng, khai thác yếu tố vị trí địa lý
trong việc mở rộng không gian tín ngưỡng, sáng tạo truyền thuyết, cơ cấu
tổ chức quản lý tín ngưỡng và nghi lễ mà đền Bà Chúa Kho đã trở nên linh
thiêng hơn, thu hút đông đảo người dân đến thực hành nghi lễ. Trong khi
đó, các cộng đồng khác dù có những lợi thế nhất định nhưng đã không huy
động được nguồn lực địa phương, khai thác các yếu tố truyền thống nhằm
tạo sự phát triển "đột phá" tín ngưỡng này.
4.2. Vai trò của cá nhân, cộng đồng và Nhà nƣớc
4.2.1. Vai trò của cá nhân
Trong quản lý và tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng
Cổ Mễ, vì quyền lợi của cộng đồng được đề cao nên vai trò của cá nhân
khá mờ nhạt. Khác với mô hình quản lý ở nhiều di tích thờ Mẫu, Tứ phủ
hiện nay, làng Cổ Mễ không thực hiện cơ chế đấu thầu quản lý đền.
4.2.2. Vai trò của cộng đồng
Trong sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho, cộng đồng có vai trò đặc
biệt quan trọng, chiếm vị trí trung tâm trong các hoạt động lễ hội. Với mô
hình tổ chức lễ hội mà người dân đóng vai trò chủ yếu, nguồn lực lễ hội
được sử dụng và phân bổ theo ý nguyện của cộng đồng, lễ hội tín ngưỡng
Bà Chúa Kho là một ví dụ điển hình cho hình thức quản lý này. Để quản lý

di tích, người dân bầu ra 1 tập thể đại diện (Ban chấp hành hai giới) có
phẩm chất uy tín đạo đức đứng ra điều hành, theo hình thức trách nhiệm
luân phiên và mọi thành viên cộng đồng đều có quyền giám sát hoạt động
của Ban chấp hành hai giới này. Toàn bộ nguồn thu công đức được cộng
đồng giám sát, quản lý và sử dụng vì lợi ích cộng đồng một cách dân chủ:
công khai, minh bạch. Cộng đồng làng Cổ Mễ đã "linh hoạt" phục hồi và
tổ chức quản lý lễ hội theo hướng đoàn kết, chia sẻ. Họ đề cao vai trò của
cộng đồng thông qua việc vận dụng trí tuệ tập thể để sáng tạo ra bản Nội
quy tổ chức lễ hội với 2 mục đích là: 1/ Lợi ích kinh tế cộng đồng; 2/ Bảo
tồn giá trị văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng. Hai mục đích này gắn kết
chặt chẽ với nhau: mục đích về quyền lợi kinh tế có thể ẩn đằng sau mục
đích bảo tồn di sản và ở một số thời điểm mục đích kinh tế còn có phẩn nổi


20
trội hơn so với mục đích bảo tồn di sản. Đây là phương thức quản lý mang
đặc trưng riêng của cộng đồng làng Cổ Mễ thể hiện quyền lợi và quyết
định của cộng đồng trong việc họ muốn gì và lựa chọn cái gì là hoặc không
là một phần trong di sản của họ.
4.2.3. Vai trò của Nhà nước
Sau Đổi mới, chính quyền nhiều nơi thờ Bà Chúa Kho đã có sự
thay đổi trong cách tiếp cận vấn đề quản lý và tổ chức lễ hội. Các hoạt
động tổ chức lễ hội không còn bị cấm đoán mà được khuyến khích, coi
đây như một loại hình di sản văn hóa quan trọng góp phần tôn vinh, làm
giàu cho văn hóa dân tộc. Do lịch sử để lại, việc tôn tạo di tích và tổ chức
lễ hội đền Bà Chúa Kho chủ yếu là do cộng đồng làng Cổ Mễ thực hiện,
Nhà nước chỉ quản lý gián tiếp bằng pháp luật. Do vậy, vai trò quản lý
nhà nước của các cơ quan văn hóa đối với lễ hội Bà Chúa Kho ở Cổ Mễ
không nổi bật như các địa phương khác. Trong mùa tổ chức lễ hội, chỉ
khi nào làng Cổ Mễ không giải quyết được vấn đề giao thông, an ninh

trật tự thì mới cần đến sự hỗ trợ từ phía chính quyền. Cộng đồng làng Cổ
Mễ luôn đề cao vai trò của mình trong quản lý lễ hội. Những quy định
mang tính tự quản được cộng đồng đề ra và tuân thủ khiến cho Nhà nước
không thể can thiệp sâu vào tổ chức bộ máy.
Mặt hạn chế của mô hình này chính là nó vô tình đã tạo ra một số kẽ
hở cho một số người có tư tưởng trục lợi, coi lễ hội là một nguồn lợi riêng
của địa phương nên tập trung khai thác giá trị kinh tế, thương mại hóa hoạt
động dịch vụ phục vụ lễ hội, làm cho các giá trị vật chất lấn át giá trị văn
hóa truyền thống và đạo đức. Lễ hội Bà Chúa Kho Cổ Mễ hiện nay đã đặt
ra một vấn đề đối với Nhà nước và cộng đồng là cần phải hiểu đúng về vai
trò và vị trí của các chủ thể văn hóa trong tiến trình bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa. Quan trọng hơn, không phải là ai thay ai, mà là cơ chế phối
hợp, phân công theo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
4.3. Duy trì và phát huy giá trị truyền thống trong quá trình tạo
dựng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho
Ở tín ngưỡng Bà Chúa Kho, việc duy trì và phát huy các yếu tố
truyền thống trong quá trình sáng tạo là cách thức để cộng đồng khẳng
định quyền kế thừa đối với di sản văn hóa này, đồng thời giúp tái hiện
nguồn gốc lịch sử của cộng đồng, qua đó góp phần củng cố tình đoàn kết


21
giữa các thành viên. Nếu không có yếu tố truyền thống, lễ hội Bà Chúa
Kho sẽ trở thành một lễ hội hiện đại; không thể là sáng tạo tự thân của
cộng đồng. Bên cạnh mục đích duy trì và phát huy các yếu tố truyền thống
trong lễ hội Bà Chúa Kho, người dân làng Cổ Mễ còn muốn lễ hội phù hợp
với đường lối, chính sách bảo tồn di sản văn hóa của Đảng và Nhà nước
nhằm nhận được sự hỗ trợ về chính sách, pháp luật. Việc xây dựng và phát
triển hệ thống điện thờ sẽ không thể tích hợp những tín ngưỡng mới cũng
như mở rộng được nếu như ban đầu cộng đồng loại bỏ những yếu tố truyền

thống - nhân vật Bà Chúa địa phương. Chính quyền địa phương chắc chắn
sẽ không ủng hộ cộng đồng xây dựng đền Bà Chúa Kho nếu như đền chỉ
dành để thờ Mẫu, các vị thánh Tứ Phủ.
Quá trình bồi đắp những yếu tố tín ngưỡng mới cũng được cộng
đồng lựa chọn và tính toán trên cơ sở đảm bảo tính hợp lý và tương thích
với tín ngưỡng truyền thống - thờ nhân vật Bà Chúa Kho ở địa phương.
Việc cộng đồng lấy Bà Chúa Kho làm chủ điện thờ, từ đó mở rộng các tín
ngưỡng thờ Mẫu, Tứ Phủ... đã đem lại kết quả là ngày càng có nhiều tín đồ
hành nghề buôn bán kinh doanh đến cúng bái. Bởi khi đến đền Bà Chúa
Kho, họ có thể tiếp cận được đầy đủ các vị thánh Mẫu, Tứ Phủ.
Sự xuất hiện tín đồ hành nghề buôn bán kinh doanh ngày càng đông
đảo là một nhân tố để cộng đồng làng Cổ Mễ sáng tạo nên những tình tiết
mới trong truyền thuyết về một nhân vật Bà Chúa Kho với tư cách như
một “Bà chủ ngân hàng” và nghi lễ “vay tiền, xin lộc” của Bà.
Một yếu tố quan trọng góp phần cho sự thành công của quá trình "sáng
tạo truyền thống" tín ngưỡng Bà Chúa Kho là việc cộng đồng làng khôi phục
và phát huy truyền thống tự quản cố kết cộng đồng thành lập ra Hội người cao
tuổi. Họ đã rất nỗ lực trong việc mở rộng, tôn tạo di tích, ban hành các quy
định và cơ chế quản lý, quan tâm đến việc tạo dựng, phục hồi và phát huy lễ
hội để nó tiếp nối được truyền thống và ngày càng đặc sắc hơn.
Việc "sáng tạo truyền thống" một mặt đã gây dựng được biểu tượng
Bà Chúa Kho đầy quyền uy ban phát tài lộc, gây dựng được niềm tin tín
ngưỡng, gây dựng được tình đoàn kết, cố kết cộng đồng địa phương, mặt
khác vẫn tiếp nối truyền thống, duy trì bảo lưu truyền thống.
Sự “sáng tạo truyền thống” tín ngưỡng Bà Chúa Kho đã cho thấy thế
ứng xử của người nông dân đương đại khi họ "linh hoạt" "vận dụng” cơ


22
chế truyền thống sang cơ chế mới trong việc quản lý và tổ chức lễ hội, bảo

tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa. Việc duy trì và phát huy những
yếu tố truyền thống trong quá trình tạo dựng tín ngưỡng Bà Chúa Kho của
cộng đồng làng Cổ Mễ đã đem lại những lợi ích thiết thực cho cộng đồng và
tạo động lực thúc đẩy tín ngưỡng này phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh
phải cạnh tranh với các lễ hội lớn khác ở tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang nói riêng
và châu thổ Bắc Bộ nói chung. Đây không phải là lựa chọn mang tính ngẫu
nhiên mà là sự tính toán, cân nhắc của cộng đồng, mà trong đó Hội người
cao tuổi đóng vai trò quan trọng.
Tiểu kết chƣơng 4
Trên đây, luận án đã tập trung bàn luận về các vấn đề: vị thế nổi trội
của tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ trong bối cảnh sinh hoạt tín
ngưỡng truyền thống vùng châu thổ Bắc Bộ; vai trò của cá nhân, cộng đồng
và Nhà nước trong phát triển tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ; sự
duy trì và phát huy giá trị truyền thống trong quá trình sáng tạo tín ngưỡng
Bà Chúa Kho.
Thời kỳ đầu Đổi mới, trong khi các làng xã thờ Bà Chúa Kho và các
nhân vật đồng dạng với Bà còn đang lúng túng trong quá trình phục hồi
nghi lễ truyền thống thì làng Cổ Mễ đã đi đúng hướng và thành công.
Cộng đồng đã sáng tạo ra một hình thức lễ hội độc đáo thông qua quá trình
kế thừa và phát triển các yếu tố truyền thống; cơ cấu lại các tổ chức xã hội
trong làng; mở rộng không gian tín ngưỡng; sáng tạo thực hành nghi lễ và
truyền thuyết. Nhờ đó, cộng đồng đã xây dựng được một hình ảnh Bà
Chúa Kho với tư cách như một "Bà chủ ngân hàng" thu hút được đông đảo
tín đồ bên ngoài cộng đồng về thực hành nghi lễ vay tiền của Bà. Trong
quá trình tạo dựng tín ngưỡng Bà Chúa Kho, cộng đồng có một vai trò nổi
bật và mang tính quyết định, cá nhân và Nhà nước có vai trò khá mờ nhạt.
Sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc sáng tạo và thành lập
Hội người cao tuổi, phục hồi, mở rộng cơ sở thờ tự, thay đổi nghi lễ… đã
cho thấy trường hợp Cổ Mễ là một mẫu điển hình của quá trình khôi phục,
sáng tạo và phát huy truyền thống tự quản, cố kết cộng đồng trong việc bảo

vệ di sản văn hóa địa phương.


23
KẾT LUẬN
1. Bối cảnh kinh tế, xã hội trong giai đoạn Đổi mới (sau năm 1986)
đã mang đến cho các làng thờ Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ
những cơ hội và thách thức mới trong việc phục hồi, duy trì và phát triển
các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống; phác họa nên một bức
tranh đa sắc màu về hiện tượng tín ngưỡng Bà Chúa Kho. Trong khi hầu
hết các di tích thờ Bà Chúa Kho đều với tư cách là người có công trong
chống giặc ngoại xâm và bảo vệ kho tàng, lễ hội các Bà đều chỉ là lễ hội
làng thì ở Cổ Mễ tín ngưỡng thờ Bà Chúa Kho có sự biến đổi chức năng:
Bà Chúa Kho từ một nữ thần nông nghiệp, một Bà Chúa Sành trở thành Bà
Chúa Kho tiền, một "Bà chủ ngân hàng" thu hút nhiều khách hành hương
đến lễ. Việc thờ cúng Bà không chỉ bó hẹp trong phạm vi của làng Cổ Mễ
mà mở rộng trong phạm vi của cả nước, việc thực hành tín ngưỡng Bà
mang ý nghĩa “vay tiền, xin lộc”. Kết quả dẫn đến sự thay đổi này chính là
do quá trình "sáng tạo truyền thống" tín ngưỡng Bà Chúa Kho.
2. Sự sáng tạo tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ là trường hợp
biến đổi văn hóa theo hướng truyền thống được biến đổi cho phù hợp với
bối cảnh mới; thể hiện nhiều khía cạnh và những động năng của một xã hội
chuyển đổi. Cộng đồng làng Cổ Mễ đã tạo dựng mô hình quản lý di tích và
lễ hội trên cơ sở mở rộng và nâng cấp mô hình quản lý truyền thống, đề
cao vai trò của cộng đồng - chủ thể sáng tạo ra tín ngưỡng Bà Chúa Kho.
Nó phản ánh nguyên tắc tổ chức mang tính dân chủ làng xã và đề cao vai
trò, quyền lực của người cao tuổi trong xã hội hiện đại. Do đó, lễ hội đã
quy tụ được lòng dân, củng cố và tạo ra sợi dây kết nối các thế hệ trong
cộng đồng làng. Bên cạnh đó, cộng đồng Cổ Mễ còn tạo dựng truyền
thuyết về Bà Chúa Kho như một "Bà chủ ngân hàng", mở rộng không gian

di tích đền thờ bằng cách bổ sung hệ thống điện thờ đạo Mẫu, Tứ Phủ,
cũng như sáng tạo ra một hình thức nghi lễ vô tiền khoáng hậu là "nghi lễ
vay tiền cõi âm để phục vụ công việc làm ăn ở cõi dương". Sự sáng tạo ra
nghi lễ thờ cúng Bà Chúa Kho với những yếu tố mới, phần nào phù hợp
với bối cảnh chuyển đổi nền kinh tế của đất nước từ vận hành theo cơ chế
tập trung bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường, đã làm cho tín


×