Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Phương hướng và một số giải pháp nâng cao khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.83 KB, 92 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của tất cả các nước trên thế giới nói chung và sự phát triển kinh tế
của Việt Nam nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng nguồn vốn này hầu
hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều mở cửa thu hút nguồn vốn FDI. Tuy
nhiên, nó còn phụ thuộc vào chính sách phát triển của mỗi nước và còn phụ
thuộc vào khả năng phát triển của từng nước.
Đối với Việt Nam chúng ta cũng vậy, để hoàn thành sự nghiệp CNH-
HĐH, Đảng và nhà nước ta chủ trương mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng
định vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của đất nước. Thu hút đầu tư nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần
khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên
sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, phát triển
đất nước.
Trong thời gian thực tập vừa qua, được sự giúp đở của các thầy cô giáo,
của các cô, các chú trong vụ quản lý dự án. Em đã quyết định chọn đề tài
“Phương hướng và một số giải pháp nâng cao khả năng thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới” làm
nội dung chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao khả năng thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới.
Trong suốt thời gian thực hiện chuyên đề này, mặc dù gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận đề tài cũng như phương pháp nghiên cứu, nhưng được
sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo và các cán bộ Vụ Đầu tư nước ngoài -
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp đúng
tiến độ đã đề ra.
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - người đã tạo điều kiện thuận lợi
nhất để em hoàn thành chuyên đề này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh
đạo và các cán bộ Vụ Đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vụ phó - những người đã
nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp các tài liệu cần thiết cho chuyên đề nghiên cứu
trong suốt thời gian thực tập vừa qua.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ FDI
1. Khái niệm
Đầu tư nước ngoài là một hoạt đông kinh tế đối ngoại quan trọng đối với
quá trình phát triển kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Hoạt động đầu tư
nước ngoài trong từng giai đoạn lịch sử mang những đặc điểm riêng phụ thuộc
vào trình độ phát triển sản xuất thực tiễn ở mỗi quốc gia. Do vậy, quan niệm về
đầu tư nước ngoài cũng được nhìn nhận khác nhau trong luật pháp của mỗi
nước.
Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam năm 2000 quy định: đầu
tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam bằng tiền hoặc
bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật
này.
Tuy vậy, để có thể dễ dàng tham gia vào hoạt động đầu tư nước ngoài,
người ta thường sử dụng khái niệm chung nhất sau: đầu tư nước ngoài là việc
các nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân đưa vốn vay hay bất kỳ hình thức giá trị
nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm thu lợi nhuận hay đạt dược các hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau.
Nhìn chung, vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước bằng hai con đường: đường
công cộng và đường tư nhân hoặc thương mại. Hình thức chủ yếu trong đường
công cộng là viện trợ, bao gồm viện trợ hoàn lại và cho vay với lãi suất thấp từ
các tổ chức quốc tế hoặc Chính phủ các nước phát triển. Viện trợ không hoàn

lại không trở thành nợ nước ngoài, nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới hạn
trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục và cứu trợ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế là đầu tư trực tiếp, đầu tư
qua thị trường chứng khoán (Porfolio), cho vay của các định chế kinh tế, các
ngân hàng nước ngoài và nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Cho vay thương mại có lãi suất cao nên dễ trở thành gánh nặng về nợ
nước ngoài trong tương lai. Đầu tư chứng khoán không trở thành nợ nhưng sự
thay đổi đột ngột trong hành động bán chứng khoán, rút tiền về nước của nhà
đầu tư nước ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường vốn, gây biến động tỷ
giá và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô.
Trong khi đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc
tế mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư
vào các dự án nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát các doanh
nghiệp sản xuất hay kinh doanh dịch vụ thương mại. Do vậy, FDI cũng là hình
thức đầu tư quốc tế không trở thành nợ, đây là vốn có tính chất bén rễ ở nước
bản xứ nên không dễ tút đi trong thời gian ngắn.
Vốn góp ở đây có thể bằng tiền (ngoại tệ mạnh, tiền nội địa, các vật khác
coi như tiền), cũng có thể bằng các tài sản hữu hình khác (sức lao động, máy
móc thiết bị, dây chuyên công nghệ...) hay bằng tài sản vô hình (bí quyết công
nghệ, uy tín hàng hoá, quyền sử dụng đất...).
2. Các đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI hiểu theo nghĩa rộng có thể được hiểu là việc thiết lập, giành quyền
sở hữu hay là sự gia tăng khối lượng của một khoản đầu tư hiện có trong một
công ty, doanh nghiệp ở nước ngoài. Do đó, FDI mang những đặc trưng cơ bản
sau :
- Các chủ đầu tư thực hiện đầu tư trên nước sở tại nên phải tuân thủ theo
các quy định của pháp luật của nước đó đề ta đối với doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
- FDI là một hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân, do các chủ đầu tư tự

quyết định đầu tư, sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lãi, lỗ nên
hình thức này thường mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tỷ lệ góp vốn sẽ quyết định việc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các chủ đầu tư. Tuỳ theo luật của từng nước mà quyền và nghĩa vụ giữa hai
bên trong nước và ngoài nước được quy định khác nhau.
- Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh
chứ không phải là một khoản thu nhập ổn định và lợi nhuận thường được phân
chia theo tỷ lệ vốn góp trong tổng số vốn pháp định sau khi đã nộp thuế cho
nước sở tại và trả lợi tức cổ phần.
- Hoạt động FDI phần lớn vì mục đích tìm kiếm lợi nên chủ yếu tập
trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh... đem lại lợi nhuận cao cho nhà
đầu tư.
- Về hình thức, nhà đầu tư có thể lựa chọn một trong các cách thức sau :
bỏ vốn thành lập một doanh nghiệp mới ở nước ngoài, mua lại toàn bộ hay một
phần các xí nghiệp sẵn có ở nước tiếp nhận đầu tư, mua cổ phiếu để thôn tính,
sát nhập.
- Hiện tượng đa cực và đa biên trong FDI là hiện tượng đặc thù, không
chỉ gồm nhiều bên với tỷ lệ góp vốn khác nhau mà còn là các hình thức khác
nhau của tư bản, như tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước cùng tham gia.
- Tồn tại hiện tượng hai chiều trong FDI, đó là hiện tượng một nước vừa
nhận sự đầu tư của nước khác lại vừa thực hiện đầu tư ra nước ngoài nhằm tận
dụng lợi thế so sánh giữa các nước với nhau.
- Do quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài gắn liền với lợi ích do đầu tư
đem lại nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình
độ quản lý, tay nghề cho công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia
và sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tễ.
3. Các hình thức đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Hiện nay, hoạt động FDI diễn ta ở Việt Nam chủ yếu dưới hình thức sau:

* Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
HĐHTKD là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư
kinh doanh tại Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả
kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư
nước ngoài đầu tư vốn thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài được thành lập dưới hình thức công ty TNHH, thời gian hoạt động
không quá 50 năm.
Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, thành lập và hoạt động theo hình
thức công ty TNHH, tuân thủ theo pháp luật của nước sở tại.
Toàn bộ vốn đầu tư duy trì sản xuất kinh doanh, kể cả phần đầu tư xây
dựng cơ sở vật chát ban đầu do nhà đầu tư nước ngoài bỏ ra.
Vốn pháp định của doanh nghiệp không thấp hơn 30% vốn đầu tư.
Trong thời gian hoạt động hoạt động không được giảm vốn pháp đinh. Việc
tăng vốn pháp định phải được cơ quan cấp giấy phép chuẩn y.
Chủ đầu tư nước ngoài nắm 100% quyền quản lý, điều hành sản xuất,
kinh doanh và tự chịu tách nhiệm với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
* Hình thức doanh nghiệp liên doanh (DNLD)
DNLD là doanh nghiệp do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt
Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa Chính phủ
Việt Nam và chính phủ nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do DNLD hợp tác với nhà đầu
tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Trong hình thức này mỗi bên sẽ
chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết vào vốn pháp định của liên
doanh.
Ngoài ba hình thức cơ bản trên còn có các hình thức khác như: Xây
dựng - chuyển giao - kinh doanh (BOT); Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao

(BTO); Xây dựng - chuyển giao (BT).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG THU HÚT
FDI
Thông qua một số khái niệm và đặc điểm của FDI đã được đề cập ở trên,
ta có thể thấy dòng FDI vào các nước sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố.
Chung qui lại ta có thể chia ra làm hai nhóm yếu tố đó là: nhóm nhân tố khách
quan và nhóm nhân tố chủ quan.
1. Các yếu tố khách quan.
1.1. Xu hướng của dòng FDI trên thế giới.
Nếu xu hướng này có chiều hướng tích cực, ngày càng gia tăng thì
thường nước tiếp nhận đầu tư có thêm khả năng và cơ hội để thu hút nhiều vốn
đầu tư hơn. Ngược lại, thì nó sẽ gây bất lợi, hạn chế đối với hoạt động thu hút
FDI của nước này.
1.2. Động cơ, chính sách của các nhà đầu tư.
Những nhân tố này tác động trực tiếp tới khả năng ký kết, thực hiện và
khả năng triển khai các dự án FDI, qua đó ảnh hưởng tới thu hút FDI của nước
tiếp nhận đầu tư.
Động cơ chung nhất của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm lợi
nhuận cao và sự thịnh vượng lâu dài của doanh nghiệp. Tuy nhiên, động cơ cụ
thể của chủ đầu tư trong từng dự án lại rất khác nhau tuỳ thuộc vào chiến lược
phát triển của các doanh nghiệp và mục tiêu của nó ở thị trường nước ngoài,
tuỳ thuộc mối quan hệ sẵn có của nó với nước chủ nhà. Chung quy lại, có ba
động cơ cụ thể tạo nên ba định hướng khác nhau trong FDI là:
- Đầu tư định hướng thị trường (market seeking investment): Hình thức
đầu tư nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang nước
sở tại. Hình thức này giúp cho các chủ đầu tư giải quyết được vấn đề bành
trướng thị trường, khó khăn trong thâm nhập thị trường nước ngoài do hệ
thống bảo hộ của nước đó, kéo dài vòng đời sản phẩm.
- Đầu tư định hướng chi phí (Efficiency seeking investment): Là hình

thức đầu tư ở nước ngoài nhằm giảm chi phí sản xuất thông qua việc tận dụng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lao động và tài nguyên rẻ của nước sở tại, nhằm tăng sức cạnh tranh của nước
sở tại, nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Hình thức này còn giúp cho chủ đầu tư giải
quyết một số vấn đề kinh tế - xã hội khác như: tránh được những quy định chặt
chẽ của các nước phát triển về môi trường sự dư thừa vốn trong nền kinh tế thị
trường, sự tăng giá của đồng tiền...
- Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu (resource seeking investment):
là hình thức đầu tư theo chiều dọc, trong đó các cơ sở đầu tư ở nước ngoài là
một bộ phận cấu thành, trong dây truyền kinh doanh của công ty mẹ, có trách
nhiệm khai thác nguyên liệu tại chổ của nước sở tại, cung cấp cho công ty mẹ
để tiếp tục hoàn thiện sản phẩm. Hình thức này giúp chủ đầu tư tháo gỡ được
khó khăn khi thiếu nguồn nguyên liệu phù hợp với các dự án: khai thác và sơ
chế các sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, khai thác dầu khí và các tài nguyên
thiên nhiên khác.
Ngoài ra, hiện nay còn tồn tại một loại hình đầu tư nữa rất phổ biến là
đầu tư định hướng liên minh: Là hình thức đầu tư có mục đích tạo thế độc
quyền, thương là do các nhà đầu tư tiến hành sát nhập với nhau. Hình thức này
đem lại mối lợi lớn cho nhà đầu tư nhưng không có lợi cho thị trường.
2. Môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư (Các yếu tố khách
quan).
Môi trường đầu tư nước ngoài là tổng hoà các yếu tố chính trị, kinh tế,
xã hội có liên quan, tác động đến các hoạt động đầu tư và đảm bảo khả năng
sinh lợi của vốn đầu tư. Đây cũng là tổng hoà các nhân tố chủ quan đối với một
nước khi tiếp nhận dòng vốn FDI.
2.1. Môi trường chính trị.
Môi trường chính trị phải ổn định là tiền đề quan trọng quyết định đến
đầu tư hay không của các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư ổn định sẽ góp phần
cũng cố lòng tin của các nhà đầu tư, làm cho họ yên tâm hơn khi quyết định bỏ
vốn. Nhà đầu tư nước ngoài có mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận nên họ không

dại gì mà đầu tư vào một nước đang trong thời kỳ chiến tranh hay bạo loạn,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khủng bố vì như vậy ngay cả tính mạng của họ còn không được bảo toàn, chưa
nói gì tới đồng vốn của họ có giữ được hay không và cũng khó có khả năng
sinh lời do thi trường lúc đó không ổn định.
2.2. Các chính sách kinh tế.
Để tạo sự hấp dẫn hơn nữa cho thị trường đẩu tư của nước mình, tạo lợi
thế cạnh tranh so với nước khác. Tất cả các nước trên thế giới đều có những
chính sách khuyến khích, ưu đãi cho những nhà đầu tư nước ngoài thông qua
các công cụ, biện pháp như: các ưu đãi về miễn giảm thuế, tín dụng, quyền bảo
hộ trí tuệ..., đồng thời Chính phủ cũng có thể nâng tính ràng buộc đối với các
nhà đầu tư nước ngoài thông qua các quy định chặt chẽ như: các quy định về
lĩnh vực, ngành nghề cấm, hạn chế đầu tư... và đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định đó để tránh những điều bất lợi mà đầu tư nước ngoài có thể
gây ra.
2.3. Hệ thống luật pháp.
Hệ thống luật pháp của một nước cần phải thông thoáng để có thể thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng cũng cần phải có những ràng buộc để
tránh những tác động xấu. Nhưng điều cần thiết là hệ thống các văn bản pháp
luật phải rõ ràng, thống nhất, tạo nên cơ sở vững chắc cho các nhà đầu tư tham
khảo để đi đến quyết định của mình.
2.4. Các thủ tục hành chính
Hiện nay, so với một số nước thủ tục hành chính cho việc xin cấp phép,
gia hạn, thêm vốn... đầu tư nước ngoài ở nước ta vẫn bị đánh giá là quá phiền
hà. Tất cả những điều này sẽ gây cho nhà đầu tư nước ngoài cảm giác chán
nản, không muốn đầu tư vì lãng phí quá nhiều thời gian. Đối với nhà đầu tư
nước ngoài thì một cơ chế, các thủ tục hành chính nhanh gọn, chính xác và kịp
thời sẽ là sự cổ vũ rất lớn cho họ khi quyết định đầu tư và triển khai dự án ở
một số nước.
III. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ -

XÃ HỘI CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Tác động tích cực của FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhìn nhận khác nhau từ phía các nước
đang phát triển. Trong những thập kỷ 60 và 70 do mới thoát khỏi chế độ thuộc
địa, phần lớn các nước đang phát triển đã theo hướng xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ, thực hiên chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh đó vẫn được coi là một hình thức xuất khẩu
tư bản, một phương tiện xâm lược kinh tế từ bên ngoài và do đó cần có thái độ
thận trọng. Xét từ phía các nhà đầu tư nước ngoài đó là thời kỳ đi tìm các
nguồn tài nguyên nguyên liệu mới và hướng chính trong đầu tư vào các nước
đang phát triển là khai thác tài nguyên. Từ thập kỷ 80 trở lại nay đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển đã có những chuyển biến về chất,
xét cả về động cơ của nhà đầu tư cũng như mong muốn của chủ nhà. Nền kinh
tế thế giới phát triển theo hướng toàn cầu hoá, các nước đều nhận thức được
tính tất yếu của sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế. Đầu tư nước ngoài trở
thành một yêu tố quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả
các quốc gia trong đó có cả nước đang phát triển. Những tác động cơ bản của
FDI xét từ cách nhìn nhận như vậy thể hiện trên những khía cạnh sau đây.
1.1. FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu
hụt vốn đầu tư, góp phần tạo ra sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tỷ lệ vốn tích luỹ từ trong nước, đặc biệt là ở những nước đang phát
triển còn ở mức thấp là một trở ngại lớn cho quá trình phát triển kinh tế - xã
hội. Thu hút FDI là một hình thức huy động vốn để hổ trợ cho nhu cầu đầu tư
của nền kinh tế.
FDI vào các nước đang phát triển sẽ tạo động lực tích cực đối với việc
huy động các nguồn vốn khác như ODA, vốn đầu tư trong nước... Từ đó nó tạo
ra hình ảnh đẹp, đáng tin cậy về nước này trong các tổ chức và cá nhân nước
ngoài. Hơn nữa ngay trong quan hệ đối nội, FDI còn có tác dụng kính thích đối
với việc thu hút vốn đầu tư trong nước.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong 15 năm qua, nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã thực sự trở thành
một trong những nhân tố quan trọng nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã
hội. Nhờ có nguồn vốn FDI nguồn vốn ngân sách có thể được dành nhiều hơn
cho phát triển cơ sở hạ tầng, khuyến khích đầu tư trong nước vào các vùng
kinh tế khó khăn, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế đồng đều giữa các vùng.
Như vây, thông qua hình thức FDI nguồn vốn cần thiết phần nào đã đáp ứng
kịp thời góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam trong
suốt thời kỳ mở cửa cho đến nay.
1.2. FDI mang lại kỹ thuật công nghệ cho nước tiếp nhận đầu tư
Bên cạnh vai trò cung cấp nguồn vốn, FDI còn mang lại cho các nước
tiếp nhận những quy trình sản xuất. Chuyển giao kỹ thuật, bản quyền phát
minh, kinh nghiệm quản lý cho nước chủ nhà, góp phần nâng cao và phát triển
lực lượng sản xuất cơ cấu lại nền kinh tế. Thông qua việc thực hiện FDI quá
trình chuyển giao công nghệ được thực hiện nhanh chóng và thuận lợi cho cả
hai bên (trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại
thương).
Nhìn chung kỹ thuật và quy trình công nghệ mới, hiện đại thường được
chuyển giao từ các nước chính quốc sang các nước đang phát triển với 100%
cổ phần của họ nhằm nâng cao cạnh tranh của các công ty đó tại thị trường
nước chủ nhà. Còn kỹ thuật hay quy trình sản xuất “hạng hai ” được chuyển
giao cho đối tác nước chủ nhà thông qua kênh liên doanh hoặc bán bản quyền.
Đi kèm với việc chuyển giao công nghệ là việc chuyển giao kỹ thuật và kỹ
năng quản lý.
Đối với nước ta việc hợp tác với nước ngoài trong thời gian qua đã đem
lại một khối lượng lớn máy móc thiết bị và cách thức sản xuất được chuyển
giao, góp phần nâng cao trình độ sản xuất. Chúng ta đã tiếp nhận được một số
công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như viễn
thông, thăm dò dầu khí, điện tử, sản xuất và lắp ráp ô tô... Mặc dù chuyển giao
công nghệ qua các dự án FDI chưa đạt như mong muốn, song nhìn chung là

Website: Email : Tel : 0918.775.368
những công nghệ hơn hẳn công nghệ trong nước hoặc trong nước chưa có.
Trong đó, hơn 60% là đầu tư vào chiều sâu, đã giúp cho việc nâng cao năng
lực sản xuất trong nước đẻ sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm chất lượng
cao, giá cả phù hợp, đáp ứng nhu câu trong nước và phần lớn xuất khẩu để thu
ngoại tệ. Đồng thời, FDI cũng kích thích các doanh nghiệp trong nước nhanh
chóng đổi mới hoặc cải tiến công nghệ hiện có để nâng cao khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
1.3.FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong điều kiện kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực
và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các nước. Trong đó,
FDI là một động lực mạnh mẽ, tác động to lớn đến chuyển dịch kinh tế theo
hai hình thức: chuyển dịch cơ cấu ngành (đơn tức phân công lao động xã hội
theo chiều ngang) và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành (tức phân công
lao động xã hội theo chiều dọc).
Sự tập trung đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành
nghề và địa phương có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ góp phần làm phát huy nội lực
của các ngành và lĩnh vực đó, đồng thời kéo theo sự phát triển của một số
ngành nghề có liên quan như các ngành bổ trợ đầu tư, các ngành tiêu thụ đầu
ra... và một số vùng lân cận. Khi đầu tư vào các lĩnh vực và các ngành này trở
nên bão hoà, các nhà đầu tư sẽ chuyển sang các ngành nghề và địa phương
khác theo định hướng của chính phủ thông qua một số chính sách, ưu đãi đầu
tư. Như vậy nó đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và cơ cấu vùng
lãnh thổ theo hướng tích cực .
Những năm qua, nhờ có nguồn vốn FDI đầu tư vào nền kinh tế Việt
Nam đã làm chuyển dịch từ một nền kinh tế mà nông nghiệp chiếm tỷ trọng
lớn sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm
ưu thế. Đặc biệt, đối với một số ngành như công nghiệp và xây dựng cơ bản,
dầu khí, bưu chính viễn thông là những ngành then chốt lại có tỷ lệ vốn FDI rất
cao. Đầu tư nước ngoài đã phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CNH- HĐH, tập trung vào sản xuất, xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng.
Trong đó đầu tư nước ngoài vào xây dựng chiếm khoảng 73% vốn thực hiện.
FDI đã nâng cao mức độ sử dụng công nghẹ mới trong các ngành công nghiệp
dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học, ôtô ... Tỷ trọng một số sản phẩm chủ yếu do
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất ra chiếm khá cao trong toàn ngành
công nghiệp, ví dụ như: dầu thô, ôtô chiếm 100%; tivi chiếm 80,8%; chất tẩy
rữa chiếm 62,2%; sút chiếm 76,4%; máy công cụ chiếm 56,4%...
1.4. FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc
làm mới
Cùng với các dự án FDI là các xí nghiệp liên doanh, các công ty 100%
vốn nước ngoài được thành lập, thu hút rất nhiều lao động trực tiếp và gián
tiếp, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp cho nước nhận đầu tư. tính hết năm
2002, các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài đã thu hút hoảng hơn 48 vạn lao
động cho Việt Nam, ngoài ra FDI còn tạo ra hàng chục vạn lao động gián tiếp
trong lĩnh vực xây dựng và các lĩnh vực khác.
Bên cạnh đó, những công nhân và cán bộ làm trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có trình độ tương đối cao so với mặt bằng chung, lại
được tiếp cận với khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, được làm việc với các
nhà quản lý nước ngoài, cán bộ công nhân của nước chủ nhà cũng học hỏi
được cách lam việc vận dụng hết năng lực, có tính sáng tạo và lây hiệu quả
công việc làm đầu.
Dù FDI vào các nước đang phát triển dưới bất kỳ hình thức nào đều
thường kèm theo các nhà quản lý nước ngoài để hướng dẫn, từ đó bên Việt
Nam sẽ học hỏi được các kinh nghiệm và cách thức quản lý như tổ chức sản
xuất có hiệu quả hơn, kinh nghiệm quản lý các xí nghiệp lớn, giúp các nhà
quản lý Việt Nam tiếp cận với kho thông tin khổng lồ và những kiến thức về
phương pháp quản lý hiện đại, được phổ biến thông qua đào tạo nhân sự người
bản địa trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

1.5. FDI làm tăng thu ngoại tệ và làm tăng nguồn thu cho Ngân sách
Nhà nước
FDI đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước thông qua
việc thu thuế, phí và các nghĩa vụ tài chính khác của các doanh nghiệp. Trong
những năm gần đây, khu vực đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã tạo ra trên 13%
GDP, trên 34% giá trị sản xuất công nghiệp và gần 7% nguồn thu ngân sách
của nhà nước. Thành tựu này thực sự có ý nghĩa góp phần thúc đẩy sự tăng
trưởng của cả nước, thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững mà
Đảng và Nhà nước đã đề ra.
FDI như là một giải pháp để cải thiện cán cân thanh toán quốc tế vì luôn
có tình trạng mất cân đối chủ yếu là do nhập khẩu, hầu hết các dự án FDI có
chủ trương tăng cường xuất khẩu, từ đó thu lượng ngoại tệ lớn cho nước chủ
nhà. Từ thời kỳ 1988 đến nay tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI đạt
hơn 13,8 tỷ USD. Tuy chưa phải là nhiều song trong bối cảnh kinh tế của nước
ta cũng như thế giới hiện nay, kết quả này thật đáng khích lệ, đã góp phần nâng
cao năng lực xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
1.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Khi các nước đang phát triển nhận thức được rằng, sự phát triển kinh tế
không những phải dựa vào thị trường thế giới để tham gia phân công lao động
quốc tế thì một vấn đề được đặt ra là bằng cách nào có thể thực hiện quá trình
đó một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Hội nhập kinh tế thế giới có nghĩa là định hướng phát triển từ thay thế
nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu. Các nghiên cứu về quá trình phát triển
kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy một trong những yếu tố đảm bảo
cho chiến lược công nghiệp hướng về xuất khẩu thành công là thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Điều này, về mặt lý thuyết là do đầu tư trực tiếp gắn bó
chặt chẽ với thương mại, về mặt thực tế thì các nước đang phát triển rất thiếu
kinh nghiệm và khả năng xâm nhập thị trường nước ngoài. Thông qua đầu tư
Website: Email : Tel : 0918.775.368

trực tiếp nước ngoài, các nước đang phát triển được thu hút vào mạng lưới
phân công lao động quốc tế và khu vực.
Hầu hết các nước đang phát triển đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
cao và tao ra những chuyển biến trong cơ cấu thương mại quốc tế của mình là
nhờ vào thu hút FDI vào các ngành công nghệ tiên tiến và những ngành tạo ra
những sản phẩm được ưu chuộng trên thế giới.
2. Những tác động tiêu cực
2.1. Ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế
FDI làm tăng sự phụ thuộc nền kinh tế các nước đang phát triển như
vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của các nước công nghiệp phát
triển. FDI đáp ứng nhu cầu khan hiếm vốn đầu tư, góp phần giải quyết nguồn
vốn cần có của các nước đang phát triển để tiến hành CNH- HĐH nên nếu các
nước này càng dựa vào FDI thì lại càng phụ thuộc về kinh tế đối với các nước
phát triển.
Thông qua hình thức FDI, một số nước chuyển những công nghệ lạc
hầu, không đạt tiêu chuẩn về môi trường ở nước mình sang các nước đang phát
triển, thậm chí còn định giá cao hơn giá trị thực của nó. Như vậy là khi thực
hiện dự án liên doanh hay 100% vốn nước ngoài tại các nước đang phát triển,
các nhà đầu tư nước ngoài thường được khuyến khích góp vốn bằng các thiết
bị vật tư, máy móc, công nghệ mà những nước đang phát triển thường không
làm được và không có. Mặt khác, họ cũng muốn tận dụng công nghệ của mình
ngay cả khi nó đã không còn tính cạnh tranh và bị cấm ở nước mình.
FDI còn gây ra tình trạng phân phối thu nhập không đều cho nước tiếp
nhận đầu tư. Trên thực tế, khi các nhà đầu tư thực hiện FDI tại các nước đang
phát triển, họ tuyển dụng lao động địa phương vào làm việc cho mình với mức
lương cao hơn mức trung bình tài nước đó vì đối với họ thế vẫn là rẻ. Vì vây,
tại các nước chủ nhà xảy ra tình trạng có chênh lệch về thu nhập giữa người lao
động trong cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời còn gây
ra tình trạng chảy máu chất xám mà bấy lâu nay chúng ta vẫn quan tâm.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Thông qua hình thức FDI, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ chiếm lĩnh
thị trường, đẩy các doanh nghiệp trong nước vào một môi trường không cân
sức giưa một bên là các công ty xuyên quốc gia luôn có thế mạnh về tài chính,
kỹ thuật, công nghệ với một bên là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực
thấp. Nếu các doanh nghiệp này không chuẩn bị kịp và vươn lên đứng vững họ
sẽ bị đào thải khỏi cuộc đua.
Hoạt động FDI còn nhằm khai thác các nguồn tài nguyên mà nước đầu
tư không có hay khan hiếm, cộng với sự quản lý lỏng lẻo về khai thác và sử
dụng tài nguyên thiên nhiên, môi trường của nước chủ nhà sẽ dẫn đến việc khai
thác một cách bừa bãi, làm cho nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và gây ra
hậu quả ô nhiễm môi trường.
2.1. Những ảnh hưởng về mặt chính trị - xã hội
Hiện nay, một trong những điều làm Chính phủ các nước đang phát triển
lo ngại khi mở cửa đón nhận FDI là việc thông qua hoạt động này, các nước
công nghiệp phát triển có thể can thiệp vào nội bộ chính trị của nước mình.
Với những tác động tiêu cực đã nêu trên, có thể thấy rằng bằng cách
tăng cường sự phụ thuộc kinh tế, thôn tính các doanh nghiệp... các nước công
nghiệp phát triển có thể gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế và lợi dụng điều đó để
can thiệp vào các vấn đề nội bộ của nước sở tại.
IV. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM
1. Việt Nam mở cửa thu hút FDI là xu hướng tất yếu của quá trình
hội nhập.
Như trên đã nêu rõ, trong xu thế khu vực hoà và toàn cầu hoá kinh tế
phát triển mạnh mẽ, việc thu hút và sử dụng nguồn lực từ bên ngoài thông qua
hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT) nhằm bổ sung và phát triển nguồn lực trong
nước là xu thế phát triển tất yếu của hầu hết các nước trên thế giới. Trong tiến
trình hội nhập, FDI chính là con đường hiệu quả để tiếp cận với các thành quả
tiến bộ chung của thế giới trên mọi lĩnh vực.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
FDI không chỉ là một giải phát phát triển nền kinh tế khi trong nước

thiếu vốn, mà là con đường phát triển kinh tế của một quốc gia. Điều này giải
thích tại sao một nước phát triển cao như Mỹ - chủ đầu tư đứng đầu thế giới về
đầu tư trực tiếp nước ngoài chung cũng như nước tiếp nhận FDI đứng đầu thế
giới. Năm 2002 tốc độ tăng trưởng GDP đạt7,04%, là nước có tốc độ tăng
trưởng đứng thứ hai khu vực, sau Trung Quốc. Trong đó, đóng góp của FDI là
37,4%.
FDI chính là tiêu chí quan trọng để đánh giá hội nhập KTQT của một
nền kinh tế. Việt Nam là một thành viên chính thức của ASEAN và đang thực
hiện những cam kết đối với khu vực mậu dịch tự do (AFTA). Tháng 11/1998
Việt Nam tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC). Đồng thời Việt Nam đang có những nỗ lực để tham gia tổ chức
Thương mại quốc tế (WTO). Trong bối cảnh đó, một mặt bắt buộc Việt Nam
phải thực hiện mở cửa, tuân thủ các cam kết quốc tế đã ký trong các hiệp định
trên. Mặt khác quá trình này mang lại cho Việt Nam những lợi ích nhất định
trên cơ sở khai thác các nội lực, mở rộng có hiệu quả các mối quan hệ quốc tế
để tiến hành CNH - HĐH đất nước.
2. Nhu cầu về vốn cho sự nghiệp CNH - HĐH ở Việt Nam rất lớn
trong khi đó khả năng tích luỹ trong nước hạn hẹp.
CNH nền kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ của
cách mạng Việt Nam. Từ một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, chúng ta cần
nhiều vốn, vật tư, thiết bị máy móc, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để xây
dựng và phát triển kinh tế. Tỷ lệ tích luỹ tài sản trong GDP của Việt Nam tuy
có tăng dần qua các năm (đạt 15,8% năm 1990: 27,14% năm 1999), song còn
quá thấp so với các nước trong khu vực (Singapore tỷ lệ này là 35,9% năm
1990, 33,1% năm 1995 và 35,1% năm 1996. Hàn Quốc có tỷ lệ này là 36,9%
năm 1990, 37,1% năm 1995 và 38,2% năm 1996).
Trên thực tế, tình trạng thiếu vốn đã và đang diễn ra ở mọi ngành, mọi
lĩnh vực, cơ sở sản xuất. Trong khi đó, tình trạng thất thu ngân sách, lãng phí
Website: Email : Tel : 0918.775.368
làm thất thoát vốn do Nhà nước cấp vẫn tiếp tục diễn ra. Thêm vào đó các

khoản nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay đã đạt tới ngưỡng cửa báo động
với mức bình quân 200 USD/ người, trong đó một số khoản đã và sắp đến hạn
phải trả. Do đó, trong những năm tới, đầu tư và phát triển từ ngân sách sẽ khó
tăng mạnh vì phần không nhỏ của nó phải để dành trả lãi và nợ nước ngoài đến
hạn.
Ngược lại, nhu cầu vốn đầu tư phát triển (ĐTPT) nhằm thực hiện những
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội rất lớn. Theo ước tính sơ bộ của
bộ kế hoạch và đầu tư, tổng số vốn ĐTPT toàn xã hội thời kỳ 2001- 2005 lên
tới 65 -70 USD, trong đó nguồn vốn nước ngoài cần tới 22 - 25 tỷ USD, chiếm
khoảng 30 -35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong khi đó, nguồn vốn ODA
có chiều hướng giảm cả về quy mô và mức độ ưu đãi, nguồn vốn vay Thương
mại để tự đầu tư không nhiều, phải chịu lãi suất cao, điều kiện vay khắt khe,
chịu rủi ro của biến động tỷ giá. Do vậy khả năng gần 30% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội cho thời kỳ 2001 - 2005 là dựa vào FDI. Đây là một tỷ lệ huy động
vốn đầu tư nước ngoài rất cao (tỷ lệ này đối với Trung Quốc là 0,3%; Thái Lan
4,4%; Philipin 2,5%, Malaysia 10,7% tính bình quân cho thời kỳ 1980 - 1989).
Điều này chứng tỏ mức độ phụ thuộc cao của quá trình CNH - HĐH ở Việt
Nam vào nguồn lực bên ngoài. Nói cách khác nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển và khả năng huy động vốn của Việt Nam đang và sẽ là một bài toán khá
nan giải đặt ra cho đất nước ta trong thời gian tới. Do vậy, cũng như các nước
đang phát triển khác, để tránh “cái vòng luẩn quẩn” về phát triển kinh tế, đòi
hỏi Việt Nam phải có biện pháp thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài,
nhất là nguồn vốn FDI.
3. FDI có ưu thế hơn so với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác.
Đối với nước ta, trong số các kênh bổ sung từ bên ngoài, nguồn vốn FDI
là kênh đầu tư tương đối an toàn, do nhà đầu tư nước ngoài tự chịu trách nhiệm
về hiệu quả đầu tư, chịu trách nhiệm vay và trả nợ, không để lại gánh nợ nần
cho ngân sách Nhà nước, như vay Thương mại, không chịu sức ép ràng buộc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các điều kiện kinh tế, chính trị như vay ODA, đồng thời tránh cho nước ta khỏi

những biến động đầy rủi ro từ những thăng trầm trên thị trường chứng khoán
mà Việt Nam phát triển còn non nớt trong quản lý vận hành định chế tài chính
bậc cao và nhạy cảm này. Rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
vừa qua, các nước trong khu vực đều thừa nhận vai trò tích cực, tính an toàn
của FDI so với vay nợ Thương mại và đầu tư gián tiếp, kể cả từ nguồn viện trợ
tài chính khẩn cấp của IMF (chính Hàn Quốc và Thái Lan đã không cần giải
ngân tiếp các khoản vay mà IMF cam kết, còn Malaysia thì thẳng thắn cự tuyệt
những khoản vay đầy điều kiện ngặt nghèo này).
Thực tiễn đã, đang và sẽ còn chứng tỏ và mang lại nhiều hơn các tác
động tích cực của FDI và các ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế và
công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đặc biệt là thị trường tiêu thụ, công ăn việc
làm, nguồn thu ngoại tệ do FDI tạo ra đóng vai trò như một động lực mạnh để
tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam trong thời gian qua. Nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực do có vốn FDI đã khôi phục lại các lợi điểm vốn có của mình, tạo ra
phản ứng dây chuyền rất tốt đối với nền kinh tế. Bên cạnh đó nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực mới cũng đã được tạo ra theo dòng FDI, góp phần khai thác các
năng lực tiềm ẩn.
Tóm lại, trong chiến lược lâu dài xây dựng và phát triển kinh tế đất nước
theo đường lối đổi mới, đáp ứng yêu cầu mở cửa hội nhập vào kinh tế khu vực
và quốc tế, đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của FDI đối với nền kinh
tế Việt Nam, việc thu hút nguồn vốn đầu tư quan trọng này là tất yếu khách
quan, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH nền kinh tế đất
nước.
V. MỘT SỐ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA DÒNG FDI HIỆN
NAY
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thế giới, cả với nhận đầu tư và nước
đầu tư. Cũng như sự phát triển của nền kinh tế thế giới, sự vận động của dòng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vốn FDI chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau như: kinh tế, kỹ thuật,

chính trị, xã hội và các nhân tố tự nhiên khác. Cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ khu vực Châu Á cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế
giới đã khiến hoạt dộng đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều biến đổi sâu sắc.
Trong những năm gần đây, FDI ngày càng dược mở rộng và tăng lên cả về quy
mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu tư, đồng thời thể hiện vị trí, vai trò
ngày càng to lớn trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự vận động của FDI đang thay
đổi đáng kể theo những xu hướng sau:
1. Quy mô FDI không ngừng tăng lên cả về số tuyệt đối và tỷ trọng
trong tổng vốn đầu tư của toàn thế giới
Càng về cuối thập kỷ 90, tốc độ lưu chuyển FDI càng tăng nhanh, lên tới
20% mỗi năm. phải mất 12 năm từ năm 1974 đến 1986 để FDI tăng gần gấp
đôi (năm 1974 là 40 tỷ USD, nhưng đến năm 1986 là 76 tỷ USD. Nhưng chỉ 6
năm sau, đến năm 1992 FDI đã tăng lên hai lần, đạt mức 168 tỷ USD và chỉ 3
năm tiếp theo tức đến năm 1995 FDI đạt mức 325 tỷ USD. Năm 1998, theo
báo cáo của tổ chức Hội nghị về buôn bán và phát triển của Liên hiệp quốc
(UNCTAD), tổng FDI của thế giới là 636 tỷ USD. Năm 1999 khối lượng FDI
trên toàn thế giới đạt 865 tỷ USD, tăng 36% so với năm 1998, gấp 10 lần so
với 10 năm trước. Năm 2000 đạt khoảng 1000 tỷ USD, tăng 16% so với năm
1999. Theo dự báo trong 5năm đầu của thế kỷ XXI, dòng FDI tiếp tục gia tăng
vượt tốc độ tăng trưởng kinh tế và thương mại của thế giới.
Cơ sở của sự gia tăng không ngừng quy mô FDI là quá trình toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới, môi trường chính trị - xã hội thuận lợi và tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá đều đặn của các quốc gia, trong khu vực và trên toàn thế
giới những năm gần đây. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhất là hệ thống
thông tin liên lạc, giao thông cũng thuận lợi, trợ giúp các hoạt động FDI diễn
ra thuận tiện, nhanh chóng.
2. Cơ cấu đầu tư thay đổi theo hướng tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp chế biến và dịch vụ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong giai đoạn hiện nay, FDI có xu hướng tập trung vào hai ngành chủ

yếu là công nghiệp chế biến và dịch vụ, còn các ngành truyền thống như khai
khoáng và nông nghiệp giảm đi. Một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại khi
các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao. Đây là xu
hướng có tính phổ biến trên thế giới và xu hướng này chi phối toàn bộ đầu tư
nước ngoài.
Số vốn FDI vào ngành dịch vụ chiếm hơn 50% tổng vốn FDI trên toàn
thế giới trong những năm 80, trong đó dịch vụ ngân hàng, buôn bán chiếm
phần quan trọng nhất. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 1/2 lượng vốn FDI của các công
ty xuyên quốc gia đầu tư vào các nước đang phát triển, FDI chủ yếu tập trung
vào các tâm tài chính lớn.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên được giải thích bởi:
- Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đời sống được nâng cao
nên nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh tăng
lên làm cho ngành dịch vụ phát triển.
- Ngành công nghiệp chế biến có nhiều phân ngành thuộc ngành mũi
nhọn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ như: điện tử, thông tin liên lạc,
vật liệu mới.
- Do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này là dễ thực hiện sự liên kết, hợp
tác trên các mũi nhọn của nền kinh tế.
- Đầu tư vào hai ngành này cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thu
được lợi nhuận cao, ít rủi ro và thời gian thu hồi vốn nhanh.
3. Dòng FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các
công ty xuyên quốc gia (TNCs) của các nước đang phát triển
TNCs trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp kiểm soát trên 90% tổng
FDI của toàn thế giới hiện nay. Chỉ hơn 100 TNCs lớn nhất thế giới (tất cả đều
thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm tới 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản ở
nước ngoài của các công ty này lên tới hơn 1498 tỷ USD, sử dụng tới 75 triệu
lao động, trong đó có lao động ở nước ngoài là 12,4 triệu. Xu hướng bành
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trướng của TNCs trong đầu tư quốc tế này đòi hỏi các quốc gia chú trọng việc

thu hút FDI từ các TNCs.
Hiện nay, các TNCs vẫn tiếp tục vươn dài ra các khu vực khác nhau trên
thế giới với quy mô FDI ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng quan trọng đầu
tư trực tiếp nước ngoài và đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh
việc giữ vững các khu vực đầu tư truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, TNCs
đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực Châu Á. Châu Á cũng là địa bàn ưu tiên đầu
tư hàng đầu của Nhật Bản, thứ hai là Mỹ (sau Châu Âu) và thứ ba là các nước
Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu).
FDI ngày nay có mối liên hệ chặt chẽ với chiến lược toàn cầu của công
ty xuyên quốc gia. Trong những năm gần đây, các hình thức đầu tư chủ yếu
của TNCs là hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài đây
cũng là chiến lược hợp tác phát triển chính của các TNCs. Những năm cuối
thập kỷ 90 đã đánh dấu thời kỳ sát nhập trên diện rộng các TNCs thành các
công ty lớn hơn. quá trình sát nhập vừa thúc đẩy mức độ quốc tế hoá hệ thống
sản xuất, tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn, phản ứng lại áp lực cạnh tranh, tăng
cường hợp tác, tin tưởng lẫn nhau, đồng thời cũng tạo ra tính độc quyền cao để
cùng nhau thống trị, chi phối nền kinh tế thế giới và khu vực đối với các tập
đoàn khổng lồ này. Đặc biệt, hình thức đầu tư mua lại các chi nhánh ở nước
ngoài là cách nhanh nhất để thiết lập sự có mặt của các TNCs ở nước chủ nhà,
giúp sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng và hệ thống phân phối sẵn có, mở
rộng thị phần, tránh được hàng rào thuế quan, tăng năng lực cạnh tranh và
nguồn thu lợi nhuận.
Giá trị giao dịch hợp nhất, mua bán cổ phần thuộc vốn của các công ty
nước ngoài trong năm 1998 đạt 229 tỷ USD, trong đó chủ yếu là các giao dịch
mua bán có giá trị trên 1 triệu USD. Nếu xét các vụ mua bán và sát nhập cả
trong phạm vi một quốc gia, thì giá trị này chỉ riêng ở Châu Âu năm 1999 đã
lên tới 894 tỷ USD và trong 11 tháng của năm 2000 đạt con số kỷ lục là 888,3
tỷ USD, cao hơn nhiều so với đầu tư quốc tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Những ngành diễn ra những hoạt động hợp nhất, mua lại nhộn nhịp nhất

là viễn thông, dược phẩm, chế tạo ôtô, cung cấp năng lượng, dịch vụ tài chính -
ngân hàng và chủ yếu diễn ra trong nội bộ EU và Mỹ. Trong những năm tới
hoạt động hợp nhất và mua lại sẽ tiếp tục diễn ra sâu sắc hơn, quy mô hơn, dẫn
tới việc sắp xếp lại trên phạm vi toàn cầu các ngành sản xuất. Quá trình sát
nhập hoặc mua lại của các hãng cũng sẽ chú trọng hơn đến việc đầu tư vào
nâng cấp và tái cơ cấu công nghệ và quản lý.
4. Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và tiếp nhận đầu tư ngày
càng cao.
Sự phát triển liên tục của nền kinh tế thế giới làm cho nguồn FDI ngày
càng mở rộng và gia tăng, nhưng đồng thời nhu cầu về FDI để phát triển ở tất
cả các nước, đặc biệt các nước đang phát triển cũng ngày càng lớn dẫn đến sự
cạnh tranh quyết liệt giữa các nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này.
Các nước nhận FDI, đặc biệt là các nước vừa phục hồi sau khủng hoảng, các
nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển khác có xu hướng tập
trung nỗ lực đẩy mạnh việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông
thoáng, mở cửa như hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, kích thích tiêu dùng nội địa, dỡ
bỏ bớt những rào cản trong các lĩnh vực như bảo hiểm, viễn thông và năng
lượng... đây là những tác nhân thu hút đầu tư tích cực nhằm hấp dẫn “co kéo “
FDI.
Không chỉ có sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư, cuộc cạnh
tranh giữa các nước đi đầu tư cũng không kém phần gay go quyết liệt, tạo nên
lợi thế cho các nước tiếp nhận đầu tư. Các nhà cung cấp FDI đang ráo riết chào
mời để có thể nhảy vào những lĩnh vực và thị trường kinh doanh béo bở, đặc
biệt là lĩnh vực công nghiệp chế tạo ôtô, công nghiệp điện tử, dịch vụ bảo
hiểm, dịch vụ thông tin...
Chiến lược đầu tư của mỗi nước trong từng thời kỳ là khác nhau, sự ổn
định về chính trị - xã hội, kết quả của các cuộc cải cách kinh tế, hiệu quả quản
lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư ở nước có sự khác nhau là nguyên nhân trực
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiếp của sự cạnh tranh trong “cho và nhận” FDI, dẫn đến những thay đổi liên

tục trong phân bổ FDI giữa các quốc gia và khu vực trên toàn thế giới.
5. Ngày càng gia tăng tính không đồng đều trong phân bố và lưu
chuyển FDI
FDI tập trung với mức độ và quy mô khác nhau trong mỗi nền kinh tế,
tốc độ tăng trưởng dòng FDI cũng hoàn toàn khác nhau ở mỗi nước và không
ổn định qua các năm. Các nước phát triển tiếp tục là các nhà đầu tư hàng đầu
thế giới, đồng thời là những địa chủ thu hút đại bộ phận đầu tư quốc tế. Trước
những năm 90, FDI có nguồn gốc từ các nước phát triển chiếm trên 93% và
hiện nay chiếm khoảng 88% tổng vốn FDI của thế giới. Đồng thời, các nước
phát triển cũng thu hút phần lớn vốn FDI của thế giới với nhịp độ tăng FDI
bình quân hàng năm vài chục phần trăm trong mấy năm gần đây, dẫn đến tỷ
trọng FDI tập trung vào các nước này cũng không ngừng tăng lên.
Mỹ và EU là tâm điểm của dòng lưu chuyển FDI của thế giới. Trong hai
năm 1998, 1999 riêng Mỹ nhận gần 1/4 FDI, còn EU tiếp nhận khoảng gần 1/2
FDI của toàn thế giới. Nền kinh tế Mỹ và các nước EU tăng trưởng liên tục là
tác nhân thu hút mạnh FDI và làm chậm quá trình di chuyển vốn đầu tư ra
nước ngoài.
Các nước phát triển vẫn là lực lượng thứ yếu đối với việc thu hút và thúc
đẩy luồng vốn FDI quốc tế. Mặc dù tăng lên về quy mô, nhưng tỷ trọng FDI
vào các nước đang phát triển liên tục giảm do đầu tư vào các nước này có
chiều hướng chậm lại, từ chỗ chiếm 70% FDI toàn thế giới những năm 60 đã
chuyển dịch ngược lại vào đầu thập kỷ 90. Năm 1998 và 1999, FDI đổ vào các
nước đang phát triển tương ứng là 170,9 tỷ USD và 178 tỷ USD, chiếm 22,5%
tổng FDI của thế giới. Năm 2002 lượng vốn FDI vào các nước đang phát triển
khoảng 240 tỷ USD.
Nhưng ngay trong các quốc gia đang phát triển, FDI cũng phân bố
không đồng đều. Từ cuối thập kỷ 80 trở lại đây, 2/3 FDI được tập trung cho 10
nước có trình độ kinh tế tương đối cao của hai khu vực Châu Á và Mỹ La Tinh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
gồm: Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái lan, Hồng Kông, Đài

Loan, Brasil, Mehico, 1/3 được san cho hơn 100 nước còn lại. Trung Quốc
được coi là nước có thị trường đầu tư sôi động nhất, tiếp theo là một số quốc
gia Đông Á và Mỹ La Tinh.
Châu Phi dường như vẫn dậm chân tại chỗ về mặt kinh tế nói chung và
thu hút FDI nói riêng. Năm 1997, tổng vốn FDI đầu tư vào Châu Phi đạt mức
cao nhất là 9,4 tỷ USD, nhưng lại giảm xuống còn 8,3 tỷ USD vào năm 1998,
chưa đầy 2% FDI của toàn thế giới.
6. Quá trình luân chuyển và các đối tác tham gia quá trình luân
chuyển FDI vừa có tính quốc tế hoá cao, vừa có tính cục bộ
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều không tỏ ra thờ ơ với nguồn vốn
FDI và đều nhận thức được tầm quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế
và phân công lao động quốc tế trong quá trình toàn cầu hoá. Cùng với tốc độ
lưu chuyển vốn quốc tế nhanh, thị trường tài chính của các quốc gia đang mở
cửa rộng hơn, tạo nên xu thế ngày một hội nhập thị trường tài chính toàn thế
giới.
Hiện tượng đa biên trong xu hướng vận động của FDI ngày càng đậm
nét, các công trình đầu tư ngày nay không chỉ có sự tham gia của đơn nhất một
chủ đầu tư mà mang tính chất của một quá trình đầu tư tập thể, có thể dưới
dạng đóng góp cổ phần hoặc phân nhỏ công trình thành các hạng mục đầu tư
cho nhiều chủ thể tham gia.
Tuy nhiên, FDI cũng mang tính chất cục bộ. Các nước EU là những nhà
đầu tư hàng đầu thế giới, nhưng chiếm tỷ phần khá lớn trong khối lượng đầu tư
này được thực hiện ngay trong nội bộ các nước EU. Dòng đầu tư lẫn nhau giữa
các nước phát triển là xu hướng vận động chủ đạo của các chủ đầu tư quốc tế
lớn và là nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá.
Hiện nay, trên thế giới đã hình thành các nhà đầu tư truyền thống đối với
nước tiếp nhận đầu tư này, cũng như thị trường truyền thống đối với nước đầu
tư kia. Khu vực Nam Mỹ có thể nói là “lãnh địa” của các nhà đầu tư Hoa Kỳ,

×