Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

DThực trạng huy động vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.54 KB, 40 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong thời gian qua đã thu được những kết
quả bước đầu quan trọng. Việt Nam không những đã vượt qua được sự khủng
hoảng triền miên trong thập kỷ 80 mà còn đạt được những thành tựu to lớn trong
phát triển kinh tế xã hội. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân năm
6,94% (sau 17 năm đổi mới 1986-2003). Công nghiệp giữ nhịp độ tăng giá trị
sản xuất bình quân hàng năm 13,5%, lạm pháp đẩy lùi, đời sống đại bộ phận
nhân dân được cải thiện về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Có được thành tựu kinh tế đáng ghi nhận này, là nhờ phần đóng góp lớn
của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên vào những năm trở lại đây, do
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ đã xẩy ra ở một số nước trong khu
vực. Cộng với mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài
ở các nước như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan ...Đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam có phần giảm thiểu về số lượng lẫn chất lượng. Do đó đã ảnh
hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế xã hội.
Trước tình hình đó, vấn đề chúng ta phải có sự nhìn nhận và đánh giá
đúng đắn về đầu tư trực tiếp vào nước ngoài trong thời gian qua, để thấy được
những tác động tích cực hay tiêu cực của đất nước. Trên cơ sở đó đề ra hệ thống
những giải pháp cụ thể, kịp thời nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam trong những năm tới, góp phần thực hiện mục tiêu chiến
lược mà Đảng và Nhà Nước ta đã đề ra: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển.
Để nhận rõ hơn vấn đề này, em chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng huy
động vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian qua”.
Vì khả năng còn hạn chế bài viết không thể không tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô để bài viết này được hoàn thiện
hơn.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI


(FDI)
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình thức di chuyển vốn
quốc tế. Trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và
điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện dưới ba hình thức chủ yếu:
 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
 Doanh nghiệp liên doanh.
 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên
(gọi là bên hợp danh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả cho mỗi bên,
để tiến hành đầu tư vào Việt Nam mà không lập thành một pháp nhân.
Hình thức đầu tư này đã xuất hiện từ sớm ở Việt Nam nhưng đáng tiếc
cho đến nay vẫn chưa hoàn thiện được các quy định pháp lý cho hình thức này.
Điều đó đã gây không ít khó khăn cho việc giải thích, hướng dẫn và vận dụng
vào thực tế ở Việt Nam. Ví dụ như có sự nhầm lẫn giữa hợp đồng hợp tác kinh
doanh với các dạng hợp đồng khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đầu
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.(như hợp đồng gia công sản phẩm, hợp
đồng mau thiết bị trả chậm vv...). Lợi dụng sơ hở này, mà một số nhà đầu tư
nước ngoài đã trốn sự quản lý của Nhà Nước. Tuy vậy hợp đồng hợp tác kinh
doanh là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài dễ thực hiện và có ưu thế lớn
trong việc phối hợp sản phẩm .Các sản phẩm kỹ thuật cao đòi hỏi có sự kết hợp
thế mạnh của nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau. Đây cũng là xu
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hướng hợp tác sản xuất kinh doanh trong một tương lai gần xu hướng của sự
phân công lao động chuyên môn hóa sản xuất trên phạm vi quốc tế.

2.2. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai hay nhiền bên
nước ngoài hợp tác với nước chủ nhà cùng góp vón, cùng kinh doanh, cùng
hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh
được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp
nhân theo pháp luật nước nhận đầu tư. Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu
tư nước ngoài sử dụng nhiều nhất trong thời gian qua chiếm 65% trong tổng ba
hình thức đầu tư (trong đó hình thức hợp tác kinh doanh chiếm 17%, Doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài chiếm 18%).
Thông qua hợp tác liên doanh với các đối tác Việt Nam, các nhà đầu tư
nước ngoài tranh thủ được sự hỗ trợ và những kinh nghiệm của các đối tác Việt
Nam trên thị trường mà họ chưa quen biết trong quá trình làm ăn của họ tại Việt
Nam. Mặt khác do môi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều bất chắc nên các
nhà đầu tư nước ngoài không muốn gánh chịu rủi ro mà muốn các đối tác Việt
Nam cùng chia sẻ với họ nếu có. Liên doanh với một đối tác ở bản địa, các nhà
đầu nước goài yên tâm hơn trong kinh doanh vì họ đã có một người bạn đồng
hành.
Những năm gần đây, xu hướng của các nhà đầu tư nước ngoài giảm sự
quan tâm đến hình thức này và các dự án 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
lại có xu hướng tăng lên. Đó là do sau thời gian tiếp xúc với thị trường Việt
Nam, các nhà đầu tư nước ngoài đã hiểu rõ hơn về luật pháp, chính sách và các
quy định khác của Việt Nam. Thậm chí họ còn hiểu rõ về phong tục tập quán và
thói quen trong đó thói quen tiêu dùng của người Việt Nam cũng như cách thức
kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác khả năng tham gia liên
doanh của các đối tác Việt Nam ngày càng bị hạn chế bởi thiếu cán bộ giỏi,
thiếu vốn đóng góp. Do vậy các nhà đầu tư nước ngoài muốn được điều hành
trong quản lý doanh nghiệp.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do các nhà đầu
tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam. Tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết
quả sản xuất kinh doanh.Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành
lập theo hình thức của công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được thành lập theo hình thức
100% vốn nước ngoài.Thời gian đầu chưa nhiều, những xu hướng gia tăng của
các dự án đầu tư theo hình thức này ngày càng mạnh mẽ. Trong những năm gần
đây vì hình thức này có phần dễ thực hiện và thuận lợi cho họ.
Nhưng bằng hình thức đầu tư này về phía nước nhận đàu tư thường chỉ
nhận được cái lợi trước mắt, về lâu dài thì hình thức này còn có thể phải gánh
chịu nhiều hậu quả khó lường.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới thu hút vốn FDI
Sau nhiều lần nghiên cứu phân tích, đánh giá lợi hại (được, mất) của nước
nhận đầu tư và của người bỏ vốn đầu tư. Hội đồng kinh tế Brazin- Mỹ đã rút ra
được 12 nhân tố có ý nghĩa quyết định cho việc lựa chọn một vùng hay một
nước nào đó để đầu tư. 12 nhân tố này có thể được chia lại cho gọn như sau:
3.1 Các yếu tố điều tiết vĩ mô
3.1.1 Các chính sách
Chính sách tiền tệ ổn định và mức độ rủi ro tiền tệ ở nước tiếp nhận đầu
tư. Yếu tố đầu tiên ở đây góp phần mở rộng hoạt động xuất khẩu của các nhà
đầu tư. Tỷ giá đồng bản bị nâng cao hay bị hạ thấp đều bị ảnh hưởng xấu tới
hoạt độnh xuất nhập khẩu.
Chính sách thương nghiệp.Yếu tố này có ý nghĩa đặc biệt đối với vấn đề
đầu tư trong lĩnh vực làm hàng xuất khẩu. Mức thuế quan cũng ảnh hưởng tới
giá hành xuất khẩu. Hạn mức (quota) xuất nhập khẩu thấp và các hàng rào
thương mại khác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng như có thể không kích
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thích hấp dẫn tới các nhà đầu tư nước ngoài. Chính yếu tố này làm phức tạp

thêm cho thủ tục xuất khẩu và bị xếp vào hàng rào xuất khẩu khác.
Chính sách thuế và ưu đãi. Chính sách ưu đãi thường được áp dụng để thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách này, mà ổn định thì sẽ góp phần tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư bản xứ lẫn nước ngoài.
Nếu không có những biện pháp tích cực chống lạm pháp thì có thể các nhà đầu
tư thích bỏ vốn vào nước này. Nếu giá cả tăng nhanh ngoài dự kiến thì khó có
thể tiên định được của kết quả hoạt độnh kinh doanh.
3.1.2. Luật đầu tư
Yếu tố này có thể làm hạn chế hay cản trở hoạt động của các công ty nước
ngoài trên thị trường bản địa. (Luật này thường bảo vệ lợi ích của các nhà bản
xứ). Nhiều nước mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo các điều kiện giống
như cho các nhà đầu tư bản xứ.
Ở Việt Nam, luật khuyến kích đầu tư nước ngoài triển khai còn chậm và
không đáp ứng được sự mong mỏi bởi mức độ ưu đãi và khuyến khích còn hạn
chế, chưa nhất quán.
3.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng khác
Yếu tố hàng đầu là đặc điểm của thị trường bản địa (quy mô, dung lượng
của thị trường sức mua của dân cư bản xứ và khả năng mở rộng quy mô đầu tư).
Đặc điểm của thị trường nhân lực. Công nhân lao động là mối quan tâm
hàng đầu ở đây, đặc biệt đối với những nhà đầu tư nước ngoài muốn bỏ vốn vào
các lĩnh vực cần nhiều lao động, có khối lượng sản xuất lớn. Trình độ nghề
nghiệp và học vấn của các công nhân đầu đàn (có tiềm năng và triển vọng) có ý
nghĩa nhất định.
 Khả năng hồi hương vốn đầu tư. Vốn và lợi nhuận được tự do qua biên
giới (hồi hương) là tiền đề quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.ở một số
nước mang ngoại tệ nước ngoài phải xin giấy phép của ngân hàng trung ương
khá rườm rà.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Bảo vệ quyền sở hữu. Quyền này gồm cả quyền của người phát minh
sáng chế, quyền tác gỉa, kể cả nhãn hiệu hàng hóa và bí mật thương nghiệp vv...
Đây là yếu tố đặc biệt có ý nghĩa lớn đối với những người muốn đầu tư vào các
ngành hàm lượng khoa học cao và phát triển năng động (như sản xuất máy tính,
phương tiện liên lạcvv....) ở một số nước, lĩnh vực này được kiểm tra, giám sát
khá lỏng lẻo, phổ biến là sử dụng không hợp pháp các công nghệ ấy của nước
ngoài. Chính vì lý do này mà một số nước bị các nhà đầu tư loại khỏi danh sách
các nước có khả năng nhận vốn đầu tư.
 Điều chỉnh hoạt động đầu tư của các công ty đầu tư nước ngoài. Luật lệ
cứng nhắc cũng tăng chi phí của các công ty đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư
rất thích có sự tự do trong môi trường hoạt động và do vậy họ rất quan tâm đến
một đạo luật mềm dẻo giểp cho họ ứng phó linh hoạt, có hiệu quả với những
diễn biến của thị trường. Ví dụ có những nước cấm sa thải công nhân là không
phù hợp với lợi ích của công ty nước ngoài. Chính sách lãi suất ngân hàng và
chính sách biệt đãi đối với một số khu vực cũng có ý nghĩa đối với các nhà đầu
tư ở một số nước.
 Ổn định chính trị ở nước muốn nhận đầu tư và trong khu vực này. Đây
là yếu không thể xem thường mỗi khi bỏ vốn đầu tư vì rủi ro chính trị có thể gây
thiệt hại lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng phát triển. Nếu các yếu tố nói trên đều thuận lợi nhung
chỉ một khâu nào đó trong kết cấu hạ tầng (giao thông liên lạc, điện nước) bị
thiếu hay bị yếu kém thì cũng ảnh hưởng và làm giảm sự hấp hẫn của các nhà
đầu tư.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ (CỦA NƯỚC NHẬN ĐẦU TƯ)
1. Những ảnh hưởng tích cực của FDI
1.1. Là nguồn hỗ trợ cho phát triển
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn
ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
6

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”đó là:
Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là
thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các
nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo ta kinh tế hiện đại. Nhiều nước
lâm vào tình trạng trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột
phá chính xác. Một mắt xích của “vòng luẩn quẩn” này.
Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển là
vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước,
đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng
thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì
hậu quả khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do
đó vốn nước ngoài sẽ là một “cú hích” để góp ghần đột phá vào cái “vòng luẩn
quẩn” đó. Đặc biệt là FDI nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn
mà không gây nợ cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư
chỉ nhận một phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu
quả. Hơn nữa lượng vốn này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn
trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư,
còn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt hơn.
Theo mô hình lý thuyết “hai lỗ hổng” của Cherery và Stront có hai cản trở
chính cho sự ta của một quốc gia đó là: Tiết kiệm không đủ đáp ứng cho nhu cầu
đầu tư được gọi là “lỗ hổng tiết kiệm”.Và thu nhập của hoạt động xuất khẩu
không đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được gọi là “lỗ hổng
thương mại”.
Hầu hết các nước kém phát triển, hai lỗ hổng trên rất lớn. Vì vậy FDI góp
phần làm tăng khả năng cạnh tranhvà mở rộng khả năng xuất khẩu của nước
nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ
các hoạt dộng dịch vụ cho FDI.
1.2. Chuyển giao công nghệ

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại,
kỹ sảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó,
chủ đầu tư không chỉ vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật
như máy móc thiết bị, nhuyên vật liệu....(hay còn gọi là cộng cứng) trí thức khoa
hoạch bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần
mềm.) Do vậy đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước
nhận đầu tư. FDI có thể thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những
nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá
trình công nghiệp hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, ta nhanh của các nước nhận
đầu tư. FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ
thuật cho các đối tác trong nước nhận đầu tư, thông qua những chương trình đào
tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI còn mang lại cho họ những kiến thức sản
xuất phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước nhận đầu tư. FDI còn
thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà
quản lý có trình độ chuyên môn để tham gia vào các công ty liên doanh với
nước ngoài.
Thực tiễn cho thấy, hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể
trình độ kỹ thuật công nghệ của mình. Chẳng hạn như đầu những năm 60 Hàn
Quốc còn kém về lắp ráp xe hơi, nhưng nhờ chuyển nhận công nghệ Mỹ, Nhật,
và các nước khác mà năm 1993 họ đã trở thành những nước sản xuất ô tô lớn
thứ 7 thế giới.
Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc
gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công
ghệ cho nước nào tiếp nhận đầu tư. Thì đây là cơ hội cho các nước đang phát
triển có thể tiếp thu được các công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các
nước đang phát triển được “đi xe miễn phí” mà họ phải trả một khoản “học phí”
không nhỏ trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này.
1.3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn
thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh ta kinh tế. Đây cũng là
điểm nút để các nước đang phát triển khoát ra khỏi các vòng luẩn quẩn của sự
đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào
thực hiện chiến lược kinh tế mở của với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác
dụng của các nhân tố bên ngoài biến nó thành những nhân tố bên trong thì quốc
gia đó tạo được tốc độ tăng cao.
Mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu
tư, nhờ đó các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao
động cũng tăng lên theo. Vì vậy có thể thông qua tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với ta kinh tế.
Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc
đẩy ta kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác
những tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền kinh tế.
1.4. Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Yêu cầu dịch chuyển nền kinh tế không chỉ đòi hỏi của bản thân sự phát
triển nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hứng quốc tế hóa đời sống
kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt
động kinh tế đối ngoại. Thông qua các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào
quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các
nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước
cho phù hợp với sự phân công lao dộng quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế
của nước phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động đầu tư nước ngoài. Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần
thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành
kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư. Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp vào

sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều nghành kinh tế,
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở một số ngành này và tăng tỷ phần
của nó trong nền kinh tế. Ba là, một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu
tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng có nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ
bị xóa bỏ.
1.5. Một số tác động khác
Ngoài những tác động trên đây, đầư tư trực tiếp nước ngoài còn có một số
tác động sau:
Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua
việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư và tiền thu tư việc cho thuê đất ....
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho
nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là
sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước
ngoài và việc phá triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển.Ví
dụ như Singapore lên72,1%, Brazin là 37,2%, Mehico là 32,1%, Đài loan là
22,7%, Nam Hàn 24,7%, Agentina 24,9%. Cùng với việc tăng khả năng xuất
khẩu hàng hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị trường cả trong
nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có phương
án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiên tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ
biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay.
Về mặt xã hội, đầu tư trục tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc
mới, thu hút một khối lượng đáng kể người lao độngở nước nhận đầu tư vào làm
việc tại các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc
làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia.
Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất
phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được. Thì đầu tư trực
tiếp nước ngoài đước coi là chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên đây.
Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra được các điều kiện về vốn và kỹ thuật, cho

phép khai thác và sử dụng các tiềm năng về lao động. ở một số nước đang phát
triển số người làm việc trong các xí nghiệp chi nhánh nước ngoài so với tổng
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người có việc làm đạt tỷ lệ tương đối cao như Singapore 54,6%, Brazin 23%,
Mehico 21%. Mức trung bình ở nhiều nước khác là 10%. ở Việt Nam có khoảng
trên100 nghìn người đang làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Đây là con số khá khiêm tốn.
Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong nước nhận đầu tư
thụ thuộc rất nhiều vào chính sach và khả năng lỹ thuật của nước đó.
2. Những ảnh hưởng tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Chuyển giao công nghệ
Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở phần trên,chểng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận
đầu tư sẽ nhận nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường
chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều này
cũng có thể giải thich là: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật cho nên máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy
họ thường chuyển giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để
đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chát lượng của sản phẩm của
chính nước họ.Hai là, vào giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều
sử dụng công nghệ, sự dụng lao động.Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá
của lao động sẽ tăng, kết quả là giá thánhản phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay đổi
công nghệ bằng những công nghệ có hàm lượng cao để hạ giá thành sản phẩm.
Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận
đầu tư như là:
 Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó.
Do đó nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh
nghiệp liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận.
 Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị

cưỡng chế phải bảovệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước
công nghiệp phát triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khẩu môi trường sang các nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường
không hữu hiệu.
 Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất caovà do đó sản phẩm của
các nước nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thực tiễn cho thấy, tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công
nghiệp sang các nước đang phát triển đang còn là vấn đề gay cấn.Ví dụ theo báo
cáo của ngân hàng phát triển Mỹ thì 70% thiệt bị của các nước Mỹ La Tinh nhập
khẩu từ các nước tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu.Cũng tương tự, các
trường hợp chuyển giao công nghệ ASEAN lúc đầu chưa có kinh nghiệm kiểm
tra nên đã bị nhiều thiệt thòi.
Tuy nhiên, mặt trái này cũng một phần phụ thuộc vào chính sách công
nghệ của các nước nhận đầu tư. Chẳng hạn như Mehico có 1800 nhà máy lắp
ráp sản xuất của các công ty xuyên gia của Mỹ. Mội số nhà máy này được
chuyển sang Mehico để tránh những quy định chặt chẽ về môi thường ở Mỹ và
lợi dụng những khe hở của luật môi trường ở Mehico.
2.2. Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đước chủ yếu do các công ty xuyên
quốc gia, đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của
nền kinh tế của nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng
hóa của các công ty xuyên quóc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp
phần vốn bổ sung quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện
chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua
các công ty xuyên quốc gia là những bên đối tác nươc ngoài để chúng ta có thể
tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ
nước này sang nước khác. Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tuu trực tiếp nước
ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước công nghiệp phát triển

càng lớn . Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự
phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự phồn vinh có được bằng cái
của người khác.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách và
khả năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn,
kỹ thuật và có ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà
nhanh chòng phát triển công nghệ nội đại, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa
dạng hóa thị trrường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh
nghiên cứu và triển khai trong nước thì sẽ được rất nhiều sự phụ thuộc của các
công ty đa quốc gia.
2.3. Chi phí cho thu hểt FDI và sản xuất hàng hóa không thích hợp
Một là: Chi phí của việc thu hút FDI
Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà
đầu tư như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần
lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất,
nhà xưởng và một số các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư
trong nước. Hay trong một số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan....
Và như vậy đôi khi lợi ích của nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà
nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho
các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tư thường tính giá cao cho các nguyên vật
liệu,bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc
làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư chẳng hạn như trốn được
thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được. Từ đó hạn chế
cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị trường. Ngược lại, điều
này lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng
hóa do các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn.
Tuy nhiên việc tính giá cao chỉ sảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin,
trình độ kiểm soát, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn yếu, hoặc các chính

sách của nước đó còn nhiều khe hở khiến cho các nhà đầu tư có thể lợi dụng
được.
Hai là: Sản xuất hàng hóa không thích hợp
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp
cho các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi còn lại là những hàng hóa có hại
cho khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng
thuốclá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay
thế xà phòng vv...
2.4. Những mặt trái khác
Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt động
tình báo, gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo
kiểu “diễn biến hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch
nhằm phá hoại ổn định về chính trị của nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi
hình thức tinh vi và xảo quyệt. Trường hợp chính phủ Xanvado Agiende ở Chile
bị giật dây lật đổ năm 1973 là một ví dụ về sự can thiệp của các công ty xuyên
quốc gia ITT(công ty viễn thông và điện tín quóc tế) và chính phủ Mỹ cam thiệp
công việc nội bộ của Chile.
Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào
những nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự
mất cân đối giữa các vùng,giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có
thể gây ra mất ổn định về chính trị. Hoặc FDI cũng có thẻ gây ảnh hưởng xấu về
mặt xã hội. Những người dân bản xứ làm thuê cho các nhà đầu tư có thể bị mua
chuộc, biến chất, thay đổi quan điểm, lối sống và nguy cơ hơn là họ có thể phản
bội Tổ Quốc. Các tệ nãnã hội cũng có thể tăng cường với FDI như mại dâm,
nghiện hút....
Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản
của nó mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng vào FDI và cần phải
có những chính sách, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những

mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của
FDI gây ra cho nước chủ nhà nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách,
năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN FDI VÀO VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
I. TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI
Hiện nay, xu hướng toàn cầu khu vực nền kinh tế đang diễn ra trên khắp
thế giới.Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển chung đó. Ngày
nay có nhiều công ty, tổ chức quốc tế vào Việt Nam và nguồn vốn này đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế Việt Nam.Sau đây là bức
tranh tổng thể về FDI.
1. Một số dự án và số vốn đầu tư
Trong hơn 10 năm qua từ năm 1989 đến năm 2003 đã có 3660 dự án đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDT) đựợc cấp giấy phép đăng ký đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng
ký 44 tỷ USD trong đó có hơn 3000 dự án còn hiệu lực .Với tổng số vốn đăng
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ký trên 47 tỷ USD số vốn thục hiện .Đến nay đạt gần 30 tỷ USD bằng 44,5% số
vốn đăng ký, trong đó số vốn nước ngoài là 18 tỷ USD theo số liệu thống kê của
bộ kế hoạch và đầu tư, quá trình thu hút vốn và số dự án FDI qua các giai đoạn
1989-2003 đuợc thể hiện qua sơ đồ sau:
Biểu 1: Tổng số vốn đầu tư và số dự án FDI vào Việt Nam qua các
năm
1989-2003
Năm Số dự án Tổng vốn đầu tư
(Triệu USD)
Tổng số thực hiện

(Triệu USD)
1989 70 539 130
1990 111 596 220
1991 155 1388 221
1992 193 2271 398
1993 272 2987 1106
1994 362 4071 1952
1995 404 6616 2652
1996 501 9212 2371
1997 479 5548 3250
1998 260 4827 1900
1999 280 2000 1500
2000 2500 36000 18000
2001 2600 36000 20000
2002 2720 41000 25000
2003 3000 47000 30000

Nguồn: Thông tin tài chính số 1/1/2002 kinh tế dự báo số 10+11/2002 và
số 3/2003.
Qua số liệu ta dễ dàng thấy tổng số dư án cũng như tổng số vốn FDT
trong giai đoạn 1989-1996 tăng lên với tốc độ nhanh . Năm 1989 số lượng vốn
thu hút mới chỉ đạt 539 triệu USD nhưng năm 1995 đã tăng lên 6616 triệu USD
và năm 1996 đạt 9212 triệu USD . Mức tăng bình quân năm trong giai đoan này
là 50% quy mô trung từ 3,5 triệu USD năm 1988 -1990 . Lên 7,5 triệu USD
năm 1991, 7,6 triệu USD năm 1992... và 23,7 triệu USD năm 1996 . Điều đó
cho thấy thời kỳ này việc thu hút FĐI vào rất hiệu quả.
16

×