Tải bản đầy đủ (.pdf) (260 trang)

Tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ Nghiên cứu trường hợp thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.54 MB, 260 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Trần Thị Thủy

tÝn ng-ìng bµ chóa kho ë ch©u thæ b¾c bé:
nghiªn cøu tr-êng hîp thê bµ chóa kho
ë lµng cæ mÔ, thµnh phè b¾c ninh

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Trần Thị Thủy

tÝn ng-ìng bµ chóa kho ë ch©u thæ b¾c bé:
nghiªn cøu tr-êng hîp thê bµ chóa kho
ë lµng cæ mÔ, thµnh phè b¾c ninh
Chuyên ngành: Văn hoá dân gian
Mã số: 62 22 01 30


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN CHÍ BỀN
TS. PHAN PHƢƠNG ANH

Hà Nội - 2015


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các tư liệu
được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện
đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
Tác giả

Trần Thị Thủy


2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GS

: Giáo sƣ

GS.TS

: Giáo sƣ, Tiến sĩ


HN

: Hà Nội

KHXH

: Khoa học xã hội

KHXH&NV : Khoa học xã hội và nhân văn
Nxb

: Nhà xuất bản

PGS.TS

: Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ

PL

: Phụ lục



: Quyết định

QLDT-DT

: Quản lý di tích danh thắng

ThS


: Thạc sĩ

TS

: Tiến sĩ

TTg

: Thủ tƣớng Chính phủ

UBND

: Ủy ban nhân dân

VHDT

: Văn hóa dân tộc

VHNT

: Văn học nghệ thuật

VHTT

: Văn hóa thông tin

VHTTCS

: Văn hóa thông tin cơ sở


VHTTDL

: Văn hóa Thông tin Du lịch

VHTT-TT

: Văn hóa thông tin thể thao


3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. 2
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................................... 13
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................ 13
1.2. Cơ sở lý thuyết, cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án .............. 24
Chƣơng 2: NHẬN DIỆN VIỆC THỜ PHỤNG BÀ CHÚA KHO Ở VÙNG CHÂU
THỔ BẮC BỘ ............................................................................................................... 37
2.1. Nhân vật truyền thuyết Bà Chúa Kho ở tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang ..................... 37
2.2. Các nhân vật đồng dạng ......................................................................................... 49
2.3. Một số nhận xét ...................................................................................................... 55
Chƣơng 3: QUÁ TRÌNH "SÁNG TẠO TRUYỀN THỐNG" TÍN NGƢỠNG BÀ
CHÚA KHO Ở LÀNG CỔ MỄ..................................................................................... 60
3.1. Quá trình tạo dựng di tích đền Bà Chúa Kho làng Cổ Mễ.................................... 60
3.2. Sáng tạo trong thực hành tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ............................................. 69
3.3. Sáng tạo cơ cấu tổ chức quản lý tín ngƣỡng ......................................................... 85
3.4. Truyền thuyết Bà Chúa Kho và sáng tạo dân gian ................................................ 90

3.5. Những kết quả của quá trình tạo dựng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ
sau thời kỳ Đổi mới ..................................................................................................... 104
Chƣơng 4: TÍN NGƢỠNG BÀ CHÚA KHO, NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ....... 113
4.1. Vị thế nổi trội của tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ ............................... 113
4.2. Vai trò của cá nhân, cộng đồng và Nhà nƣớc...................................................... 120
4.3. Duy trì và phát huy giá trị truyền thống trong quá trình tạo dựng tín ngƣỡng
Bà Chúa Kho ............................................................................................................... 131
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 136
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN .............. 140
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 141
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 151


4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn ‎đề tài
Bà Chúa Kho là một trong những phúc thần của ngƣời Việt, chiếm vị trí quan
trọng trong đời sống tâm linh của cộng đồng dân cƣ châu thổ Bắc Bộ. Nhân dân thờ
cúng Bà Chúa Kho ở nhiều nơi, dƣới hình mẫu vị thần “chủ kho”, một nữ nhân vật
thờ vốn tồn tại từ rất lâu trong lịch sử Việt Nam. Việc thờ cúng Bà Chúa Kho là
nhằm tôn vinh một vị nữ thánh, một biểu tƣợng gợi nhắc về nguồn gốc quá khứ đem
đến niềm tự hào của cộng đồng.
Cho đến nay, chƣa có tác giả nào đƣa ra con số thống kê chính xác về các
điểm thờ cúng Bà Chúa Kho trên đất nƣớc Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng
châu thổ Bắc Bộ nói riêng. Tuy nhiên, có thể nói rằng số lƣợng đền thờ Bà Chúa Kho
ít nhất cũng hơn chục làng tôn thờ Bà. Kết quả khảo sát của chúng tôi gần đây cho
thấy, các đền thờ Bà Chúa Kho xuất hiện ở các tỉnh, thành phố trong vùng châu thổ
Bắc Bộ nhƣ Hà Nội, Hƣng Yên, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang... Tại
các địa phƣơng này, nhân dân thờ phụng và gọi các vị thánh của làng bằng một tên
gọi giống nhau là “Bà Chúa Kho”, mặc dù họ có nguồn gốc xuất thân và vai trò đóng

góp đối với làng xã và đất nƣớc khác nhau.
Trong gần 30 năm trở lại đây, cùng với quá trình đổi mới của đất nƣớc, việc thờ
cúng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, trở thành
một hiện tƣợng tín ngƣỡng dân gian khá đặc biệt của ngƣời Việt. Đặc biệt, sinh hoạt
thờ cúng Bà Chúa Kho ở một số làng đã vƣợt khỏi quy mô địa phƣơng, trở thành một
sự kiện tâm linh quan trọng của vùng, tạo sức thu hút hàng trăm nghìn lƣợt khách hành
hƣơng đến chiêm bái mỗi năm. Sự phát triển tín ngƣỡng Bà Chúa Kho không chỉ tác
động mạnh mẽ đến đời sống tâm linh của ngƣời Việt ở châu thổ Bắc Bộ mà còn ảnh
hƣởng đến cả phƣơng diện hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa của đông đảo ngƣời
dân, trong một số trƣờng hợp nó tạo ra sự thay đổi về cơ cấu lao động nghề nghiệp,
mức sống của cƣ dân trong khu vực có sinh hoạt nghi lễ.
Sau Đổi mới, chúng ta chứng kiến sự bùng nổ hiện tƣợng thờ cúng nhân vật Bà
Chúa Kho. Trƣớc hết, đó là sự xuất hiện đa dạng những “dị bản” về các nhân vật gọi là
Bà Chúa Kho. Có làng thờ Bà Chúa Kho nhƣ một nữ thần nông nghiệp. Có làng thờ


5
Bà Chúa Kho nhƣ một nữ thần chủ kho. Lại có làng thờ Bà nhƣ một nữ thần "chủ ngân
hàng" có khả năng cho ngƣời sống cõi dƣơng gian vay tiền của thế giới cõi âm hay cõi
thần linh.
Trong số các điểm thờ cúng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ, đền Bà Chúa
Kho ở làng Cổ Mễ, phƣờng Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh nổi lên nhƣ một trung tâm
tín ngƣỡng lớn của vùng và có sự vƣợt trội so với các làng có thờ nhân vật "Bà Chúa
Kho" khác. Nhiều bằng cứ cho thấy, có một sự chuyển dịch vai trò của Bà Chúa Kho
trong bối cảnh hiện nay so với quá khứ. Tại đây, ngƣời dân thờ cúng Bà đã có sự thay
đổi quan niệm khi coi Bà từ một vị thần nông nghiệp, rồi nữ thần coi kho lƣơng trở
thành một Bà Chúa Kho tiền có khả năng ban phát các khoản vay cho dân chúng.
Những câu chuyện về quyền năng cho vay tiền của Bà Chúa Kho đã đƣa Bà trở thành
một vị thần quyền uy trong bối cảnh đổi mới kinh tế thị trƣờng [26, tr.1]. Tại đền Bà
Chúa Kho ở Cổ Mễ, ngƣời dân và các khách thập phƣơng tìm về lễ bái tôn thờ Bà nhƣ

một Bà chủ ngân hàng, xuất phát từ một niềm tin phổ biến rằng Bà rất linh thiêng, giữ
ngân xuyến tiền bạc, có quyền năng ban phát những khoản vay vô hạn cho những tín
đồ thành tâm. Bà còn là nơi ngƣời ta đặt hy vọng giúp tránh khỏi những tai ƣơng khúc
mắc trên đƣờng đời, giải quyết vấn đề kinh tế, và nhiều việc khác trong cuộc sống.
Sự thay đổi chức năng của Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ đã góp phần làm cho
ngôi đền này trở nên linh thiêng đối với tầng lớp thị dân, những ngƣời làm ăn kinh
doanh buôn bán. Chính điều này khiến cho ngƣời dân ở nhiều địa phƣơng khác có xu
hƣớng nhận nhân vật Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ là ngƣời gốc của làng mình và tranh
thủ khai thác việc phụng thờ cúng ảo ảnh của Bà. Cũng có nơi, ngƣời dân tiếp thu cách
sáng tạo của dân làng Cổ Mễ để áp dụng vào trƣờng hợp thờ cúng nhân vật đồng dạng
ở địa phƣơng của họ.
Có thể nói, bối cảnh kinh tế, xã hội mới đã mang lại cho tín ngƣỡng Bà Chúa
Kho ở làng Cổ Mễ và một số địa phƣơng những yếu tố tạo dựng mới so với quá khứ.
Tại đền Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, trong khoảng vài thập niên trở lại đây, ngƣời ta
chứng kiến quá trình không ngừng mở rộng khu di tích, hệ thống điện thờ và thậm
chí cả những câu chuyện về nhân vật Bà Chúa Kho do ngƣời dân tạo dựng nhằm thu
hút khách hành hƣơng từ nhiều nơi đến vay tiền xin lộc. Trong quá trình tạo dựng
một “truyền thống” tín ngƣỡng mới, ngƣời dân làng Cổ Mễ đã tạo dựng một mô hình


6
quản lý tín ngƣỡng mới. Mô hình quản lý này có nhiều điểm tƣơng đồng với cách tổ
chức truyền thống, thể hiện mạnh mẽ vai trò tự quản của cộng đồng trong việc duy trì
và phát triển tín ngƣỡng.
Trong bối cảnh ấy, tín ngƣỡng Bà Chúa Kho đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ
của các nhà khoa học bởi nó thể hiện nhiều khía cạnh và động năng của một xã hội
chuyển đổi. Cho đến nay, có hàng chục công trình nghiên cứu về Bà Chúa Kho. Các
nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung khám phá 2 nhóm vấn đề chủ yếu, đó là:
- Các tác giả muốn tìm hiểu, làm rõ nguồn gốc hình thành tín ngƣỡng Bà Chúa
Kho. Trên cơ sở khảo cứu những tƣ liệu thƣ tịch và điền dã, các tác giả đã cung cấp

cho ngƣời đọc thấy đƣợc những dị bản khác nhau về truyền thuyết Bà Chúa Kho trong
bối cảnh không gian văn hóa vùng Kinh Bắc (tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang); sự thay
đổi hệ thống di tích, điện thờ; nguồn gốc và hành trạng của nhân vật Bà Chúa Kho.
- Nhóm tác giả tập trung mô tả hiện trạng, những vấn đề bất cập và khám phá
các nguyên nhân biến đổi của tín ngƣỡng Bà Chúa Kho đặt trong bối cảnh chuyển đổi
kinh tế xã hội Việt Nam sau giai đoạn Đổi mới (từ năm 1986 trở lại). Các nghiên cứu
đã cho thấy sự ảnh hƣởng mạnh mẽ của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa, sự thay đổi chính
sách của Nhà nƣớc đối với hoạt động thực hành nghi lễ Bà Chúa Kho. Thông qua
nghiên cứu trƣờng hợp, các bài viết đã làm rõ xu hƣớng “thƣơng mại hóa” lễ hội
truyền thống Bà Chúa Kho ở bối cảnh đƣơng đại. Các tác giả có quan điểm khá thống
nhất khi cho rằng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho là một hiện tƣợng xã hội phản ánh sinh
động thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội đất nƣớc trong thời kỳ Đổi mới, với chủ
trƣơng và chính sách khuyến khích mọi ngƣời làm giàu, với cơ chế kinh tế thị trƣờng
để vận hành một nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần. Một số bài viết khác có xu
hƣớng phê phán những bất cập nảy sinh từ quá trình phục hồi và phát triển tín ngƣỡng
Bà Chúa Kho nhƣ yếu tố lai căng, biến dạng của di sản hay yếu tố mê tín, thƣơng mại
hóa lễ hội. Những tác giả này thƣờng đứng trên quan điểm muốn bảo tồn "nguyên gốc"
di sản tín ngƣỡng Bà Chúa Kho, phủ nhận sự tạo dựng nghi lễ vay tiền, xin lộc trong
tín ngƣỡng gắn với vị thánh này.
Các nghiên cứu về tín ngƣỡng Bà Chúa Kho giúp làm sáng tỏ những nhận thức
mới về nguồn gốc Bà Chúa Kho, vị trí, vai trò của tín ngƣỡng này trong đời sống


7
đƣơng đại; không chỉ góp phần làm sáng tỏ một số nguyên nhân biến đổi sinh hoạt tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho ở bối cảnh sau Đổi mới, các nghiên cứu còn cung cấp một số
giải pháp giúp các nhà quản lý văn hóa, chính quyền địa phƣơng có cơ sở quản lý lễ
hội tốt hơn.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trƣớc đây chƣa đƣa ra đƣợc một trƣờng hợp nghiên

cứu nào nhằm làm rõ quy luật biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho theo hƣớng truyền
thống biến đổi cho phù hợp với bối cảnh mới; chƣa đặt hiện tƣợng tín ngƣỡng Bà
Chúa Kho làng Cổ Mễ trong bối cảnh châu thổ Bắc Bộ để so sánh với các nơi khác thờ
Bà Chúa Kho nhằm làm rõ hiện tƣợng “tín ngƣỡng có sức thu hút đặc biệt” này.
Thực tế cho thấy, quá trình biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ
Bắc Bộ nói chung và ở làng Cổ Mễ nói riêng là một ví dụ điển hình về sự biến đổi văn
hóa theo hƣớng truyền thống đƣợc sáng tạo cho phù hợp với bối cảnh kinh tế, xã hội,
chính trị sau Đổi mới. Sự “sáng tạo truyền thống” ấy đƣợc thể hiện qua 4 khía cạnh:
sáng tạo truyền thuyết; sáng tạo nghi lễ; sáng tạo điện thờ, không gian tín ngƣỡng; và
sáng tạo cơ cấu tổ chức. Xuyên suốt quá trình tạo dựng hay sáng tạo truyền thống,
cộng đồng nổi lên nhƣ một chủ thể có vai trò quyết định, bên cạnh sự ảnh hƣởng một
phần nào của Nhà nƣớc và các tầng lớp xã hội khác bên ngoài cộng đồng.
Các nghiên cứu trƣớc đây phần lớn tập trung phân tích các nguyên nhân bên
ngoài và điều kiện dẫn đến sự biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho, chƣa làm rõ đƣợc các
nguyên nhân bên trong với vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng địa phƣơng (kèm
theo động cơ của họ về kinh tế, chính trị, xã hội...) trong việc tạo dựng văn hóa truyền
thống để phù hợp với bối cảnh thay đổi.
Một số học giả cho rằng để giải thích sự biến đổi văn hóa bên trong cộng đồng,
cần thiết phải xem xét lại quan niệm về truyền thống và hiện đại. Khi nào một yếu tố
sáng tạo mới đƣợc coi là truyền thống? Việc sáng tạo truyền thống nhằm mục đích gì?
Eric Hobsbawm (1917-2012), nhà sử học ngƣời Anh qua lý thuyết "sáng tạo truyền
thống" của ông đã chỉ ra không có cái gọi là truyền thống một cách thuần khiết. Tạo
dựng truyền thống vì thế là một công cụ đƣợc “cộng đồng hay nhóm xã hội sử dụng một
cách tích cực chủ động hay vô thức để củng cố cho sự tồn tại và phát triển của mình
trong sự cạnh tranh tồn tại” [55, tr.50].


8
Hiện tƣợng sinh hoạt tín ngƣỡng Bà Chúa Kho là một ví dụ điển hình đã gợi mở
cho nhà nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề “sáng tạo truyền thống” của cộng đồng làng xã

Việt Nam trong bối cảnh đất nƣớc tiến hành công cuộc Đổi mới. Từ những vấn đề
nghiên cứu còn bỏ trống, chúng tôi thấy cần thiết phải có một đề tài nghiên cứu biến đổi
tín ngƣỡng Bà Chúa Kho theo quan điểm lý thuyết "sáng tạo truyền thống" của tác giả
Eric Hobsbawm . Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Tín ngưỡng Bà
Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ: Nghiên cứu trường hợp thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ
Mễ, thành phố Bắc Ninh. Thông qua nghiên cứu trƣờng hợp Bà Chúa Kho ở làng Cổ
Mễ, thành phố Bắc Ninh trong bối cảnh với các vị thần "đồng dạng" ở châu thổ Bắc
Bộ và khám phá quá trình "sáng tạo truyền thống" của cộng đồng làng Cổ Mễ; chúng
tôi muốn đóng góp một phần nào kết quả nghiên cứu về làm rõ quy luật biến đổi tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho nói riêng, tín ngƣỡng dân gian Việt Nam nói chung, hy vọng
đây sẽ là một nghiên cứu trƣờng hợp hữu ích để đối thoại với một số nghiên cứu của
các tác giả khác cũng sử dụng cách tiếp cận này.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là khám phá, làm rõ quá trình "sáng tạo
truyền thống” với nội hàm sáng tạo truyền thuyết, hệ thống điện thờ, nghi lễ và cơ cấu
tổ chức quản lý‎ gắn với đối tƣợng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ trong bối
cảnh sinh hoạt tín ngƣỡng thờ Bà Chúa Kho vùng châu thổ Bắc Bộ. Cách thức mà
cộng đồng biến đổi truyền thống để phù hợp với bối cảnh thay đổi kinh tế, xã hội sau
Đổi mới. Quá trình “sáng tạo truyền thống” tín ngƣỡng Bà Chúa Kho là một trong
những cách thức bảo tồn và phát huy di sản của cộng đồng làng Cổ Mễ nhằm duy trì
truyền thống, kết nối truyền thống với hiện đại, tiếp tục dòng chảy phát triển của văn
hóa dân gian trong đời sống đƣơng đại. Thông qua nghiên cứu về quá trình “sáng tạo
truyền thống” trên đây, luận án góp phần kiểm chứng lý‎thuyết "sáng tạo truyền thống"
của một số học giả phƣơng Tây mà tiêu biểu là Eric Hobsbawm (học giả ngƣời Anh) một lý thuyết khá phù hợp để giải thích về sự sáng tạo và biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa
Kho ở Việt Nam kể từ sau giai đoạn Đổi mới.
Để đạt đƣợc mục đích trên, chúng tôi tìm hiểu và làm rõ các nội dung sau:
- Xác định khái niệm “sáng tạo truyền thống” và luận điểm của tác giả Eric
Hobsbawm và các cộng sự.



9
- Tổng quan phân tích làm rõ diện mạo sinh hoạt tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở
châu thổ Bắc Bộ; nhận diện nhân vật thờ Bà Chúa Kho và các nhân vật đồng dạng.
- Phân tích, mô tả quá trình "sáng tạo truyền thống" và thiêng hóa tín ngƣỡng
Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh. Quá trình sáng tạo này đƣợc thực
hiện thông qua các phƣơng diện sáng tạo truyền thuyết, hệ thống điện thờ, nghi lễ và
cơ cấu tổ chức quản lý‎lễ hội tín ngƣỡng của làng Cổ Mễ.
- Bàn luận và giải thích những yếu tố góp phần tạo dựng vị thế nổi trội của tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ trong bối cảnh sinh hoạt tín ngƣỡng truyền thống
vùng châu thổ Bắc Bộ; vai trò của cá nhân, cộng đồng và Nhà nƣớc trong phát triển tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ; ý nghĩa của việc duy trì và phát huy giá trị truyền
thống trong quá trình sáng tạo tín ngƣỡng Bà Chúa Kho trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là: Việc thờ cúng Bà Chúa Kho ở làng Cổ
Mễ, thành phố Bắc Ninh trong bối cảnh chung của tín ngƣỡng này ở châu thổ Bắc Bộ.
Khi tiếp cận nghiên cứu đối tƣợng trên, chúng tôi sẽ nghiên cứu các thành tố tạo nên
tín ngƣỡng Bà Chúa Kho: từ vị trí địa lý, sự phân bố đền thờ, tiếp cận không gian văn
hoá 9 làng tại 6 tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hƣng Yên, Thái Bình, Nam Định
- nơi có sinh hoạt tín ngƣỡng trên; đến việc nghiên cứu truyền thuyết, thần tích, di tích,
lễ hội và phong tục thờ cúng, trong đó nhấn mạnh vào sự sáng tạo và biến đổi tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ và lý giải hiện tƣợng phát triển tín ngƣỡng đặc
biệt ở điểm thờ tự này. Mặt khác, luận án đặt vấn đề nghiên cứu hiện tƣợng tín ngƣỡng
Bà Chúa Kho trong bối cảnh khi các chính sách của Nhà nƣớc về tôn giáo tín ngƣỡng
đƣợc ban hành, dƣới sự tác động của kinh tế thị trƣờng và hội nhập kinh tế của đất
nƣớc xung quanh sự biến đổi tín ngƣỡng này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Là không gian thờ phụng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, có
so sánh với không gian thờ Bà Chúa Kho ở các địa phƣơng nhƣ làng Quả Cảm, xã Hoà
Long và làng Thƣợng Đồng, phƣờng Vạn An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh;

làng Trung Đồng, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; làng Hạ Đồng, xã


10
Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; phố Thiên Đức, phƣờng Vệ An, thành phố Bắc
Ninh; phƣờng Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội; phƣờng Quang Trung, thành phố Hƣng Yên;
phƣờng Ngô Quyền, thành phố Nam Định và xã Liên Hiệp, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái
Bình. Việc so sánh, đối chiếu này sẽ góp phần làm rõ vị thế nổi trội của tín ngƣỡng Bà
Chúa Kho làng Cổ Mễ; thông qua đó tìm hiểu những sáng tạo và biến đổi văn hóa truyền
thống ở châu thổ Bắc Bộ.
Phạm vi thời gian: Luận án tập trung vào nghiên cứu thực trạng sinh hoạt tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho từ năm 1986 - thời kỳ đầu Đổi mới, và đặc biệt từ năm 1989, thời
điểm đền Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ đƣợc Nhà nƣớc công nhận là di tích lịch sử, văn
hóa, từ đó, nhiều ngƣời hành hƣơng đã đến cúng lễ, tạo nên một hiện tƣợng “nóng” trong
đời sống tín ngƣỡng các tỉnh vùng châu thổ Bắc Bộ, và nghiên cứu đến thời điểm hiện nay
- năm 2015, thời điểm mà tín ngƣỡng này đang dần đi vào chiều sâu. Luận án cũng có chú
trọng đến chiều cạnh lịch sử, nhất là trong việc phân tích các truyền thuyết để thấy đƣợc
các biến thiên trong chiều dài lịch sử của tín ngƣỡng này.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ quy luật
biến đổi của một hiện tƣợng văn hóa mang tính phổ biến ở Việt Nam với những đặc
trƣng tồn tại riêng của nó. Từ đó, thông qua một thực trạng cụ thể là tín ngƣỡng Bà
Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, đề tài cung cấp những nhận thức mới về sự sáng tạo và biến
đổi văn hóa truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án xác định những yếu tố văn hóa
cần quan tâm để ứng dụng vào việc giải quyết thực trạng sinh hoạt văn hóa xã hội, góp
phần phục vụ công tác quản lý di sản văn hóa trong xây dựng đời sống văn hoá đƣơng
đại. Từ đó, góp thêm một cách nhìn, một tiếng nói và những gợi ý mang tính tham khảo
cho các nhà quản lý trong việc đề xuất các giải pháp, ứng xử với lễ hội tín ngƣỡng Bà
Chúa Kho ở hiện tại và tƣơng lai.

5. Những kết quả và đóng góp của luận án
5.1. Trên địa bàn nghiên cứu, luận án đã khái quát đƣợc diện mạo và đặc trƣng
tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở các địa phƣơng khác nhau, làm rõ tính đa dạng của nhân
vật đƣợc thờ; phân tích tiến trình mở rộng và thay đổi chức năng của tín ngƣỡng thờ


11
Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ trong bối cảnh châu thổ Bắc Bộ những năm gần đây: từ
việc mở rộng không gian thờ tự, nghi lễ, sự tham gia của chính quyền và các tổ chức
xã hội vào tiến trình này, sự gia tăng lƣợng du khách hành hƣơng cũng nhƣ các vấn đề
về bảo đảm cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi trƣờng... trong địa điểm thờ tự. Các phân tích
này bao gồm những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với các nhà tổ
chức trong một không gian và thời điểm thờ tự đƣợc mở rộng và kéo dài rất khác so
với truyền thống.
5.2. Trên cơ sở phân tích, lý giải các nguyên nhân chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội dẫn đến sự mở rộng và thay đổi chức năng thờ cúng của tín ngƣỡng Bà Chúa Kho
những năm gần đây, luận án mô tả thực trạng biến đổi đời sống tín ngƣỡng Bà Chúa Kho
ở làng Cổ Mễ trong bối cảnh châu thổ Bắc Bộ. Đó là tiến trình khai thác các giá trị truyền
thống phục vụ cho cuộc sống hiện tại; "sáng tạo truyền thống" trong những khuôn khổ và
phạm vi mới. Đây là những kết quả nghiên cứu mới, một hƣớng nghiên cứu mới về tín
ngƣỡng dân gian trong bối cảnh xã hội đƣơng đại, góp phần nhận diện sâu sắc đời sống
tín ngƣỡng của các cộng đồng làng trong xã hội hiện nay.
5.3. Một kết quả nghiên cứu nữa là phân tích, bàn luận và lý giải các kết quả
của tiến trình "sáng tạo truyền thống" đối với sự phát triển của cộng đồng sở tại; các
ảnh hƣởng của nó đến xu hƣớng thực hành tín ngƣỡng hiện nay, góp phần thay đổi đời
sống kinh tế, xã hội và văn hóa của cộng đồng làng. Qua đề tài này, luận án có thể chỉ
ra cách mà cộng đồng đã “sáng tạo truyền thống” tín ngƣỡng để có thể tạo ra giá trị
kinh tế, đặc biệt là tạo công ăn việc làm, thay đổi mức sống, hình thành sản phẩm du
lịch - văn hóa địa phƣơng. Bên cạnh những mặt tích cực, sự thay đổi tín ngƣỡng cũng
đƣợc chỉ ra những tác động tiêu cực về một số mặt văn hóa, xã hội, môi trƣờng và an

ninh trật tự xã hội.
5.4. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ lý thuyết "sáng tạo
truyền thống" của một số học giả phƣơng Tây, trong đó có tác giả Eric Hobsbawm.
Trƣờng hợp nghiên cứu về tín ngƣỡng thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ không chỉ là
một nghiên cứu trƣờng hợp hữu ích để đối thoại với một số nghiên cứu khác sử dụng
lý thuyết "sáng tạo truyền thống" trong các bối cảnh khác nhau mà nó còn có giá trị
ứng dụng và là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý văn hóa, chính quyền địa


12
phƣơng trong việc xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách quản lý sinh hoạt tín
ngƣỡng thờ Bà Chúa Kho nói riêng và sinh hoạt tín ngƣỡng văn hóa nói chung trong
vùng châu thổ Bắc Bộ.
6. Bố cục nội dung luận án
Ngoài phần Mở đầu (9 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (10 trang)
và Phụ lục (106 trang), Nội dung nghiên cứu của luận án đƣợc trình bày trong 4
chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan, cơ sở lý thuyết, cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu (24
trang).
Chƣơng 2. Nhận diện việc thờ phụng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ (23
trang).
Chƣơng 3. Quá trình "Sáng tạo truyền thống" tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ
(44 trang).
Chƣơng 4. Tín ngƣỡng Bà Chúa Kho, những vấn đề bàn luận (23 trang).


13
Chƣơng 1
TỔNG QUAN, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, CÁCH TIẾP CẬN
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến vấn đề biến
đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho. Có thể chia (một cách rất tƣơng đối) những tài liệu
nghiên cứu này thành hai nhóm cơ bản: 1/ Nhóm tài liệu tập trung mô tả hiện trạng và
sự thay đổi hệ thống di tích, truyền thuyết, nghi thức thực hành tín ngƣỡng Bà Chúa
Kho tại một không gian và thời gian xác định; 2/ Nhóm tài liệu nghiên cứu về tác động
của biến đổi kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thời kỳ Đổi mới đối với sinh hoạt tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho.
1.1.1. Nghiên cứu hệ thống di tích, truyền thuyết, nghi thức thực hành tín
ngưỡng Bà Chúa Kho
Tác giả Nguyễn Kim Hiền cho rằng, "sự chuyển đổi truyền thuyết, huyền thoại
là "ngòi nổ" gây ra phong trào đi lễ và là một chất xúc tác mang tính phụ trợ, hay là
phƣơng cách để hợp thức hóa phong trào này" [39, tr.13]. Ngƣợc lại, sự bùng phát sinh
hoạt tín ngƣỡng cũng thu hút sự quan tâm tìm hiểu về nguồn gốc của nhân vật thờ và
những truyền thuyết có liên quan.
Trong bối cảnh sau Đổi mới, tín ngƣỡng Bà Chúa Kho nổi lên nhƣ một hiện tƣợng
tín ngƣỡng có sức thu hút mạnh mẽ với hàng chục vạn khách hành hƣơng đến làm lễ mỗi
năm. Một số học giả đã quan tâm và nghiên cứu nhằm làm rõ truyền thuyết về Bà Chúa
Kho. Các công trình, bài viết tiêu biểu là: Truyền thuyết ở Cổ Mễ [21], Bà Chúa Kho
[117], Lịch sử đền Bà Chúa Kho [49], Đền Bà Chúa Kho [19], Tìm hiểu truyền thuyết Bà
Chúa Kho trong bối cảnh văn hoá dân gian Hà Bắc [23], Bà Chúa Kho thành hoàng làng
Giảng Võ [20], Huyền thoại Bà Chúa Kho [33], Đi tìm lại sự tích Bà Chúa Kho [93], Đền
Bà Chúa Kho [69], Sinh hoạt tín ngưỡng Bà Chúa Kho (xã Cổ Mễ, Bắc Ninh) [46]...
1.1.1.1. Các tài liệu về hệ thống di tích, truyền thuyết, nghi thức thực hành tín
ngưỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, Bắc Ninh
Mở đầu cho việc nghiên cứu mô tả hiện trạng và một số nét biến đổi của hệ
thống di tích, truyền thuyết, sinh hoạt tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ là bài


14

viết Truyền thuyết ở Cổ Mễ [21] của tác giả Nguyễn Xuân Cần. Bài viết này đã đề cập
đến truyền thuyết về Bà Chúa Kho ở Cổ Mễ, ngƣời có công trông nom kho tàng và
tích trữ lƣơng thực cho nhà Lý.
Tiếp đó, một số tác giả khác xem xét, xác định địa danh lịch sử núi Kho, đền Cổ
Mễ, khám phá giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật của cụm di tích chùa, đình và đền Cổ
Mễ. Báo cáo khu di tích đình, chùa và đền Bà Chúa Kho thôn Cổ Mễ, xã Vũ Ninh [8], Về
người được thờ ở đền Cổ Mễ [22], Huyền thoại Bà Chúa Kho [33], Lịch sử đền Bà Chúa
Kho [49] đã mô tả khá chi tiết hệ thống di tích thờ Bà Chúa Kho thời kỳ đầu Đổi mới,
cung cấp thông tin hữu ích về truyền thuyết nhân vật thờ Bà Chúa Kho cũng nhƣ phác
thảo sơ lƣợc về lịch sử hình thành và phát triển của tín ngƣỡng này. Qua những tƣ liệu thƣ
tịch, địa danh lịch sử, truyền thuyết và hiện vật của ngôi đền Cổ Mễ còn lại, phần lớn các
nhà nghiên cứu khẳng định "Ngƣời đƣợc thờ ở ngôi đền Cổ Mễ là Bà Chúa Kho. Cũng
nhƣ kho lƣơng Cầu Gạo, Yên Phong thì kho lƣơng núi Kho cũng xác định là một địa
danh, một di tích lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Tống dƣới thời Lý" [8, tr.6].
Để giải đáp cho câu hỏi về tiểu sử Bà Chúa Kho, tác giả Phan Huy Đông vào
năm 1998 đã công bố cuốn sách Huyền thoại Bà Chúa Kho [33], đƣa ra kết luận: 1/
Không có một tiểu sử chính sử rõ ràng nào ghi chép lại về Bà Chúa Kho; 2/ Sự tích Bà
Chúa Kho chỉ là những huyền thoại dân gian đƣợc truyền miệng trong nhân dân.
Trong quá trình Đi tìm lại sự tích Bà Chúa Kho [93], tác giả Lê Xuân Quang có
giới thiệu tƣ liệu thần phả và sắc phong "mới tìm thấy" tại đền làng Quả Cảm và từ đó
ông đƣa ra một cách giải thích khác về Bà Chúa Kho, nhằm đính chính một vài tƣ liệu
công bố trƣớc đó. Theo giải thích của tác giả, "vị nữ thần ở đền Cổ Mễ, xã Vũ Ninh,
thị xã Bắc Ninh đƣợc nhân dân địa phƣơng gọi là đền Bà Chúa Kho vốn là ngƣời họ
Trần, sinh cuối đời vua Lý‎Huệ Tông (1211-1224). Bà có quê ở làng Qủa Cảm, xã Hòa
Long, cách thôn Cổ Mễ khoảng 3km" [93, tr.65]. "Đền Cổ Mễ trên núi Kho (Lẫm Sơn)
thị xã Bắc Ninh là một trong 72 đền thờ Đệ Tam Hoàng phi của một vua Trần, nhân
vật thờ này không liên quan đến việc trông coi kho tàng. Do đền thờ Bà ở thôn Cổ Mễ
và đƣợc xây trên núi Kho nên nhân dân quen gọi tên là đền Bà Chúa Kho" [93, tr.66].
Một số công trình, bài viết nhƣ Về hiện tượng tín ngưỡng ở đền Bà Chúa Kho
[24], Hiện tượng Bà Chúa Kho và tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Ninh [71], có đƣa ra



15
nhận xét rằng "sự tồn tại của truyền thuyết và tín ngƣỡng Bà Chúa Kho làng Cổ Mễ
đƣơng thời chứa đựng nhiều lớp văn hóa khác nhau; nó có sự pha tạp của cảnh quan
kiến trúc và nhiều giá trị nhƣ giá trị về nhận thức lịch sử, giá trị về thỏa mãn tâm lý tín
ngƣỡng, thậm chí cả giá trị về kinh tế du lịch" [24, tr.44]. Tác giả Trần Đình Luyện
cho rằng, tín ngƣỡng Bà Chúa Kho là hiện tƣợng điển hình của tín ngƣỡng thờ Mẫu ở
Bắc Ninh - Kinh Bắc.
Các công trình nghiên cứu tiếp cận tín ngƣỡng Bà Chúa Kho nhƣ một tín
ngƣỡng thờ Mẫu tƣơng tự có Bà Chúa Kho trong tục thờ cúng các nữ thần của người
Việt [10], Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng thờ Bà Chúa Kho ở đền Cổ Mễ (Bắc Ninh)
[70], Lễ hội đền Bà Chúa Kho [73], Tín ngưỡng Bà Chúa Kho và sự biến đổi của xã
hội Việt Nam [106],… Tác giả của các công trình nghiên cứu này có quan điểm khá
giống nhau khi cho rằng "việc thờ Bà Chúa Kho ở đền Cổ Mễ là hoạt động tâm linh,
tín ngƣỡng thờ thần Mẫu của cƣ dân nông nghiệp Việt cổ, vốn có nguyên thủy từ tín
ngƣỡng thờ đá, thờ đất mẹ (thần Mẫu) từ thời Việt cổ" [73, tr.28]. "Đó là tín ngƣỡng
dân gian có tính phổ biến của cƣ dân nông nghiệp Việt cổ ở đồng bằng Bắc Bộ nói
chung và Bắc Ninh nói riêng” [70, tr. 32]. Các nghiên cứu này cũng đã cho thấy nét
riêng đặc trƣng của Bà Chúa Kho: “Trong diện mạo các nữ thần Việt Nam, Bà Chúa
Kho có những nét chung, đồng thời có những nét riêng, cả hai phƣơng diện folklore:
tín ngƣỡng và ngôn từ” [10, tr.407].
1.1.1.2. Các tài liệu về hệ thống di tích, truyền thuyết, nghi thức thực hành tín
ngưỡng Bà Chúa Kho ở những địa phư ng khác thuộc châu thổ Bắc Bộ
Một số nghiên cứu đề cập đến hệ thống di tích, truyền thuyết Bà Chúa Kho ở
những địa phƣơng khác thuộc châu thổ Bắc Bộ (nhƣ phƣờng Giảng Võ, thành phố Hà
Nội; huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; đền Bản Tỉnh, thành phố Nam Định; phƣờng Vệ
An, thành phố Bắc Ninh; làng Quả Cảm, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh; làng
Thƣợng Đồng, phƣờng Vạn An, thành phố Bắc Ninh; làng Trung Đồng, xã Vân Trung,
huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; làng Hạ Đồng, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh

Bắc Ninh). Đó là các bài viết với tiêu đề: Thờ Bà Chúa Kho - một nhu cầu mãnh liệt
của đời sống tâm linh người Việt [1], Các nữ thần Việt Nam [37], Bà Chúa Kho thành
Hoàng làng Giảng Võ [20], Đi tìm lại sự tích Bà Chúa Kho [93], Góp phần hiểu thêm


16
về sự tích Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc [104], Lý lịch di tích lịch sử - văn
hóa đền Trung Đồng (xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) [78], Lý lịch di
tích đền Bà Chúa Kho, đường Điện Biên III, phường Quang Trung, thành phố Hưng
Yên [79]... Thông qua một số tƣ liệu Hán Nôm (nhƣ thần phả, thần tích, bia mộ, sắc
phong, hoành phi, câu đối... đƣợc sƣu tầm tại các địa phƣơng thờ Bà Chúa), các tác giả
chỉ ra lai lịch hành trạng của các nhân vật đồng dạng: Bà Chúa Kho ở Hà Nội, Nam
Định, Hƣng Yên và Thái Bình là những nhân vật đƣợc lịch sử hóa với những tên tuổi
cụ thể đƣợc ghi chép vào thần tích, thần phả; các Bà đều là những ngƣời trông giữ kho
lƣơng, kho vũ khí cho đất nƣớc, là hình mẫu ngƣời anh hùng bảo vệ tài sản của đất
nƣớc khi có loạn lạc.
Các tác giả cũng phản ánh truyền tích dân gian về Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh
trên phƣơng diện so sánh sự khác biệt ở mỗi địa phƣơng. Kết quả nghiên cứu cho thấy
có sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn nhau trong các truyền thuyết về Bà Chúa Kho
giữa các làng xã trong cùng một tỉnh. Tác giả Ngô Đức Thịnh có đƣa ra giải thích về
sự biến thiên của truyền thuyết Bà Chúa Kho. Ông lý giải “Bà vốn không phải là một
nhân vật lịch sử, mà là một nhân vật huyền thoại đƣợc lịch sử hóa. Do vậy mà mỗi địa
phƣơng, mỗi thời kỳ lịch sử, tùy theo nhu cầu và cảm quan của dân chúng mà Bà đƣợc
lịch sử hóa theo những kiểu khác nhau” [106, tr. 149].
1.1.2. Nghiên cứu về Bà Chúa Kho trong bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội
Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Tháng 8 năm 1993, Cục Văn hoá - Thông tin cơ sở (thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hoá Thông tin và Thể thao tỉnh Hà Bắc tổ chức Hội
thảo khoa học Tín ngưỡng Bà Chúa Kho và khu di tích Cổ Mễ. Hội thảo đã tập hợp
đƣợc trên 20 học giả có kinh nghiệm nghiên cứu về Bà Chúa Kho nhƣ Ngô Đức

Thịnh, Nguyễn Chí Bền, Trần Thị An, Nguyễn Thị Huế, Trần Đình Luyện, Nguyễn
Xuân Cần, Trần Văn Lạng, Nguyễn Quang Khải, Ngô Hữu Thi, Nguyễn Ngọc Thanh,
Lê Thị Hồng Phúc.v.v... Khoảng 20 tham luận của các nhà khoa học trong Hội thảo đã
tạo nên một hƣớng nghiên cứu tổng hợp, tiếp cận toàn diện hơn về hiện tƣợng tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho ở Cổ Mễ. Một số tham luận tập trung đánh giá, thẩm định nguồn
tƣ liệu về di tích đền Bà Chúa Kho. Một số bài nhìn nhận lễ hội Bà Chúa Kho dƣới sự


17
tác động trực tiếp của sự biến đổi xã hội Việt Nam thời mở cửa. Tác giả Ngô Đức
Thịnh và Trần Đình Luyện đã phân tích sự biến đổi lễ hội, tín ngƣỡng Bà Chúa Kho
trong nền kinh tế thị trƣờng. Bằng cách phân tích các lớp giá trị biểu tƣợng của Bà
Chúa Kho nhƣ "Mẹ Lúa/ Bà Chúa Kho Lƣơng/ Bà Chúa Kho Tiền" đặt trong truyền
thống chung thờ nữ thần, thờ Mẫu và đạo Mẫu ở Việt Nam, các tác giả đã chỉ ra "sự
biến đổi đó phản ánh nền tảng cùng những xu hƣớng biến đổi của xã hội Việt Nam từ
xƣa đến nay là: xã hội nông nghiệp, lịch sử chống ngoại xâm và xu hƣớng thƣơng mại
hoá (cơ chế thị trƣờng)” [106, tr. 156].
Tiếp tục với hƣớng nghiên cứu ảnh hƣởng của kinh tế thị trƣờng đối với sinh
hoạt tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở đền Cổ Mễ, một số bài nghiên cứu nhƣ Ngày xuân với
tục vay tiền xin lộc Bà Chúa Kho [97], Về hiện tượng tín ngưỡng thờ Bà Chúa Kho
[24], Lễ hội đền Bà Chúa Kho [73], Hiện tượng Bà Chúa Kho và tín ngưỡng thờ Mẫu
ở Bắc Ninh [71], Tín ngưỡng Bà Chúa Kho [34]… đã đề cập đến sự thay đổi hệ thống
điện thờ, thực hành nghi lễ Bà Chúa Kho ở Cổ Mễ nhƣ là hệ quả của sự phát triển nền
kinh tế thị trƣờng. Năm 2003, tác giả Lê Hồng Lý đã có nghiên cứu khá lý thú về sự bùng
nổ lễ hội đền Bà Chúa Kho. Kết quả nghiên cứu của ông chỉ ra nguyên nhân biến đổi tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho là do: Nhu cầu tín ngƣỡng của nhân dân; Sự cởi mở về chính trị
của Nhà nƣớc ở các cấp từ Trung ƣơng đến địa phƣơng; Sự cởi mở về kinh tế và tác
động của kinh tế thị trƣờng; Tin đồn; Niềm tin tín ngƣỡng [73].
Tác giả Nguyễn Minh San tập trung vào hiện tƣợng Ngày xuân với tục vay tiền
xin lộc Bà Chúa Kho, khám phá thấy rằng có sự thay đổi nhân vật thờ Bà Chúa Kho

sau giai đoạn Đổi mới: từ Bà Chúa Kho - một bà chủ kho liêm khiết, dũng cảm trƣớc
kia, trải qua thời gian, đến nay đã trở thành "chủ ngân hàng thần thánh".
Tác giả Nguyễn Kim Hoa nhận thấy xu hƣớng hồi sinh của địa chỉ tín ngƣỡng
đền Bà Chúa Kho vào giai đoạn Đổi mới, đã làm biến đổi cả một khu vực sinh sống.
“Và khi vị thần của sự hồi sinh này là một nữ thần thì những hoạt động sinh hoạt của
cộng đồng cũng thay đổi theo những chiều hƣớng có lợi cho nữ giới” [46, tr.413].
Một số nghiên cứu nhƣ Người phục vụ lễ ở lễ hội đền Bà Chúa Kho (làng Cổ
Mễ - phường Vũ Ninh - thị xã Bắc Ninh - tỉnh Bắc Ninh) [53] và Những người đi lễ
đền Bà Chúa Kho, làng Cổ Mễ, Vũ Ninh, Bắc Ninh [38]… chỉ ra góc độ lợi ích kinh tế


18
cộng đồng nhƣ là kết quả của sự biến đổi lễ hội ở đền Bà Chúa Kho. Các tác giả cho
rằng "niềm tin về Bà Chúa Kho mà ngƣời Cổ Mễ thể hiện với khách thập phƣơng đã
làm cho kinh tế từng hộ gia đình tới cả làng Cổ Mễ nhanh chóng thoát khỏi khó khăn,
cuộc sống ngày càng đƣợc cải thiện và khấm khá hơn những làng lân cận" [53, tr.76].
"Ngƣời đi lễ tìm đến không gian thiêng liêng của đền Bà Chúa Kho bởi họ đƣợc thỏa
mãn nhu cầu tâm linh, đƣợc an ủi về mặt tinh thần và cũng có thể, bởi họ thực sự nhận
đƣợc lộc rơi lộc vãi của Thánh Bà sau khi đi lễ" [38, tr. 80].
Năm 2008, tác giả Lê Hồng Lý công bố cuốn sách Sự tác động của kinh tế thị
trường vào lễ hội tín ngưỡng [74]. Ông đã mô tả một cách trung thực và sinh động về
địa điểm làng Cổ Mễ, đền thờ Bà Chúa Kho, quy trình lễ cũng nhƣ truyền thuyết về Bà
Chúa Kho; đồng thời tác giả cho chúng ta thấy sự linh hoạt và nhanh nhẹn của dân làng
Cổ Mễ cùng với một tinh thần cố kết cộng đồng cao, vai trò của các cá nhân và cộng
đồng trong việc tổ chức lễ hội. Với những phân tích về những thách thức của nền kinh tế
thị trƣờng còn đang là vấn đề lo lắng của một bộ phận lớn trong xã hội, tác giả đã chỉ ra
việc đi lễ đền Bà Chúa Kho nhƣ một cách "bảo hiểm" cuộc sống cho mọi ngƣời.
Công trình nghiên cứu này đã lý giải nguyên nhân dẫn đến sự thu hút đông đảo
của ngƣời dân đến lễ đền Bà Chúa Kho “Những sinh hoạt tín ngƣỡng ở đền Bà Chúa
Kho, truyền thống và hiện tại, đã chứng tỏ Bà là điểm tâm linh cho hàng triệu ngƣời

đang hoạt động công thƣơng, phấn đấu làm giàu. Mặt khác, sinh hoạt tín ngƣỡng ngày
hôm nay cũng chính là sự phản ánh sinh động thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội đất
nƣớc trong thời kỳ Đổi mới, với chủ trƣơng và chính sách khuyến khích mọi ngƣời
làm giàu, với cơ chế kinh tế thị trƣờng để vận hành một nền kinh tế thị trƣờng nhiều
thành phần…” [74].
Vấn đề nghi lễ, thị trƣờng và nhà nƣớc đƣợc tác giả Nguyễn Kim Hiền tìm hiểu,
nghiên cứu trong bài viết Vàng mã cho người sống, chuyển hóa tâm linh trong một xã
hội mở [40]. Trong bài viết này, tác giả đã mô tả đền Bà Chúa Kho nhƣ một "ngân
hàng địa phủ", nơi mà ngƣời đến vay thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau. Việc
xuất hiện những niềm tin mới trong thời kỳ mở cửa đƣợc tác giả Nguyễn Kim Hiền lý
giải đây là kết quả phản ánh khả năng tự phát trong tƣ duy của các thành phần kinh tế,
xã hội khác nhau, vƣợt qua ngƣỡng cửa truyền thống, không chấp nhận tuân theo


19
chuẩn mực của một hệ tƣ tƣởng sẵn có. Thông qua các nguồn tƣ liệu báo chí đề cập
đến tín ngƣỡng Bà Chúa Kho, tác giả cũng chỉ ra các quan niệm khác nhau trong xã
hội Việt Nam liên quan đến hiện tƣợng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho. Tác giả lập luận
rằng có sự quan hệ nhất định giữa hiện tƣợng bùng phát vay tiền của Bà Chúa Kho với
bối cảnh kinh tế, chính trị Việt Nam thời kỳ mở cửa.
Tác giả Lâm Minh Châu từng bảo vệ luận văn thạc sĩ thành công với đề tài
nghiên cứu Giao dịch với thần thánh: một nghiên cứu về cái tôi và niềm tin qua hiện
tượng Bà Chúa Kho ở Bắc Việt Nam [26]. Theo quan điểm của tác giả “hiện tƣợng
Bà Chúa Kho cần đƣợc tiếp cận thông qua cái tôi hơn là bằng một quan điểm cấu
trúc. Tác giả muốn làm rõ cái tôi của ngƣời dân đi lễ đền Bà Chúa Kho chịu ảnh
hƣởng của niềm tin tôn giáo nhƣ thế nào [26, tr.2]. Dựa trên các cứ liệu dân tộc học,
tác giả phản biện "quan điểm cho rằng có một sự đối lập tuyệt đối giữa truyền thống
và hiện đại, giữa đạo đức và mƣu cầu lợi nhuận", và qua trƣờng hợp Bà Chúa Kho
tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy "niềm tin vào đạo đức tôn giáo không ngăn cản các
tín đồ mƣu cầu lợi ích kinh tế, đồng thời các giá trị truyền thống thậm chí còn thúc

đẩy họ biến đổi các công cụ của thị trƣờng sao cho phù hợp với đặc trƣng văn hóa và
điều kiện xã hội của mình"[26, tr.22].
1.1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu
Qua tình hình nghiên cứu về tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ nói
chung, trƣờng hợp tín ngƣỡng thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ nói riêng có thể rút ra
một số nhận xét sau:
1.1.3.1. Các vấn đề đã được đề cập tới
Hiện tƣợng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu khoa học xã hội. Xu hƣớng nghiên cứu trong các công trình của các tác giả
đi trƣớc là tiếp cận theo nhiều hƣớng khác nhau để có cái nhìn tổng thể về tín ngƣỡng
này. Các tác giả đã tập trung tìm hiểu, nghiên cứu: 1/ Nguồn gốc Bà Chúa Kho thông
qua truyền thuyết, di tích; 2/ Sự tác động của kinh tế thị trƣờng đến lễ hội Bà Chúa
Kho; 3/ Sinh hoạt tín ngƣỡng Bà Chúa Kho...
Trong các nghiên cứu, vấn đề về nguồn gốc của Bà Chúa Kho (huyền thoại hóa,
lịch sử hóa, địa phƣơng hóa), sự thay đổi di tích thờ Bà Chúa Kho, thực hành lễ hội,


20
cốt lõi và bản chất của tín ngƣỡng Bà Chúa Kho đã đƣợc đề cập đến. Đồng thời, nhiều
vấn đề thực tiễn về nghi lễ, thị trƣờng và Nhà nƣớc xung quanh việc vay tiền Bà Chúa
Kho, sự tác động của kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam đến lễ hội tín ngƣỡng trong vài
thập niên gần đây cũng đã đƣợc phân tích, trao đổi.
Những tài liệu nghiên cứu về Bà Chúa Kho của tác giả Ngô Đức Thịnh, Lê
Hồng Lý, Trần Đình Luyện, Nguyễn Kim Hiền, Lâm Minh Châu… đã nhìn nhận Bà
Chúa Kho nhƣ một hiện tƣợng xã hội tổng thể, đã phân tích để thấy tất cả những diễn
trình, động thái biến chuyển trong đời sống tín ngƣỡng. Các công trình này không
những mô tả nghi lễ, giá trị văn hóa… mà còn chỉ ra các cách thực hành khác nhau
của các nhóm xã hội, nhóm ngƣời đi lễ coi Bà Chúa Kho nhƣ một đối tƣợng có thể
giúp họ làm ăn buôn bán. Nhƣ vậy, các công trình này đã chỉ ra đƣợc chức năng
thiêng của Bà Chúa Kho cũng nhƣ những lý do về mặt kinh tế, chính trị, xã hội khiến

tín ngƣỡng này nở rộ. Ví dụ nhƣ sự cấm đoán của chính quyền thời kỳ đầu vô hình
chung làm cho nó linh thiêng, sự vào cuộc của truyền thông làm cho tín ngƣỡng này
phát triển. Các tác giả cũng đã chỉ ra một số thay đổi nhƣ việc thành lập Ban quản lý
di tích, trùng tu di tích, thiết lập ra các dịch vụ… Công trình nghiên cứu của tác giả
Lê Hồng Lý, Nguyễn Kim Hiền, Lâm Minh Châu... đã đặt hiện tƣợng văn hóa này
trong bối cảnh chung của nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam. Các tác giả này đều
vƣợt qua những khuôn mẫu nghiên cứu truyền thống. Trong công trình nghiên cứu
của mình, các tác giả đã áp dụng phƣơng pháp nghiên cứu theo xu hƣớng mới, khai
thác những khía cạnh của hiện tƣợng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho trong bối cảnh chuyển
biến kinh tế, xã hội, chính trị của đất nƣớc.
Các nghiên cứu trƣớc đây đã cho chúng ta thấy đƣợc những biến đổi của tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho vùng châu thổ Bắc Bộ nhƣ những vấn đề có tính cách vùng, khu
vực; ở đó, không chỉ có các vấn đề của làng Cổ Mễ mà ở nhiều làng quê, thể hiện tính
phổ quát của vùng. Sự biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho vùng châu thổ Bắc Bộ một
mặt phản ánh các thay đổi bên trong nội tại vùng, mặt khác thể hiện những động thái
chính trị, kinh tế, xã hội ẩn chứa bên trong tín ngƣỡng này. Hầu hết các ý kiến đều
khẳng định sự biến đổi về tín ngƣỡng Bà Chúa Kho là cả một quá trình phức tạp và dài
lâu ở khu vực cụ thể Bắc Ninh và ở cả vùng châu thổ Bắc Bộ. Tín ngƣỡng Bà Chúa


21
Kho là một hiện tƣợng xã hội tổng thể, phản ánh những quy luật vận động của cả một
xã hội. Nhƣ vậy, hiện tƣợng tín ngƣỡng này thể hiện sự biến đổi xã hội nói chung, gắn
liền với biến đổi về chính trị, biến đổi về kinh tế và biến đổi về văn hóa. Hiện tƣợng
tín ngƣỡng này liên quan đến những vấn đề của xã hội khi văn hóa đối mặt với nền
kinh tế thị trƣờng với những biến đổi khuôn mẫu của nó. Đó là những kết luận mà
nghiên cứu sinh rút ra đƣợc trong quá trình phân tích và tổng hợp khối tài liệu nghiên
cứu của các học giả.
Hiện tƣợng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho cũng đã đƣợc đề cập nhiều trong các bài
viết trên báo giấy và báo điện tử. Báo chí và truyền thông đã sớm phản ánh hiện tƣợng

tín ngƣỡng này từ nửa cuối thập kỷ 80 đến nay, đã tạo ra những đợt sóng lớn tranh
luận sôi nổi (vào những năm: 1993, 1994, 1995, 2003, 2004...), và đây cũng là một
trong những nguyên nhân góp phần làm bùng nổ tín ngƣỡng Bà Chúa Kho. Số lƣợng
bài báo về Bà Chúa Kho rất nhiều, các bài viết phần lớn bàn đến nhóm vấn đề về mê
tín dị đoan, về các vấn đề khác nhƣ phê phán dịch vụ cho thuê mâm lễ, đội lễ thuê, bãi
gửi xe đông, dịch vụ khấn thuê, đốt tiền vàng đồ mã, đổi tiền lẻ, rải tiền lẻ, ăn xin chèo
kéo du khách… Một số bài viết đề cập đến sự tích Bà Chúa Kho, đền thờ Bà Chúa
Kho. Cũng có những bài viết đề cập đến xu hƣớng tăng cƣờng công tác quản lý trật tự
của các cấp chính quyền ở đền Bà Chúa Kho, làng Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh nhằm
nâng cao hiệu quả bảo tồn, tôn tạo giá trị văn hóa tâm linh truyền thống của dân tộc.
Tuy nhiên các bài viết này chƣa chứng minh và phân tích tại sao lại xảy ra những vấn
đề nêu trên. Đây cũng còn là điều bỏ ngỏ và đồng thời là những gợi ý cho chúng tôi
tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu về tín ngƣỡng này.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc đã đề cập đến sự
biến đổi của lễ hội tín ngƣỡng Bà Chúa Kho, cung cấp không chỉ các nguồn tƣ liệu, mà
còn cả những kết luận khoa học quan trọng để các nhà nghiên cứu về sau tiếp tục
nghiên cứu, luận giải chuyên sâu về tín ngƣỡng này.
1.1.3.2. Những vấn đề đã được đồng thuận
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các tác giả có
một sự đồng thuận trong cách giải thích tín ngƣỡng thờ Bà Chúa Kho, đã có sự bùng
nổ và trở thành một hiện tƣợng tín ngƣỡng "nóng", thu hút sự quan tâm của nhiều nhà


22
nghiên cứu khoa học trong nƣớc. Nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ tín ngƣỡng thờ Bà
Chúa Kho là do sự thay đổi nhu cầu tín ngƣỡng của nhân dân, sự tác động của nền
kinh tế thị trƣờng, sự đổi mới trong đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc về di sản tín ngƣỡng, nghi lễ truyền thống, cùng những yếu tố khách quan và chủ
quan khác. Các tác giả cũng đã chỉ ra triển vọng của lễ hội đền Bà Chúa Kho với một
số xu hƣớng biến đổi và thích nghi với đời sống đƣơng đại. Trong đó, xu hƣớng

thƣơng mại hóa và thế tục hóa là những xu hƣớng rõ nét.
1.1.3.3. Những vấn đề chưa đề cập tới
Qua các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu
vẫn còn chƣa đề cập đến những khía cạnh sau:
Thứ nhất, hầu hết các tác giả mới chủ yếu tập trung mô tả sinh hoạt tín ngƣỡng
Bà Chúa Kho ở đền Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh từ khi phục hồi cho đến năm 2007.
Khoảng thời gian sau năm 2007, ít có nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu về tín
ngƣỡng này.
Thứ hai, chƣa có tác giả nào đi sâu làm rõ sự biến đổi của tín ngƣỡng Bà Chúa
Kho nhƣ là kết quả của sự "sáng tạo truyền thống" của cộng đồng địa phƣơng (với sự
sáng tạo về truyền thuyết, nghi lễ, hệ thống điện thần, không gian sinh hoạt tín
ngƣỡng, mô hình tổ chức quản lý lễ hội tín ngƣỡng đền Bà Chúa Kho…) gắn liền với
động cơ kinh tế, xã hội và chính trị. Những sáng tạo này là nguyên nhân chính làm
thay đổi chức năng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho hiện nay.
Thứ ba, trong quá trình nghiên cứu về tín ngƣỡng Bà Chúa Kho, các tác giả
chƣa áp dụng phƣơng pháp điều tra xã hội học, phƣơng pháp định lƣợng để nghiên cứu
mà mới chỉ sử dụng các phƣơng pháp định tính nhƣ quan sát mô tả và phỏng vấn là
chủ yếu. Do đó, việc thăm dò ý kiến dƣ luận xã hội về hiện tƣợng tín ngƣỡng Bà Chúa
Kho còn hạn chế.
Thứ tƣ, các tác giả mới chỉ dừng lại ở những trƣờng hợp nghiên cứu đơn lẻ nhƣ
một số địa danh hay làng phụng thờ Bà Chúa Kho mà chƣa có sự hệ thống hóa các
hoạt động sinh hoạt tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
Có thể nói, số lƣợng các công trình nghiên cứu, bài viết về Bà Chúa Kho khá
nhiều. Nhƣng cho đến nay, chƣa có một công trình nào tập trung nghiên cứu trƣờng


23
hợp biến đổi tín ngƣỡng này theo cách mà cộng đồng biến đổi truyền thống của mình
cho phù hợp với bối cảnh từ Đổi mới đến nay. Trong khi đó, bối cảnh xã hội gần đây
có nhiều biến đổi lớn, sự chuyển đổi cơ cấu xã hội cùng với những thay đổi điều kiện

kinh tế - xã hội trong quá trình toàn cầu hóa, và cụ thể trong năm 2012, 2013, 2014
nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình thế khó khăn, trong đó nổi bật là nợ xấu ngân hàng,
hàng tồn kho tăng cao, thị trƣờng bất động sản đóng băng và chứng khoán suy thoái…
đã dẫn đến sự thay đổi mỗi ngày trong đời sống tín ngƣỡng nói chung, lễ hội tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho nói riêng. Chúng tôi cho rằng, những nghiên cứu trên chƣa phản
ảnh đƣợc tính thời sự và những biến đổi của tín ngƣỡng Bà Chúa Kho tính đến giai
đoạn hiện nay; vấn đề còn bỏ ngỏ là "sáng tạo truyền thống" tín ngƣỡng Bà Chúa Kho,
và đây chính là một khoảng trống. Những vấn đề chƣa đƣợc các nhà nghiên cứu quan
tâm tìm hiểu trên đây cần phải đƣợc tiếp tục bổ sung làm rõ.
Chính vì vậy, trên cơ sở các công trình của các tác giả đi trƣớc, chúng tôi tiếp tục
tập trung nghiên cứu về Tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ: Nghiên cứu
trường hợp thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh. Sợi chỉ xuyên suốt
của luận án là nghiên cứu sự "sáng tạo truyền thống" tín ngƣỡng Bà Chúa Kho của
cộng đồng làng theo cách biến đổi truyền thống cho phù hợp với bối cảnh thời kỳ Đổi
mới. Do đó, để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi áp dụng quan điểm lý thuyết “sáng tạo
truyền thống” của tác giả Eric Hobsbawm nhằm làm rõ sự sáng tạo và biến đổi của tín
ngƣỡng Bà Chúa Kho trong xã hội hiện nay. Với việc áp dụng lý thuyết sáng tạo
truyền thống trong luận án, chúng tôi sẽ làm rõ sự sáng tạo ở 4 khía cạnh: (1) Sáng tạo
điện thờ, không gian tín ngƣỡng; (2) Sáng tạo cơ cấu tổ chức quản lý tín ngƣỡng; (3)
Sáng tạo truyền thuyết Bà Chúa Kho: từ một nữ thần nông nghiệp, nữ thần thủ công:
Bà Chúa Sành thành Bà Chúa Kho tiền, Bà chủ ngân hàng; và (4) Sáng tạo nghi lễ.
Chúng tôi sẽ tìm hiểu đối tƣợng nghiên cứu (Ban quản lý di tích, những ngƣời
phục vụ lễ, những ngƣời thực hành tín ngƣỡng, di tích, nhân vật thờ phụng...), xem xét
các khía cạnh động cơ của họ khi phải đối mặt với bối cảnh xã hội đang chuyển mình
từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị
trƣờng... Nhu cầu và sự lựa chọn những yếu tố vào quá trình biến đổi truyền thống của
cộng đồng làng Cổ Mễ không chỉ trong thực hành tín ngƣỡng, phục vụ lễ, kinh doanh



×