Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

CÁCH làm các DẠNG đề SO SÁNH TRONG văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.43 KB, 38 trang )

SỞ GD & ĐT VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN

CHUYÊN ĐỀ : ÔN THI ĐẠI HỌC - CAO ĐẲNG
MÔN : NGỮ VĂN

TÊN CHUYÊN ĐỀ:
CÁCH LÀM CÁC DẠNG ĐỀ SO SÁNH TRONG VĂN HỌC

NGƯỜI VIẾT: ĐỖ THỊ QUỲNH LAN
TỔ: VĂN - TD - GDCD
TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN

1


CHUYÊN ĐỀ LUYỆN THI ĐẠI HỌC : CÁCH LÀM CÁC DẠNG ĐỀ SO
SÁNH TRONG VĂN HỌC
NGƯỜI VIẾT: ĐỖ THỊ QUỲNH LAN
TỔ: VĂN - TD - GDCD
TRƯỜNG THPT BÌNH SƠN
A: MỤC ĐÍCH - YÊU CẦU
1. KIẾN THỨC
- Nắm được khái niệm, các bình diện của so sánh văn học.
- Giúp học sinh nắm được cách làm các dạng đề so sánh trong văn học.
- Biết liên hệ và vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các đề có cùng chủ đề,
nội dung, cảm hứng...từ đó khái quát được quá trình đóng góp của các nhà văn
đối với tiến trình phát triển của văn học.
- So sánh giúp học sinh biết được một phần nào, một khía cạnh nào, bản chất
một cách chi tiết, cụ thể của những sự vật, hiện tượng hay con người, nhằm đưa
ra được những nhận xét, kết luận....một cách tương đối khách quan nhất...


2. KĨ NĂNG
- Cảm thụ và phân tích tác phẩm.
- So sánh, đối chiếu, lí giải.
- Làm các dạng đề, lập dàn ý, viết bài.
3.PHƯƠNG PHÁP
- Phân tích, thuyết trình, làm việc theo nhóm, viết văn.
- Chữa các dạng đề trên lớp thông qua viết văn và làm bài tập.
2


B: NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I.Khái quát chung về so sánh.
So sánh là một kiểu bài tương đối khó đối với học sinh, đặc biệt trong những
năm gần đây Bộ Giáo Dục đã có những điều chỉnh về đổi mới phương pháp
dạy học và kiểm tra đánh giá để phân loại học sinh trong các kì thi ĐH- CĐ thì
kiểu đề này càng được sử dụng nhiều. So sánh là một kiểu bài mới, chưa được
cụ thể hóa thành một bài học riêng trong chương trình Ngữ văn bậc trung học
phổ thông, do đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng làm bài của học sinh
cũng như quá trình định hướng ôn tập cho học sinh từ phía giáo viên. Trong
những năm gần đây kiểu bài này đã xuất hiện khá nhiều trong các đề thi ĐHCĐ vì vậy để góp phần tháo gỡ những khó khăn trên, tôi xin đưa ra một số gợi
ý để cùng các em ôn tập, phục vụ cho mùa thi 2013-2014 với hi vọng học sinh
không lúng túng trong các dạng đề này.
So sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh
một hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách
toàn diện, kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Trong thực tế đời sống, so sánh trở
thành một thao tác phổ biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức,
đánh giá của con người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh.
Bản chất của so sánh : Để có thể xác định đúng kiểu bài, mục đích,
yêu cầu, đến cách thức làm bài cho dạng bài này, trước hết bạn cần phải hiểu rõ
bản chất của nó. Có một số ý kiến cho rằng so sánh văn học có thể được hiểu

theo ba lớp nghĩa khác nhau:
- Thứ nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ”.
- Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập luận bên cạnh các thao tác lập
luận khác của một bài văn như: phân tích, bác bỏ, bình luận…
3


- Thứ ba, nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết
bài nghị luận”, tức là nó cũng giống như các kiểu bài nghị luận về một đoạn
trích, tác phẩm thơ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi…nhưng chỉ
khác trong quá trình so sánh người viết phải tìm ra những điểm tương đồng,
khác biệt từ đó đi đến những đánh giá. Nhưng theo tôi so sánh đó là một thao
tác mà dựa vào đó người viết tìm thấy nét chung, nét riêng, nét độc đáo của mỗi
tác phẩm để từ đó có những đánh giá chính xác về đóng góp của tác giả, tác
phẩm đó đối với nền văn học dân tộc.
Có thể so sánh trên nhiều bình diện: đề tài, nhân vật, tình huống, cốt
truyện, chi tiết nghệ thuật… Quá trình so sánh có thể là giữa 2 tác phẩm của
cùng một tác giả, cũng có là giữa những tác phẩm của các tác giả khác nhau.
Các tác phẩm này có thể cùng hoặc không cùng một thời đại, cùng hoặc không
cùng trào lưu, trường phái văn học. Mục tiêu của dạng bài này là yêu cầu học
sinh chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó
thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác
phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của
phong cách nhà văn. So sánh văn học còn giúp học sinh rèn luyện kỹ năng tìm
hiểu nguyên nhân của sự khác nhau giữa các đối tượng nghị luận, đây là một kỹ
năng rất cần thiết nhằm tránh tính khuôn mẫu, sáo rỗng trong các bài văn của
học sinh hiện nay.
Với phân môn làm văn trong nhà trường phổ thông, so sánh là một
trong những thao tác chính của văn nghị luận bên cạnh các thao tác phân tích,
bình luận, bác bỏ… Yêu cầu của thao tác này là chỉ ra nét giống nhau và khác

nhau của các đối tượng so sánh. Vì thế, nó gắn với hai loại: so sánh tương đồng
và so sánh tương phản. Sử dụng thao tác này đòi hỏi người viết phải có kiến
thức rộng, có sự tinh nhạy và linh hoạt để gọi tên các sự vật đặt cạnh nhau.
II: Các dạng cụ thể của kiểu bài so sánh.
Từ thực tế các đề thi đại học trong những năm vừa qua, tôi nhận thấy
4


có những dạng và cấp độ so sánh sau trong một tác phẩm hoặc một chùm tác
phẩm có cùng chủ đề, đề tài. Những dạng đề này có khả năng phân loại học
sinh khá cao, đã khiến không ít học sinh lúng túng trong quá trình làm bài. Các
em rất hay nhầm sang kiểu bài phân tích hoặc khái quát được nét giống, khác
nhưng không đánh giá...
Các dạng cụ thể của so sánh.
- So sánh hai chi tiết trong hai tác phẩm: So sánh chi tiết ấm nước đầy và còn
ấm mà Từ dành chăm sóc Hộ và chi tiết bát cháo hành của Thị Nở dành cho
Chí Phèo (Đề khối D 2010 ). Dạng đề này tập trung vào một chi tiết đặc sắc của
tác phẩm nhưng có tính khái quát cao về nội dung, nghệ thuật. Các em học sinh
thường lúng túng khi phân tích lí giải những chi tiết cô đọng đó.
- So sánh hai đoạn thơ trong hai bài: Tây Tiến của Quang Dũng và Tiếng hát
con tàu của Chế Lan Viên (Đề khối C 2008). Đây là dạng bài khó vì đòi hỏi
khả năng cảm thụ tốt, khái quát cao. Nếu không chú ý học sinh sẽ nhầm sang
phân tích đơn thuần.
- So sánh hai đoạn văn trong hai bài kí: Người lái đò sông Đà của Nguyễn
Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường (Đề khối C
2010). Đây là những đoạn văn tiêu biểu vì vậy học sinh phải nắm được tổng
thể.
- So sánh hai nhân vật : người vợ nhặt trong Vợ nhặt của Kim Lân và người
đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- Ngoài ra học sinh có thể gặp các dạng đề khác của so sánh văn học như

trào lưu, khuynh hướng, sự thay đổi phong cách của các nhà văn...
- Đây cũng là những vấn đề quan trọng trong một tác phẩm văn học, đòi
hỏi người học phải có kiến thức kĩ năng vững chắc về một tác giả, tác phẩm
hoặc một chùm tác phẩm mới giải quyết được.

5


III: Quy trình và cách thức thực hiện kiểu bài so sánh
a. Quy trình
Quy trình thực hiện kiểu bài so sánh có thể phân lập theo các bước sau. Đề bao
giờ cũng đưa ra các đối tượng để so sánh: hai đoạn thơ, hai đoạn văn, hai nhân
vật, hai chi tiết…Vì vậy học sinh có thể làm theo các bước sau:
- Mở bài:
Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, vấn đề cần so sánh ( nên đi từ
những điểm tương đồng của hai vấn đề được so sánh để bài chặt chẽ).
- Thân bài:
+ Phân tích đối tượng thứ nhất.
+ Phân tích đối tượng thứ hai.
+ Tìm điểm tương đồng, khác biệt.
+ Lí giải nguyên nhân ( dựa vào hoàn cảnh sáng tác, phong cách
riêng của tác giả)
+ Đánh giá đóng góp của nhà văn và tác phẩm đó đối với tiến trình
phát triển của văn học (Tùy thuộc vào khả năng của học sinh và kiểu đề áp
dụng linh hoạt phần này)
- Kết luận:
Khẳng định lại vấn đề cần so sánh, mở rộng liên hệ...
*Chú ý khi làm dạng đề này.
- Trước hết, cần phân lập đối tượng thành nhiều bình diện để đối sánh.
Bước này nhằm phát huy trí tuệ sắc sảo và mĩ cảm của học sinh. Trên đại thể,

hai bình diện bao trùm là nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Tùy từng
đối tượng được yêu cầu so sánh mà có cách chia tách ra các khía cạnh nhỏ khác
6


nhau từ ngôn từ, hình ảnh, chi tiết, kết cấu, âm hưởng, giọng điệu đến đề tài,
chủ đề, tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật.
- Sau đó cần nhận xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau.
Bước này đòi hỏi học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiện chính xác
và diễn đạt thật nổi bật, rõ nét, tránh nói chung chung, mơ hồ.
- Cuối cùng là đánh giá, nhận xét và lí giải nguyên nhân của sự giống và
khác nhau đó. Bước này đòi hỏi những tiêu chuẩn chắc chắn và bản lĩnh vững
vàng cùng những hiểu biết sâu sắc ngoài văn bản để tránh những suy diễn tùy
tiện, chủ quan, thiếu sức thuyết phục.
b. Cách thức
Cách trình bày kiểu bài so sánh thông thường có hai cách là nối tiếp và song
song. Nối tiếp là lần lượt phân tích từng đối tượng sau đó chỉ ra cái giống và
khác nhau . Cách này dễ làm nhưng khó hay, nhiều khi trùng lặp ý và sắc thái
so sánh bị chìm. Tuy nhiên, vì yêu cầu cho đại trà nên đáp án đại học những
năm qua thường gợi ý theo cách này.
Thứ hai là song song tức là song hành so sánh trên mọi bình diện của hai đối
tượng. Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lô gích.
IV: Hướng dẫn làm các đề so sánh.
Đề 1: : Cảm nhận của anh/chị về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật
người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài
(Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu).
Mở bài.
Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm.
7



- Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê,
ông có sở trường về truyện ngắn, truyện của ông luôn đi về với thuần hậu
nguyên thủy, với người, với đất, với phong tục tập quán. Vợ nhặt là truyện ngắn
xuất sắc, viết về tình huống "nhặt vợ" độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh
liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị trong nạn đói thê thảm.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên
phong thời đổi mới. Hướng văn chương vào cảm hứng thế sự đời tư , quan tâm
tới đời sống nhọc nhằn của người lao động Chiếc thuyền ngoài xa là truyện
ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống
đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi
lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Thân bài
1.Phân tích người vựo nhặt.
Nhân vật người vợ nhặt.
- Đây là nhân vật mang trong mình vẻ đẹp khuất lấp, qua nhân vật tác giả
gửi gắm thông điệp của cuộc sống. Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng
người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật
này được khắc hoạ sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban
đầu và về sau. Để rồi vẻ đẹp đó dần lộ ra, hấp dẫn người đọc như xem một bộ
phim chứa chan tình cảm: tình người, tình mẫu tử, khát vọng vươn lên cuộc
sống bèo bọt....
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt. Vì sự
sống mà Thị bỏ hết tự trọng theo không Tràng mà không cần cưới hỏi, tạo lập
một gia đình trong nạn đói...
8



+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ. Lễ phép với
bà cụ Tứ, e dè khi đối diện với mẹ, cùng bà vun đắp cho tổ ấm gia đình...
+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng
mực, biết lo toan. Sau đêm tân hôn Thị trở về dịu dàng đảm đang, tình yêu chân
chính, khát vọng hạnh phúc gia đình khiến con người ta thay đổi...
- Thị cùng với các nhân vật khác là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của Kim
Lân: trong cái đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống...
2. Phân tích người đàn bà hàng chài.
Nhân vật người đàn bà hàng chài.
- Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác
phẩm. Nhân vật này được khắc hoạ sắc nét, theo lối tương phản giữa bề ngoài
và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Qua đó giúp người đọc thấy được
hạt ngọc ẩn chứa trong tâm hồn người lao động mà nhà văn Nguyễn Minh
Châu suốt đời đi tìm.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ
lượng, giàu đức hi sinh. Đó là lòng bao dung, thấu hiểu với lão chồng vũ phu,
đó là tình mẫu tử cao đẹp, sẵn sàng hi sinh vì hạnh phúc của con cái...
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc,
can đảm, cứng cỏi. Cố gồng mình lên để giữ cho các con một mái ấm gia
9


đình...
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ
đời. Chính mụ đã dạy cho Đẩu, Phùng những bài học về lẽ làm người, về cuộc
sống vất vả mà nếu chỉ xem trên sách vở sẽ không có những trải nghiệm thật
sự. Vì vậy trong đầu họ mới vỡ lẽ ra nhiều điều...để từ đó nhận ra rằng nghệ
thuật không được xa rời cuộc sống, luật pháp phải gắn với tình người...
3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng.

So sánh nét tương đồng, khác biệt
- Tương đồng:
+ Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh.
+ Cả hai đều có ngoại hình xấu xí, nhưng ẩn bên trong là hạt ngọc tâm hồn
đẹp đẽ. Đó mà điều mà các nhà văn đã rất trân trọng ở con người lao động.
+ Cả hai đều được khắc hoạ bằng những chi tiết chân thực...
+ Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, khát vọng vươn lên thường trực
trong họ.
- Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là
những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị
hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm.
Vẻ đẹp được khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của
một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính,
trong tình trạng bạo lực gia đình...
4. Lý giải sự khác biệt.
10


+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến
đổi từ thấp đến cao(cảm hứng lãng mạn), thể hiện cách nhìn của Kim Lân về
hiện thực cuộc sống trước cách mạng.
+ Người đàn bà chài lưới lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối
đang tồn tại (cảm hứng thế sự - đời tư ). Nét khác biệt trong cách khai thác của
nhà văn thể hiện cái tôi tài hoa của người nghệ sĩ.
+ Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con
người đa dạng, phức tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này
Kết bài
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Đề 2: So sánh vẻ đẹp của hai nhân vật Tràng trong tác phẩm vợ nhặt, A

Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
Mở bài.
Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm.
Thân bài.
- Khái quát chung về hai đối tượng so sánh (Phân ích các đối tượng so sánh).
- So sánh.
- Điểm giống:

11


+Tràng, A Phủ, đều là những người nông dân nghèo, thật thà, chất phác,
giản dị, nuôi sống bản thân và gia đình bằng bàn tay lao động của mình. Tràng
dân ngụ cư làm nghề đẩy xe thuê, mẹ già cả...A Phủ là tôi tớ nhà thống lí,
không mẹ cha, gia đình....Họ đều phải kiếm sống bằng sức lao động của mình.
+ Họ là những người cùng cảnh ngộ,đều là nạn nhân của hoàn cảnh đói
khát, bị bóc lột, đè nén.
A Phủ từ nơi khác lưu lạc đến Hồng Ngài, làm thuê, làm mướn.
Tràng bị dồn đuổi bởi cái đói dừng chân, dựng nhà ở cuối xóm ngụ cư,
bên mé bờ sông.
-> Cuộc sống của họ bấp bênh; do hoàn cảnh, do nghèo khó nên họ khó
có thể lấy được vợ, có được vợ.
+ Bị đè nén bởi tư tưởng cai trị của giai cấp thống trị:
. Tràng không dám cướp thóc bỏ trốn khi có cơ hội.
. A Phủ không bước qua khỏi lời nguyền, trở thành kẻ ở gạt nợ cho thống
lí Pá Tra; nhẫn nhục chịu đựng như con trâu, con ngựa.
+ Giàu ước mơ và khát vọng về hạnh phúc và mái ấm gia đình.
. Tràng vượt lên mọi hoàn cảnh khổ cực của bản thân; Tăm tối của cuộc
sống để đến với hạnh phúc, đến với mái ấm gia đình, với thiên chức làm người

cao cả "Trong một lúc Tràng như quên những cảnh sống ê chề tăm tối hàng
ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa với
người đàn bà đi bên". Tràng xôn xao, phấn khởi, sung sướng với hạnh phúc của
đời mình. Khi cái đói đeo bám, cái chết đe doạ, Tràng vẫn không thôi nâng đỡ,
tôn vinh những giá trị cao cả của cuộc sống.
. A Phủ: Dù khó lấy được vợ vì quá nghèo nhưng cái nghèo không kìm
nén được bước chân của những con người biết tự mình vượt lên khỏi hoàn cảnh
để được sống đúng ý nghĩa của cuộc sống. A Phủ cùng đám bạn rong ruổi theo
12


những cuộc chơi khi mùa xuân về. Cùng thổi kèn thổi sáo; cùng réo rắt những
bản tình ca gọi bạn đi chơi…Khi bị trói, nhận thức được cảnh ngộ của mình A
Phủ đã khóc. Giọt nước mắt của sự cam chịu, bất lực, đồng thời cũng là giọt
nước mắt khóc cho những ước vọng không thành, giọt nước của cuộc đời từ
đây vĩnh biệt….Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ khuỵ xuống, nhưng rồi khát
vọng sống lại khiến anh quất sức, vùng lên chạy. Đó là sự tiếp sức của lòng
ham sống của, của khát vọng tự do
+ Đều hướng về ánh sáng cách mạng:
. CM đã soi đường chỉ lối cho A Phủ, đến Phiềng Sa, A Phủ trở thành
một anh du kích dũng cảm, kiên cường . Anh có được tự do, hạnh phúc.
. Tràng chưa trở thành một anh du kích nhưng cuối tác phẩm tronh óc
anh đã nghĩ tới đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Tác giả đã
gieo hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, nhất định ngày mai trong
đoàn quân của những người đói kéo nhau đi trên đê Sộp sẽ có Tràng, bà cụ tứ
và thị họ sẽ thoát khỏi đói nghèo và cuộ sống nô lệ.
- Điểm khác:
+ Trong Vợ nhặt Tràng là nhân vật chính còn trong đoạn trích học Vợ
chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ.
+ Tràng là anh nông dân nghèo trong nạn đói 1945 ở miền xuôi dưới sự cai

trị trực tiếp của bọn thực dân, phát xít. A Phủ là người dân lao động miền núi,
sống dưới sự cai trị của bọn chúa đất phong kiến, chúng lợi dụng cường quyền
và thần quyền để biến những người dân nghèo thành nôlệ không công cho
chúng, hết đời này sang đời khác.
+ Tràng được tác giả tập trung khắc hoạ bởi những diễn biến tâm lí phức
tạp còn A Phủ lại được nhà văn Tô Hoài miêu tả bằng những hành động cụ thể,
sinh động.
-Lý giải sự khác biệt.
13


+ Hai tác phẩm này đều viết vào những thời kì nhạy cảm của đất nước, nhưng
các tác giả đều cảm nhận được luồng gió cách mạng.
+ Tài năng và phong cách nghệ thuật của các tác giả khi đi viết về vẻ đẹp của
người lao động, tạo nên những đóng góp sâu sắc cho văn xuôi hiện đại Việt
Nam.

Đề 3: So sánh nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân và Vũ Như Tô trong tác phẩm Vĩnh biệt cửu trùng đài của
Nguyễn Huy Tưởng.
Mở bài.
Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm.
Thân bài.
- Khái quát chung về hai đối tượng so sánh.
- So sánh.
* Điểm giống nhau giữa Huấn Cao và Vũ Như Tô.
- Đều là người nghệ sĩ có tài năng, tâm huyết, tạo ra cái đẹp, khát vọng
cống hiến cái đẹp cho đời, có khí phách, ngạo nghễ trước cường quyền, bạo
lực...Huấn Cao viết chữ thể hiện khát vọng tung hoành một đời con người, cái

đẹp của ông đã cảm hóa con người...Vũ Như Tô sáng tạo cái đẹp để tranh tinh
xảo với góa công...
- Đều có số phận bi kịch : tài năng không được trọng dụng, nâng niu ,trong
14


xã hội bấy giờ, cái đẹp bị vùi dập trong xã hội phong kiến thối nát , suy vi. Vì
vậy đây có thể được xem là những nhân vật bi kịch trong văn học. Nguyên
nhân của cái chết đều xuất phát từ xã hội phong kiến suy vi, sấm sét phong trào
khởi nghĩa của nhân dân nổ ra nhiều nơi.
- Đều là những nhân vật kết tinh cho tài năng và tâm huyết của nhà văn.
Qua nhân vật các tác giả muốn gửi thông điệp cuộc sống tới bạn đọc...
- Cả hai đều mang trong mình hoài bão, khát vọng chính đáng của người
nghệ sĩ chân chính, tạo cái đẹp cho cuộc đời...
- Qua 2 nhân vật, Nguyễn tuân và Nguyễn Huy Tưởng đều gửi gắm quan
niệm nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc:
+ Nguyễn Tuân với quan niệm thẩm mĩ :cái đẹp luôn chiến thắng bất diệt,
đi liền với cái thiện. Nó cảm hóa thanh lọc tâm hồn con người. Tác giả gửi gắm
phương châm sáng tạo nghệ thuật phỉa là sự thăng hoa của cái tài và tâm.
+ Nguyễn Huy Tưởng đặt ra vấn đề giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa
khát vọng của người nghệ sĩ và khát vọng của nhân dân từ đó khẳng định nghệ
thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống vì con người. người nghệ sĩ phải
đặt lòng mình giữa cuộc đời. Nếu xa rời cuộc đời nghệ thuật không có chỗ
đứng.
* Điểm khác nhau giữa hai nhân vật này :
- Tài năng:
+ Huấn Cao là người nghệ sĩ trong nghệ thuật viết thư pháp " nét chữ
vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người
" Huấn Cao là người có thiên lương trong sáng, một anh hùng nghĩa hiệp, có
khí phách hiên ngang. Vì quyền lợi của nhân dân mà ông bất chấp cả tính mạng

cam chịu là kẻ " phản nghịch", lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại
triều đình phong kiến bất công. Có thể nói đây là nhân vật đẹp trong đời văn
Nguyễn Tuân “ phú quý bất đăng dâm, bần tiện bất đăng di, uy vũ bất đăng
15


khuất”. Tài và tâm luôn đi với nhau để tỏa sáng.
+ Vũ Như Tô là người nghệ sĩ với khát vọng xây được công trình lớn,
tuyệt mĩ tô điểm cho đất nước, tranh tinh xảo với hóa công, xây Cửu Trùng
Đài. Nhưng ông chỉ chú ý đến cái đẹp đơn thuần của nghệ thuật mà không chú
ý đến đời sống nhân dân. Nghệ thuật xa rời quần chúng “ nghệ thuật vị nghệ
thuật”
- Nhận thức:
+ Huấn cao sáng tạo cái đẹp do cảm hóa trước tấm lòng" biệt nhỡn
liên tài" của quản ngục. Tài năng, khát vọng, hoài bão của ông gắn liền với lợi
ích của nhân dân, vì cuộc sống ấm no của nhân dân. Huấn cao chiến đấu lật đổ
triều đình phong kiến giúp nhân dân khỏi cảnh khổ đau, nghèo đói, chết chóc.
Cái đẹp của Huấn Cao cứu vớt linh hồn, khiến cho con người ta thấy được gột
rửa tâm hồn và trở nên thánh thiện...
+ Bẵng việc thực hiện khát vọng của mình mà Vũ Như Tô đã vô tình
đẩy nhân dân vào cảnh cùng đường bế tắc, loạn lạc, khổ đau, khiến nhân dân
oán hận, phá hủy cửu trùng đài. Đến chết ông vẫn không hiểu mình có tội gì...
- Cái đẹp:
+ Huấn Cao tạo ra cái đẹp ngay trong ngục tù tăm tối, nó trào đời, hạ
sinh trong thế giới của tội ác. cái đẹp nâng đỡ, cảm hóa, thanh lọc tâm hồn con
người ( quản ngục ).Cái đẹp do Huấn cao tạo ra được nảy sinh và nâng niu trân
trọng bởi nhân dân.
+ cái đẹp do Vũ Như Tô bi hủy diệt bởi nhân dân , Cửu Trùng Đài bị
đốt cháy. Cái đẹp do ông tạo ra bởi mồ hôi, nước mắt, xương máu của người
dân vô tội, đi ngược với lợi ích của nhân dân, bởi vậy dù nó xuất phát từ khát

vọng chính đáng song nhân dân vẫn nhìn nhận đó là nguyên nhân của nỗi khổ.
- Bi kịch cái chết:
+ Huấn Cao chết là sự hi sinh của người anh hùng được nhân dân
kính trọng, ngưỡng mộ, thương xót. Trước giây phút ra pháp trường ông vẫn
sáng tạo cái đẹp,một con người rất mực tài hoa, coi thường cái chết. Đối với
16


nhân dân, ông là người anh hùng, vị cứu tinh của họ.
+ Vũ Như Tô chết dưới lưỡi dao của nhân dân bởi họ cho rằng ông
với ciệc xây Cửu trùng Đài là nguyên nhân dẫn đến cảnh cơ cực, lầm than
trong thiên hạ. Họ trách móc, oán thán, căm ghét ông. Đối với nhân dân, ông là
một tội nhân. Vũ Như Tô đắm mình trong niềm đam mê nghệ thuật hơi mù
quáng, ảo vọng xa rời thực tế,cuộc sống của nhân dân.
* Lí giải:
- Hoàn cảnh xã hội.
- Tác giả, phong cách nghệ thuật.
- Ý thức hệ thời đại....
Kết luận
- khái quát lại vấn đề.
- Liên hệ mở rộng.
Đề 4: So sánh cách kết thúc của hai tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lânvà Chí
phèo của Nam Cao.
Mở bài
Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
Giới thiệu khái quát về hai cách kết thúc tác phẩm.
- Nam Cao và Kim Lân là hai trong những cây bút hiện thực xuất sắc
trong đời sống văn học hiện đại Việt Nam, đều viết thành công về đề tài người
nông dân.
- Chí Phèo và Vợ nhặt là hai thiên truyện khắc họa tình trạng thê thảm

của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên kết quả cuối cùng
17


có những bước ngoặc khác nhau: Một bên là những ám ảnh đen tối; một bên là
hình ảnh gợi nhiều hy vọng.
Thân bài
Khái quát cách kết thúc tác phẩm Chí Phèo
Cảm nhận hình ảnh “cái lò gạch bỏ không” qua sự ám ảnh của thị Nở
trong truyện ngắn Chí Phèo.
- Khái quát nội dung tác phẩm Chí Phèo.
- Tóm tắt cuộc đời đầy bi kịch của người nông dân Chí Phèo
- Ý nghĩa hình ảnh “cái lò gạch cũ” không người qua lại.
+ Nỗi ám ảnh về sự đen tối và bế tắc của người nông dân trong xã hội
bất công khi chưa có ánh sáng cách mạng. Ở đó tình trạng người nông dân bị
bọn cường hào ác bá đẩy vào “bước đường cùng”. Người nông dân lương thiện
bị bỏ rơi như đứa bé từng bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ. Nếu xã hội vẫn còn
những người như Bá Kiến chắc chắn sẽ có những Chí Phèo.
+ Nông thôn Việt Nam ngày ấy tan hoang chẳng khác gì cái lò gạch
bị bỏ hoang....Hiện thực đó có ý nghĩa tố cáo sâu sắc xã hội thực dân nửa
phong kiến trước đã tiếp tay cho bọn ác bá giày xéo nông dân.
+ Thể hiện cái nhìn xót xa của nhà văn đối với tương lai đen tối của
người nông dân. Đó là chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc
Cảm nhận hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”
thoáng hiện qua tâm trí nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
- Khái quát nội dung tác phẩm “Vợ nhặt”
- Tóm tắt về cuộc đời nhân vật Tràng.
- Ý nghĩa “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”
+ “đám người đói” vẫn đang là hiện thực xã hội Việt Nam trước cách
mạng.

18


+ “lá cờ đỏ bay phấp phới” gợi ra một thứ ánh sáng cao đẹp là cách
mạng sẽ xua tan bóng tối của hiện thực đói khát ấy.
+ Vượt qua hiện thực đen tối của nạn đói, nhân vật có cái nhìn tin
tưởng về phía tương lai.
+ Thông điệp ngợi ca cách mạng, bởi chỉ có cách mạng mới có thể
mang đưa nhân dân đến bến bờ tươi sáng.
So sánh
a. Điểm tương đồng.
- Truyện ngắn “Chí phèo” của Nam Cao và “Vợ nhặt” của Kim Lân đều
thể hiện ánh nhìn nhân đạo của hai nhà văn đối với đời sống, những mảnh đời
bất hạnh trong xã hội cũ. Đó là sự trân trọng khát vọng ước mơ, niềm tin...
- Cả hai thiên truyện đều mang ý nghĩa tố cáo sâu sắc xã hội thực dân,
phong kiến, phát xít.
- Cả hai nhà văn đều thể hiện tài năng trong sáng tạo nghệ thuật. Đây là
hai kết thúc mang tính dự báo cho xã hội lúc bấy giờ...
b. Điểm khác biệt:
Hai chi tiết, hai tác phẩm đã ra đời trong hai giai đoạn khác nhau của văn học:
trước và sau Cách mạng tháng Tám. Hai hình ảnh mang hai ý nghĩa khác nhau:
+ Người nông dân trong truyện ngắn Chí Phèo hoàn toàn bế tắc vì không được
cách mạng soi sáng.
+ Người nông dân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” dạt dào niềm tin vào tương lai
vì có hình ảnh cách mạng xuất hiện.
+ Bút pháp: Nam Cao viết theo khuynh hướng hiện thực phê phán; Kim Lân
viết theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa.
- Lí giải.
+ Hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ.


19


+ Tư tưởng của nhà văn....
Kết luận
- Khái quát lại vấn đề.
- Khắc họa chân thực, sinh động đời sống đáng thương của nhân dân ta.
Đề 5: Nước mắt là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong sáng tác của Nam
Cao. Trong truyện ngắn “Chí Phèo”, “Đời thừa” nhà văn viết:
“Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn
ướt.”
“Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi chào hành. Hắn
ôm mặt khóc rưng rức.”
( Trích “Chí Phèo”, Sách Ngữ văn 11 nâng cao, NXB GD tr 2010,183
-186)
“ Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh.
Và hắn khóc . . . Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể
không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lây cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực
mình mà khóc.”
( Trích “Đời thừa” , Sách Ngữ văn 11 nâng cao, NXB GD 2010, tr 207)
So sánh hai chi tiết nghệ thuật trên?
Mở bài.
- Khái quát về tác giả và hai chi tiết.
- Nam Cao là một cây bút hiện thực xuất sắc với những trang viết
độc đáo, những tìm tòi mới mẻ. Truyện ngắn"Đời thừa" và "Chí Phèo" là hai
sáng tác tiêu biểu của Nam Cao trước Cách mạng. Đọc "Đời thừa" và "Chí
Phèo"hẳn người đọc không quên hai nhân vật Hộ và Chí Phèo, đặc biệt là chi
tiết tiếng khóc của họ ở cuối truyện.
Thân bài.
20



- Chi tiết nghệ thuật giống như một lát cắt của thân gỗ mà nhìn vào
đó ta thấy cả một đời thảo mộc. Trong tác phẩm văn học là "những tiểu tiết có
sức chứa lớn về nội dung tư tưởng và cảm xúc". Hình tượng nghệ thuật trong
tác phẩm có sống động được hay không là nhờ các chi tiết. Ý kiến của chi tiết
là ở chỗ "sao cho cái vặt vãnh trở nên lấp lánh trước mắt người đọc". Chi tiết
tiếng khóc của hai nhân vật Hộ và Chí Phèo là một chi tiết nghệ thuật như thế !
- Nước mắt là một sản phẩm cụ thể của tình cảm. Khi người ta rơi
vào một cảnh huống, một trạng thái nào đó thì dễ nảy sinh tâm trạng, mà đỉnh
cao của trạng thái tình cảm thường biểu lộ bằng những giọt nước mắt. Có giọt
nước mắt sung sướng, có giọt nước mắt ân hận, có giọt nước mắt đau đớn, xót
xa,...Giọt nước mắt của Hộ và Chí Phèo là nỗi đau đớn xót xa hay niềm hạnh
phúc ? Nguyên nhân nào dẫn đến tiếng khóc ấy của hai nhân vật ? Nam Cao đã
dẫn giải một cách hợp lí.
- Với Hộ, tiếng khóc của anh bật ra sau hai tấn bi kịch lớn trong cuộc
đời : bi kịch sống thừa và bi kịch tình thương. Hộ đã từng là một nhà văn say
mê lí tưởng nghề nghiệp, có ước mơ hoài bão cao đẹp, Hộ khinh những lo lắng
tủn mủn về vật chất, Hộ chỉ chăm lo vun trồng cho cái tài năng của Hộ ngày
một nảy nở. nhưng ước mơ hoài bão của Hộ không thực hiện được vì một lực
cản tầm thường song ghê gớm, gánh nặng cơm áo gia đình. Để chăm lo cho
cuộc sống gia đình, Hộ phải viết những cuốn sách vội vàng khiến người ta đọc
rồi lại quên ngay sau khi đọc, còn bản thân Hộ mỗi lần đọc lại anh cũng tự thấy
xấu hổ, dằn vặt mình. Anh không đem đến cho văn chương được cái gì mới mẻ,
cũng không thay đổi được cuộc sống gia đình, như thế, anh là một kẻ vô ích,
một đời thừa. Trước mắt Hộ có một con đường giải thoát, thoát li vợ con để
thực hiện giấc mộng văn chương, nhưng Hộ không thể bỏ được tình thương, vì
anh vẫn là con người. không thể thoát li vợ con, song Hộ lại đau khổ ngấm
ngầm. Hộ điên người lên vì con khóc, điên người lên vì phải xoay tiền. trong
lúc bế tắc, Hộ đã tìm đến rượu. nhưng rượu không giúp anh tháo gỡ được tình

21


trạng bi kịch còn dấn anh lấn sâu vào bi kịch thứ hai : vi phạm lẽ sống tình
thương. trong lúc say, Hộ đã đánh vợ, đuổi vợ ra khỏi nhà. Tỉnh rượu, Hộ đã
khóc "Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh.
Và hắn khóc...Ôi chao ! Hắn khóc ! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra
tiếng khóc".
- Với Chí Phèo, tiếng khóc của Chí bật ra sau một bi kịch lớn của cuộc
đời: bi kịch bị từ chối quyền làm người. Trước khi gặp thị Nở, Chí đã từng là
con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, chửi trong
lúc say. Trên mặt Chí lằn ngang lằn dọc bao nhiêu vết sẹo, kết quả của những
lần rạch mặt ăn vạ; cái mặt của Chí vàng vàng mà lại sạm màu gio, cái mặt của
một con quỷ dữ. Chí trở thành nỗi kinh hoàng, sự ám ảnh của dân làng Vũ Đại.
Cả làng Vũ Đại không ai dám giao tiếp với Chí, họ từ chối Chí. Thế nhưng từ
chỗ khuất lấp của cuộc đời, có một người đàn bà "ma chê quỷ hờn" đã sưởi ấm
tâm hồn Giá lạnh của Chí bằng chút tình thương mộc mạc, chân thành. Cuộc
gặp gỡ kì diệu, đặc biệt là sự chăm sóc đầy ân tình của thị Nở đã đánh thức
nhân tính và khát vọng lương thiện đã bị ngủ quên từ lâu của Chí Phèo. Chí và
thị sẽ làm thành một cặp xứng đôi nếu như thị là một người bình thường. nhưng
thị lại là người đàn bà dở hơi, thị đã từ chối Chí. Sự từ chối của thị Nở đã đẩy
Chí rơi vào một nỗi đau sâu thẳm trong cuộc đời. Như một thông lệ, Chí đã tìm
đến với rượu, Chí muốn uống cho thật say để quên đi nỗi đau trong đời. nhưng
Chí càng uống càng tỉnh, càng tỉnh, Chí lại thấy hơi cháo hành thoang thoảng,
Chí "ôm mặt khóc rưng rức".
- Hai tiếng khóc của hai con người, ở hai hoàn cảnh khác nhau nhưng
đều biểu hiện thấm thía nỗi đau thân phận khi trải qua những tấn bi kịch trong
cuộc đời. Hộ khóc sau khi đã có hành vi thô bạo với vợ con; Chí Phèo khóc sau
khi bị thị Nở từ chối. nhưng sắc thái ý nghĩa của mỗi tiếng khóc không hoàn
toàn giống nhau. Tiếng khóc của Hộ là tiếng khóc của một người trí thức tiểu

tư sản có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn cống hiến bằng sự lao động sáng tạo
22


của chính mình mà phải sống "đời thừa", một người coi tình thương là nguyên
tắc xác định tư cách làm người nhưng lại vi phạm vào lẽ sống tình thương. Bao
nhiêu đau đớn, bao nhiêu hối hận dồn nén lại ở Hộ để rồi bật lên thành tiếng
khóc. Tiếng khóc nức nở, tiếng khóc bật ra như quả chanh người ta bóp
mạnh của Hộ cho ta thấy sự hối hận và đau khổ lên đến tột cùng của người trí
thức tiểu tư sản nghèo có nhân cách. Giọt nước mắt ấy đã nâng đỡ Hộ, thanh
lọc tâm hồn anh, giúp anh đứng vững trên bờ vực thẳm của sự tha hoá.
- Hộ cũng ân hận, song lớn hơn sự ân hận ấy là sự thành thực trước lỗi
lầm của mình "Anh... anh... chỉ là... một thằng... khốn nạn!...". Sự thành thực
với chính mình là một nhân cách rất đáng trân trọng ở người trí thức tiểu tư sản
trong sáng tác của Nam Cao.
- Nếu tiếng khóc của Hộ là tiếng khóc của một người trí thức ân hận về
những hành vi thô bạo của mình đối với vợ con thì tiếng khóc của Chí Phèo là
tiếng khóc của một người cố nông nghèo bị tha hoá, bị tước đoạt quyền làm
người. Nam Cao gói gọn nỗi đau trong tâm hồn Chí bằng ba chữ "khóc rưng
rức". Bao nhiêu tủi hờn dồn nén lại để rồi bật lên thành tiếng khóc cho sự oan
trái, sự thua thiệt của một người sinh ra là người mà lại không có quyền sống
của một con người. Tiếng khóc của Chí chính là sự ý thức đầy đủ nhất về bi
kịch bị cự tuyệt quyền làm người của anh. Có hiểu ước mơ hạnh phúc chân
thành của Chí "Hay là mình sang ở mới tớ một nhà cho vui", ta mới thấu hiểu
được tiếng khóc đau đớn của một người bị phụ tình. Tiếng khóc của Chí gợi
cho ta nhớ đến tiếng khóc hu hu của lão Hạc khi lão chót lừa một con chó,
tiếng khóc nức nở, khóc như người ta thổ ra nước mắt của dì Hảo khi người
chồng bỏ dì bơ vơ trong lúc ốm đau để đi tìm cơm rượu. Mỗi tiếng khóc là một
nỗi đau, nhưng tiếng khóc của Chí không chỉ có nỗi đau mà còn có cả sự cay
đắng, tủi nhục.


23


- Cũng như ở truyện ngắn "Đời thừa", trong "Chí Phèo", Nam Cao đã hoá
thân vào nhân vật, sống với nhân vật để miêu tả nỗi đau đến tột cùng của nhân
vật. Chỉ là một tiếng khóc, nhưng trong tiếng khóc ấy ta thấy một nỗi niềm,
một số phận, một cuộc đời của nhân vật. Tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ
là như thế ! Ẩn sau tiếng khóc của nhân vật là niềm cảm thông, thương xót của
nhà văn đối với người trí thức tiểu tư sản nghèo, người nông dân lao động
nghèo. Và lớn hơn niềm thương cảm là sự phát hiện những phẩm chất tốt đẹp
của họ trong hoàn cảnh bế tắc. Đối với Hộ là sự vươn lên để giữ vững lẽ sống
nhân đạo; đối với Chí Phèo là khát vọng hạnh phúc, khát vọng lương thiện.
Điều đó tạo nên chiều sâu nhân đạo mới mẻ trong sáng tác của Nam Cao.
- Nước mắt là giọt châu của loài người, là tấm kính biến hình vũ trụ để cho
nhân vật giải toả nỗi đau, sự bi phẫn đến cùng cực. nhưng nước mắt vẫn chỉ là
nước mắt. Do vậy, nhân vật của Nam Cao vẫn rơi vào bế tắc. Hộ không giải
quyết được bi kịch gia đình; Chí Phèo phải tìm đến cái chết sau khi đã giết
được kẻ thù của mình. Cần phải có thời gian, có ánh sáng của Đảng soi rọi,
người trí thức tiểu tư sản và người nông dân nghèo của Nam Cao mới có thể
thay đổi cuộc đời của họ.
- Như vậy, từ một chi tiết nghệ thuật, Nam Cao đã lí giải sâu sắc nỗi đau
trong tâm hồn nhân vật; đánh dấu quá trình thức tỉnh của nhân vật, đồng thời
thể hiện tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn về đề tài trí thức tiểu tư sản và
người nông dân nghèo.
- Có thể nói, chi tiết tiếng khóc của hai nhân vật Hộ và Chí Phèo là một chi
tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa. Nó chẳng những làm cho hình tượng nghệ thuật trở
nên sống động mà còn góp phần làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
Với chi tiết tiếng khóc nhân vật Hộ và Chí Phèo, Nam Cao đã đem đến cho văn
học Việt Nam 1930-1945 một tiếng nói nhân văn sâu sắc, khẳng định tài năng

nghệ thuật của người nghệ sĩ trong việc mô tả và phân tích tâm lý nhân vật.
24


Đề 6: Tương quan ánh sáng và bóng tối trong hai tác phẩm chữ người tử
tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Mở bài.
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh : Bóng tối và ánh sáng
trong hai tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Thân bài.
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất:
- Hình tượng bóng tối trong Hai đứa trẻ: diễn tả sự tù đọng, bế tắc, ngột
ngạt, nghèo đói, không lối thoát của những con người trong ao đời bằng phẳng.
- Hình tượng ánh sáng: nhỏ nhoi, yếu ớt, tàn lụi, hột sáng, đốm sáng,
chấm sáng… biểu trưng cho một cuộc sống lạc hậu, tù đọng không biết đến
ngày mai là gì.
2 Làm rõ đối tượng thứ hai:
- Hình tượng bóng tối trong Chữ người tử tù: sự tàn bạo, dơ bẩn của xã
hội phong kiến suy đồi. Sự xấu xa của cái đê tiện cái thấp hèn.
- Hình tượng ánh sáng: biểu tượng cho cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiên
Lương trong sáng của con người. Cái đẹp bao giờ cũng chiến thắng.
3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình
diện nội dung và hình thức nghệ thuật:
-Tương đồng:
+ Đều sử dụng bóng tối và ánh sáng để tạo ý đồ riêng cho sáng tạo nghệ
thuật. Làm bật lên vẻ đẹp của nhân vật và khát vọng vươn lên...

25



×