Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

HOẠT ĐỘNG và VAI TRÒ của NGUYỄN ái QUỐC hồ CHÍ MINH đối với CÁCH MẠNG VIỆT NAM từ năm 1911 đến năm 1969

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.15 KB, 20 trang )

SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT ĐỘI CẤN

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC - CAO ĐẲNG
MÔN LỊCH SỬ
TÊN CHUYÊN ĐỀ

HOẠT ĐỘNG VÀ VAI TRÒ CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH ĐỐI
VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM
1911 ĐẾN NĂM 1969
Đối tượng bồi dưỡng: Học sinh lớp 12
Số tiết : 08

Người viết: VŨ THỊ NHUNG
Chức vụ:
Giáo viên
Trường : THPT ĐỘI CẤN

Vĩnh Tường tháng 3 - 2014
1


HOẠT ĐỘNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM
1911 ĐẾN NĂM 1969
A. MỤC TIÊU CỦA CHUYÊN ĐỀ
1. Về kiến thức
- Bác Hồ - vị cha già của dân tộc. Cả cuộc đời 79 mùa xuân của mình, Người đã
cống hiến trọn đời cho dân tộc Việt Nam. Công lao của Người đối với dân tộc
không thể nào kể hết “Đố ai đếm đủ vì sao. Đố ai đếm được công lao Bác Hồ”.
Quá trình hoạt động và vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách


mạng Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng rất hay được đề cập tới
trong các kì thi Đại học, Cao đẳng. Tuy nhiên, kiến thức cơ bản về Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh không được viết theo hệ thống mà được trình bày trong rất
nhiều bài thuộc chương trình sách giáo khoa Lịch sử 11, 12 (cơ bản và nâng cao)
nên gây khó khăn trong việc tiếp nhận, lĩnh hội kiến thức của học sinh. Chính vì
vậy, chuyên đề này giúp cho học sinh hình dung một cách sâu sắc, hệ thống toàn
diện mảng kiến thức về hoạt động và vai trò của Người đối với cách mạng Việt
Nam.
- Chuyên đề có hệ thống các dạng câu hỏi bài tập về hoạt động và vai trò của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam giúp học sinh củng
cố được kiến thức đã học, nắm được các dạng đề bài, vì vậy rất hữu ích cho học
sinh lớp 12 ôn thi Đại học, Cao đẳng.
2. Về thái độ, tư tưởng
Thông qua việc tìm hiểu về hoạt động và vai trò của Nguyến Ái Quốc - Hồ Chí
Minh, chuyên đề có tác dụng giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
giáo dục lòng biết ơn và kính yêu Bác Hồ.
3. Về kĩ năng
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan, kĩ năng phân tích,
đánh giá, thống kê, liên hệ lịch sử…
- Rèn luyện kĩ năng tư duy, lôgíc, làm bài Lịch sử cho học sinh
B. CẤU TRÚC CỦA CHUYÊN ĐỀ
Cấu trúc chuyên đề chia làm hai phần
* Phần kiến thức:
- Thời kì 1911 - 1930
- Thời kì 1930 - 1945
- Thời kì 1945 - 1954
- Thời kì 1954 - 1969
* Phần hệ thống các dạng bài tập đặc trưng
Phạm vi kiến thức sử dụng trong chuyên đề là kiến thức trong sách giáo khoa
Lịch sử cơ bản và nâng cao lớp 11, 12, các tài liệu ôn thi Đại học, Cao đẳng, các

đề thi Đại học, cao đẳng qua các năm do Bộ GD&ĐT tổ chức
2


C. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Về kiến thức
1. Thời kì 1911 - 1930
1.1. Bối cảnh lịch sử Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong lúc thực dân Pháp đã xác lập
được ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam và tiến hành cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất. Cuộc khai thác này đã làm cho kinh tế - xã hội Việt Nam có sự
chuyển biến sâu sắc. Nhiều giai cấp, tầng lớp mới ra đời như tầng lớp tư sản dân
tộc, tầng lớp tiểu tư sản, giai cấp công nhân. Sự chuyển biến về xã hội làm cho
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam bao gồm mâu thuẫn dân tộc (giữa toàn
thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (giữa nông dân
với địa chủ). Trong đó, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp là
mâu thuẫn cơ bản nhất. Vì vậy đấu tranh giải phóng dân tộc trở thành yêu cầu bức
thiết đối với nước ta.
Các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến (phong trào Cần Vương),
phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản (tiêu biểu là hoạt động
của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh) diễn ra nhưng đều bị thất bại vì thiếu
đường lối đúng đắn. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng về
đường lối “mò mẫm trong đêm tối dường như không có đường ra”. Yêu cầu lịch
sử đặt ra là phải tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An trong
một gia đình trí thức yêu nước. Cha Người là Nguyễn Sinh Sắc, đỗ Phó bảng. Mẹ
của Người là Hoàng Thị Loan, một phụ nữ có học, đảm đang. Bản thân là người
có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc từ rất
sớm đã có “chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”. Trước sự bế tắc của các

con đường cứu nước và yêu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam, Người đã quyết
tâm ra đi tìm đường cứu nước.
Năm 1906, Người theo cha vào Huế. Trong thời gian học ở trường Tiểu học
Pháp - Việt và trường Quốc học Huế, được tiếp xúc với nền văn minh Pháp,
Người muốn sang Pháp để tìm hiểu.
Sau khi tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên Huế (51908), Người bí mật lên đường vào Nam. Trên đường đi, Người đã dừng chân dạy
học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết). Đầu năm 1911, Người vào Sài Gòn tìm cơ
hội ra nước ngoài để tìm đường cứu nước
1.2. Nét độc đáo trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Về hướng đi: Khác với những nhà yêu nước đi trước thường đi theo con đường
truyền thống phương Đông: Trung Quốc, Nhật Bản. Nguyễn Ái Quốc quyết định
sang phương Tây, cụ thể là đến Pháp, vì nước Pháp là nước giành thắng lợi trong
cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789, đây là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất
3


ở Châu Âu; trong quá trình thống trị Việt Nam, thực dân Pháp rêu rao khẩu hiệu
“Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, Người đến Pháp để tìm hiểu sự thật của sự tự do,
bình đẳng, bác ái ấy.
Về mục đích: Người muốn tìm hiểu xem nước Pháp và các nước khác làm cách
mạng như thế nào rồi sẽ về giúp đồng bào mình.
Về cách tiếp cận chân lí cứu nước: Khác với các bậc tiền bối đi ra nước ngoài
để cầu viện, đào tạo nhân tài, tổ chức lực lượng đánh Pháp theo con đường cứu
nước đã định sẵn: dân chủ tư sản. Nguyễn Ái Quốc phải trải qua một cuộc hành
trình đi qua nhiều nước châu Á, Phi, Mĩ. Người vừa lao động để kiếm sống, vừa
học tập văn hoá, vừa hoà mình vào trong phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động các nước, mặt khác Người tiến hành nghiên cứu thực
tiễn xã hội và kinh nghiệm cách mạng các nước để tìm kiếm con đường cứu nước
cho dân tộc.
Như vậy, quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là quá trình khảo

sát, quá trình lựa chọn. Cuộc cách mạng tới nơi mà Người tìm kiếm là cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
1.3. Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và tìm ra con đường
giải phóng dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam (1911-1920).
Ngày 5 - 6 - 1911, Nguyễn Ái Quốc rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu
nước với quyết tâm “tôi sẽ làm việc, tôi sẽ làm tất cả việc gì để sống và để đi”.
Tháng 7- 1911, Người đến cảng Mác-xây, sau đó qua nhiều nước ở châu Phi, châu
Mĩ, châu Âu, làm nhiều nghề từ rửa bát, dọn tàu, quét rác… Đặc biệt, Người đã
dừng chân khảo sát khá lâu ở ba đế quốc lớn nhất thời đó là Mĩ, Anh, Pháp. Với
những chuyến đi, khảo sát đó, lòng yêu nước của Nguyễn Ái Quốc có những
chuyển biến mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình nâng lên thành sự đồng cảm
với nhân dân lao động, với các dân tộc bị áp bức.
Cũng qua đó, sự nhận biết của Người về diện mạo kẻ thù trở nên sâu sắc hơn,
không chỉ đối với thực dân Pháp, mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói
chung. Người rút ra một số kết luận cơ bản: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn
bạo, độc ác; ở đâu người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và dù “màu da
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái
vô sản”.
Khoảng cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp. Tại đây người đã học tập,
rèn luyện trong cuộc đấu tranh của quần chúng lao động và giai cấp công nhân
Pháp, tham gia hoạt động trong Hội những người Việt Nam yêu nước, viết báo,
truyền đơn, tham gia đấu tranh đòi cho binh lính và thợ thuyền Việt Nam sớm
được hồi hương. Sống và làm việc trong phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận ảnh
hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Người có sự chuyển biến
mạnh mẽ.

4



Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một Đảng tiến bộ chủ trương
chống lại các chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở các thuộc địa, là tổ
chức chính trị duy nhất ở Pháp theo đuổi khẩu hiệu: Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
Ngày 18-6-1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn
Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc xai Bản yêu sách của nhân dân An Nam, đòi chính
phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình
đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Tuy không được chấp nhận nhưng
Bản yêu sách đã gây tiếng vang lớn và Người rút ra được “muốn được giải phóng,
các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người cảm thấy vô cùng phấn
khởi, tin tưởng và muốn nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”. Sự kiện này đánh dấu Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con
đường giải phóng dân tộc đó là con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định:
“chỉ có chủ nghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Cũng từ đây Người
hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Người nói: “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, song học thuyết chân chính, cách mạng nhất vẫn là chủ
nghĩa Mác- Lênin”. Có thể nói nếu không có sự kiện tháng 7- 1920 này thì sẽ
không có sự kiện ngày 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Ngày 25-12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua. Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng
sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước nhảy vọt trong
tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập
trường cộng sản. Người trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Như vậy, công lao lớn đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt
Nam là tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, đó là con đường Cách
mạng vô sản.
1.4. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức và trực tiếp sáng lập

Đảng Cộng sản Việt Nam (1920 - 1930)
a. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc
tích cực hoạt động và tiếp tục học tập, nghiên cứu lí luận cách mạng dân tộc ở
thuộc địa theo con đường cách mạng vô sản để truyền bá về trong nước nhằm
chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng tiên
phong ở Việt Nam. Quá trình chuẩn bị này được thông qua hoạt động của Người ở
Pháp, Liên Xô, Trung Quốc.
Ở Pháp (1920-1923):
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước Angiêri, Marốc…
lập ra Hội Liên Hiệp thuộc địa ở Pari nhằm tập hợp những người dân thuộc địa
5


sống trên đất Pháp, nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế của thuộc địa để soi
sáng cuộc đấu tranh vì quyền lợi nhân dân các nước thuộc địa. Người làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ, viết bài cho các báo Nhân đạo, đời sống
công nhân và đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Các sách
báo trên đã được bí mật chuyển về Việt Nam, giúp cho người Việt Nam hiểu rõ
được bản chất chủ nghĩa thực dân Pháp, hiểu được cách mạng tháng Mười Nga và
hướng theo chủ nghĩa Mác –Lênin.
Ở Liên Xô (1923-1924):
Tháng 6-1923, Người bí mật rời Pháp đi Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân
(10-1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên
cứu, học tập, vừa viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp chí
Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản.
Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản họp lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày
lập trường, quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc
địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào

cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông
dân ở các nước thuộc địa.
Như vậy, thời kì hoạt động ở Liên Xô là thời kì Người tiếp tục phát triển và
hoàn chỉnh thêm tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc thông qua nghiên cứu
thực tiễn và học tập trong sách báo Mácxit.
Có thể nói, qua hoạt động ở Pháp và Liên Xô, Người đã rút ra được những quan
điểm về chiến lược quan trọng: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa phải gắn liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới, có quan hệ với cách mạng vô sản chính quốc.
Ở Trung Quốc (1924-1927):
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) để trực tiếp
đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải
phóng dân tộc vào Việt Nam. Người đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong
tổ chức Tâm tâm xã để tổ chức thành nhóm Cộng sản đoàn (2-1925). Với nòng cốt
này, tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Người trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo cán bộ, sáng lập báo Thanh
niên. Các bài giảng của Người được tập hợp in thành cuốn Đường Kách mệnh.
Đầu năm 1927, tác phẩm Đường Kách mệnh được xuất bản. Mục đích của tác
phẩm là nói cho đồng bào ta rõ: vì sao chúng ta muốn sống thì phải làm cách
mệnh? Vì sao cách mệnh là việc chung của cả dân chứ không phải việc của một
hai người? đem lịch sử cách mạng các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem
phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. Ai là bạn ta? Ai là thù ta? Cách mệnh
thì phải làm như thế nào? Đường cách mệnh là văn kiện lí luận cách mạng đầu tiên
đặt cơ sở cho việc hình thành đường lối cách mạng Việt Nam sau này.
Báo Thanh niên và sách Đường Kách mệnh đã trang bị lí luận giải phóng dân
tộc cho cán bộ của Hội để tuyên truyền cho giai cấp công nhân và các tầng lớp
6



nhân dân Việt Nam. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên từ đó xây dựng nhiều tổ
chức cơ sở trong nước, phát triển nhanh các hội viên, nhất là từ khi có chủ trương
“vô sản hoá” (1928). Trên cơ sở hoạt động của tổ chức này, nhiều cán bộ cách
mạng đã được đào tạo bài bản, trang bị vững chắc về lí luận cách mạng, trình độ
giác ngộ được nâng lên. Đó là điều kiện cần thiết để một chính đảng cộng sản xuất
hiện ở Việt Nam.
b. Nguyễn Ái Quốc đấu tranh trực tiếp để dẫn tới sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam
Với những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, năm 1929
phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân yêu nước
khác theo con đường cách mạng vô sản đã phát triển mạnh mẽ. Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên không còn đáp ứng được vai trò lãnh đạo cách mạng nên dẫn đến
sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng
sản đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là
một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Nhưng các
tổ chức đó hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, thậm chí công
kích nhau làm cho phong trào cách mạng Việt Nam có nguy cơ bị chia rẽ lớn.
Sớm nhìn ra yêu cầu của lịch sử là cần phải có một Đảng duy nhất lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc liền rời khỏi Xiêm sang Trung Quốc để
thống nhất các tổ chức cộng sản. Với cương vị là phái viên của Quốc tế cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-1930 tại Cửu Long (Hương CảngTrung Quốc).
Nguyễn Ái Quốc đã phê phán những quan điểm sai lầm của mỗi tổ chức cộng
sản riêng rẽ và nêu chương trình hội nghị. Với uy tín và năng lực của Người, Hội
nghị đã thảo luận và nhất trí với ý kiến thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị cũng thông qua
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Đây là cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp. Độc lập, tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi công nhân, nông dân,

binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột
Như vậy từ năm 1911- 1930 Nguyễn Ái Quốc có hai công lao lớn đối với cách
mạng Việt Nam là: Tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam và sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời là một bước ngoặt
vĩ đại trong lịch sử, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có Đảng với đường lối
đúng đắn của mình lãnh đạo. Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính
quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau trong lịch sử dân tộc Việt
Nam.
2. Thời kì 1930 - 1945
7


Nội dung kiến thức sử dụng trong phần này chủ yếu là hoạt động của Người từ
năm 1941-1945 để làm rõ vai trò của Người đối với thắng lợi của cuộc cách mạng
tháng Tám năm 1945.
2.1. Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng
Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái
Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau một thời gian chuẩn bị, Người
chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Pác Bó (Cao Bằng)
từ ngày 10-19/5/1941.
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng
dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi giai cấp, nhằm đoàn kết lực lượng
toàn dân tộc vào nhiệm vụ chống đế quốc: tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác
khẩu hiệu ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, tiến tới thực hiện người cày
có ruộng. Hội nghị xác định hình thái cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi
nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã hoàn
chỉnh chủ trương đấu tranh được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939,
nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc.

2.2. Người cùng Trung ương Đảng xây dựng, chuẩn bị lực lượng cho cách mạng
tháng Tám
Về lực lượng chính trị: Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương
Đảng, Người đã sáng lập ra mặt trận Việt Minh nhằm “liên hiệp hết thảy các giới
đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt
tôn giáo, xu hướng chính trị, đặng mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.
Về lực lượng vũ trang: Ở Cao Bằng, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Ái
Quốc, phong trào Việt Minh phát triển mạnh. Trên cơ sở đó, những đội tự vệ vũ
trang, du kích được thành lập. Năm 1941, Người quyết định thành lập đội tự vệ vũ
trang để chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và thúc đẩy cơ
sở chính trị phát triển. Người còn tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự,
biên soạn các tài liệu về cách đánh du kích, kinh nghiệm du kích Nga, kinh
nghiẹm du kích tàu…
Ngày 22-12-1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân được thành lập. Theo Người thì đây là “đội quân đàn anh… tuy
lúc đầu quy mô nhỏ nhưng tiền đề của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải
phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”. Tổ chức
này chính là tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Ngày 15/5/1945, Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng: Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái
Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị
được tổ chức và phát triển.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào chọn Tân Trào là trung tâm chỉ đạo
kháng chiến cả nước.
8


Ngày 4-6-1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, khu giải phóng chính thức được
thành lập gọi là khu giải phóng Việt Bắc, gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc

Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các
tỉnh lân cận. Tân Trào được chọn là thủ đô khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm
thời khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ
của nước Việt Nam mới.
Từ năm 1942 - 1944, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách
mạng của Việt Nam và lực lượng Đồng minh. Sau đó đến tháng 2-1945, Người lại
đi Côn Minh cho đến tháng 5-1945 thì về nước. Thời gian này Người đã tranh thủ
được sự ủng hộ và giúp đỡ của Đồng minh đối với cách mạng Việt Nam.
2.3. Người cùng Trung ương Đảng dự đoán chính xác thời cơ, phát động Tổng
khởi nghĩa và trực tiếp lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.
Ngày 13-8-1945, ngay khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản sắp
đầu hàng Đồng minh, Người cùng Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã lập
tức thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, ra “Quân lệnh số 1”, chính thức phát
lện Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Người khẳng định: lúc này thời cơ đã đến, dù
phải hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành
cho được độc lập.
Ngày 14-15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào đã thông qua
kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan
trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.
Từ ngày 16-17/8/1945, Hồ Chí Minh dự đại hội Quốc dân được triệu tập tai tân
Trào. Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10
chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Người
làm Chủ tịch. Thay mặt Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Người đọc lời
tuyên thệ trong buổi ra mắt quốc dân “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945, Đưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh,
nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền trong cả nước. Ngày 30-8-1945, vua
Bảo Đại thoái vị, chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ.
Ngày 28-8-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Uỷ ban Dân
tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về Hà Nội. Người đã cải tổ Uỷ ban Dân tộc

giải phóng Việt Nam thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Trong thời gian này Người soạn thảo Tuyên ngôn độc lập, chuẩn bị mọi công việc
để Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể
quốc dân và thế giới sự thành lập của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Bản
Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc và nêu rõ quyết
tâm bảo vệ độc lập của nhân dân ta.
Như vậy, cách mạng tháng Tám thành công là một biến cố vĩ đại trong lịch sử
dân tộc ta, mở ra kỉ nguyên mới độc lập tự do, nhân dân lao động lên làm chủ đất
9


nước, kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội. Nhân tố quyết
định thắng lợi của cuộc cách mạng này là do có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Thời kì 1945-1954
3.1.Từ năm 1945-1946:
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng
trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, phải đối phó với rất nhiều kẻ thù: giặc ngoại
xâm và nội phản, giặc đói, giặc đốt và khó khăn về tài chính.
Trước tình hình đó, Người đã cùng Đảng, Chính phủ đề ra những biện pháp giải
quyết khó khăn
Về xây dựng và củng cố chính quyền: Ngày 8-9-1945, Hồ Chủ tịch đứng đầu
Chính phủ lâm thời đã công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước. Ngày 2-3-1946,
tại phiên họp đầu tiên của Quốc hội, Hồ Chí Minh đã đứng ra thành lập Chính phủ
liên hiệp kháng chiến, phụ trách Uỷ ban dự thảo Hiến pháp.
Về kinh tế - tài chính: Người đứng đầu Chính phủ lâm thời kêu gọi cả nước
“nhường cơm sẻ áo”, lập “Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “ngày đồng tâm”… Người
kêu gọi “ tăng gia sản xuất” để giải quyết nạn đói.

Người đứng đầu Chính phủ phát động phong trào “Tuần lễ vàng”, xây dựng
“quỹ độc lập”. Cuối năm 1946, Chính phủ quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam
trong cả nước
Về văn hoá- giáo dục: Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành
lập Nha bình dân học vụ- kêu gọi nhân dân cả nước tham gia phong trào xoá nạn
mù chữ
Về đấu tranh chống giặc ngoại xâm và nội phản: Khi Pháp trở lại xâm lược Nam
Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính Phủ đã huy động lực
lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến. Tháng 21946, Người đã thay mặt Chính phủ tặng đồng bào miền Nam danh hiệu vẻ vang
“Thành đồng Tổ Quốc”.
Để tránh phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với Pháp bản Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) để đẩy 20
vạn quân Trung Hoa Dân Quốc cùng tay sai ra khỏi nước ta, có thêm thời gian để
chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Sau Hiệp định Sơ bộ, Pháp vẫn gây xung đột vũ trang ở Nam Bộ, âm mưu tách
Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, Người đã viết thư cho đồng bào Nam Bộ, khẳng định
“Đồng bào Nam Bộ là dân Việt Nam, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân
lí đó không bao giờ thay đổi”. Ngày 14 - 9 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với
Pháp bản Tạm ước, tạo điều kiện cho ta kéo dài thời gian xây dựng, củng cố lực
lượng bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp.
Như vậy, bằng những biện pháp, chủ trương, sách lược đúng đắn, chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã chèo lái con thuyền cách mạng
Việt Nam vượt qua mọi thác gềnh, khó khăn, giữ vững được chính quyền cách
mạng non trẻ.
10


3.2. Từ năm 1946 - 1954
Do thực dân Pháp bội ước, ngày 18 - 19/12/1946, dưới sự chủ toạ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Hội nghị bất thường mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng

cộng sản Đông Dương họp, quyết định phát động cả nước kháng chiến chống thực
dân Pháp. Tối ngày 19-12-1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đây là một bản cương
lĩnh cứu nước mang tính khái quát hoá cao, chứa đựng tư tưởng, quan điểm,
đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
giống như lời hiệu triệu, một tiếng kèn xung trận, khích lệ tinh thần chống Pháp
của nhân dân ta.
Người đã cùng Trung ương Đảng đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn: Kháng
chiến toàn dân. Toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế.
Thực hiện đường lối này, Người đứng đầu Đảng ta lãnh đạo nhân dân kháng
chiến chống Pháp giành được nhiều thắng lợi toàn diện:
Về chính trị: Người đứng đầu Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp. Tháng 6-1948, Người phát
động phong trào thi đua yêu nước toàn quốc, lôi cuốn mọi lực lượng tham gia thực
hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc.
Tháng 2-1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có bản báo cáo quan trọng : báo cáo chính trị, tổng kết kinh nghiệm của
Đảng qua những chặng đường lịch sử. Sau đó Người được bầu làm chủ tịch Đảng.
Tháng 3-1951: Người dự lễ thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt,
Người được bầu làm chủ tịch danh dự Mặt trận Liên Việt.
Về ngoại giao: Tháng 1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt qua
hệ ngoại giao với các nước. Ngay trong tháng 1-1950, các nước Liên Xô, Trung
Quốc và sau đó là các nước trong phe xã hội chủ nghĩa lần lượt đặt qua hệ ngoại
giao với nước ta. Điều đó khẳng định uy tín của nước ta trên trường quốc tế, cũng
là điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của ta tranh thủ được sự ủng hộ của bè
bạn quốc tế.
Về kinh tế: Người đứng đầu Chính phủ mở cuộc vận động sản xuất và thực
hành tiết kiệm (1952), lôi cuốn mọi ngành, mọi giới tham gia. đồng thời Chính
phủ cũng tiến hành phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất

thu được nhiều kết quả
Về văn hoá - giáo dục: Người đứng đầu Chính phủ thực hiện cải cách giáo dục
theo phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất.
Thực hiện lời dạy của Người: Kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến,
các văn nghệ sĩ đã hăng hái thâm nhập mọi mặt của đời sống, chiến đấu và sản
xuất.
Về quân sự: Người đứng đầu Đảng ta đã đưa ra những chủ trương đúng đắn,
lần lượt giành các thắng lợi to lớn trên chiến trường như chiến dịch Việt Bắc, Biên
Giới, Điện Biên Phủ. đặc biệt với chiến thắng Điện Biên Phủ ta đã buộc thực dân
11


Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam.
Có thể nói cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta có ý nghĩa vô
cùng to lớn. Để làm nên thắng lợi này thì vai trò lãnh đạo của đảng, đứng đầu là
Chủ tich Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định nhất, thể hiện công lao to lớn của
Người đối với cách mạng nước ta.
4. Thời kì 1954 - 1969
Do đế quốc Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ về
Việt Nam, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã
hội khác nhau. Người đứng đầu Đảng ta đã xác định nhiệm vụ của cách mạng
nước ta: vừa phải hànn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc,
đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vừa phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ
này được cụ thể hoá trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960).
Đây là đường lối đúng đắn kết hợp và giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện sự sáng tạo của Đảng ta đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân hai miền Nam- Bắc đã

chiến đấ, lao động và giành được nhiều thành tựu
Ở miền Bắc: ta đã hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh cải tạo qua hệ sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế- xã hội,
thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, là cho bộ mặt miền Bắc thay đổi. Trong
Hội nghị chính trị đặc biệt, tháng 3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trong 10
năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử
dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới.”
Khi Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Để động viên tinh thần chiến
đấu của nhân dân, Người khẳng định: Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm,
20 năm hoặc lâu hơn thế nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp
có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ, không có gì quý hơn
độc lập tự do. đến ngày thắng lợi, ta sẽ xây dựng đất nước đoàng hoàng hơn, to
đẹp hơn”. Lời của Người góp phần giúp nhân dân Miền Băc thêm quyết tâm chiến
đấu đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ, buộc chúng phải tuyên bố ngừng
ném bom miền Bắc.
Trong thời gian này, Người đứng đầu Đảng ta chỉ đạo nhân dân miền Bắc thực
hiện nghĩa vụ hậu phương với miền Nam. Miền Bắc đã đưa vào chiến trường miền
Nam hàng vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men…
Đây chính là tiềm lực vật chất to lớn góp phần tạo nên sức mạnh cho nhân dân
miền Nam chiến đấu đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mĩ.
Ở miền Nam: Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhân dân miền Nam đã chiến đấu dũng cảm lần lượt đánh bại các chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mĩ như: Chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ,
Việt Nam hoá chiến tranh…
12


Ngày 2-9-1969, giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của nhân dân ta
đang tiếp diễn thì Người qua đời để lại niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc ta.
Thực hiện di chúc thiêng liêng của Người, nhân dân ta đã quyết tâm chiến đấu

đánh cho Mĩ cút, đánh cho Nguỵ nhào, giải phóng hoàn toàn đất nước.
Có thể nói, Hồ chủ tịch có công lao rất lớn đối với dân tộc ta. Cả cuộc đời,
Người đã cống hiến, hi sinh cho dân tộc. Công lao, lời dạy của Người luôn in đậm
trong trái tim của mỗi con người Việt Nam. Người là tấm gương sáng về phẩm
chất, đạo đức để muôn đời thế hệ Việt Nam noi theo.

13


II. Hệ thống các dạng bài tập
1.Dạng câu hỏi trắc nghiệm
Đối với dạng đề này đòi hỏi học sinh phải có kiến thức chắc, chính xác, khả
năng nhận biết và tư duy nhanh. Để làm tốt phần bài tập này học sinh phải đọc
nhanh câu hỏi, trả lời ngắn gọn nhất nội dung kiến thức cơ bản, tránh diễn đạt dài
dòng, không cần phân tích.
VD1. Khoanh tròn một chữ cái in hoa ở câu trả lời đúng
- Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc có hoạt động quan trọng
A. Gửi tới Hội nghị Vécxai bản yêu sách 8 điểm
B. Xác định con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam
C. Xuất bản tờ báo Người cùng khổ
D. Tham gia Đảng Xã hội Pháp
-> Đáp án B
- Cuốn sách gồm tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn
luyện chính trị ở Quảng Châu mang tên:
A. Con rồng tre
B. Đường Kách mệnh
C. Bản án chế độ thực dân Pháp
D. Người cùng khổ
-> Đáp án B
VD2. Điền những nội dung còn thiếu theo mẫu về quá trình hoạt động của Nguyễn

Ái Quốc (1911-1945)
Thời gian
Nội dung sự kiện
5-6-1911
1920
1921
6-1923
11-11-1924
6-1925
1927
6-1-1930
28-1-1941
19-5-1941
22-12-1944
2-9-1945
Gợi ý trả lời
Thời gian
Nội dung
5-6-1911
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
1920
Nguyễn Ái Quốc đọc Bản sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về
những vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê nin
Người bỏ phiếu tán thành ra nhập Quốc tế Cộng sản và thành
14


1921
6-1923
11-11-1924

6-1925
1927
6-1-1930
28-1-1941
19-5-1941
22-12-1944
2-9-1945

lập Đảng Cộng sản Pháp
Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari
Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô
Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc)
Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Tác phẩm Đường Kách mệnh được xuất bản
Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng họp tại
Hương Cảng (Trung Quốc)
Nguyễn Ái Quốc về nước
Người sáng lập Mặt trận Việt Minh
Thành lập đội VNTTGPQ
Người đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà

2. Dạng câu hỏi sự kiện theo hướng bổ dọc vấn đề
Dạng đề này học sinh phải có kiến thức hệ thống toàn diện về một vấn đề. Hoạt
động của Nguyễn Ái Quốc được viết theo trình tự thời gian nên học sinh làm bài
phải biết phân loại sự kiện phù hợp với yêu cầu của đề bài.
VD: Vì sao khi ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc chọn nước
Pháp là nước đầu tiên để Người đặt chân đến? Những nét chính về quá trình hoạt
động của Người ở đất nước này?
Gợi ý trả lời:

- Nguyên nhân:
Pháp là nơi có nền KHKT tiên tiến, là nơi giành thắng lợi trong cuộc cách mạng
tư sản Pháp năm 1789, đây là cuộc CMTS triệt để nhất ở Châu Âu.
Pháp là nơi nổi tiếng với khẩu hiệu tự do- bình đẳng- bác ái. Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc muốn đến tìm hiểu xem nước Pháp làm thế nào rồi sẽ giúp đồng bào mình
- Quá trình hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp:
+ Ngày 5-6-1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Đầu tiên Người đến
Pháp, hoạt động trong phong trào công nhân Pháp
+ Khoảng cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp. Tại đây người đã nghiên
cứu, học tập Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Người có sự chuyển biến
mạnh mẽ.
+ Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp là tổ chức chính trị duy nhất ở
Pháp theo đuổi khẩu hiệu: Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
+ Ngày 18-6-1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc xai Bản yêu sách của
nhân dân An Nam đòi các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự
quyết của dân tộc Việt Nam.
+ Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin.
15


+ Ngày 25-12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua. Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng
sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
+ Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước Angiêri, Marốc…
lập ra Hội Liên Hiệp thuộc địa ở Pari. Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo
Người cùng khổ, viết bài cho các báo Nhân đạo, đời sống công nhân và đặc biệt là
tác phẩm bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Lưu ý: Học sinh có thể làm tương tự đối với những câu hỏi như: Nêu hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc từ năm 1919 đến năm 1930.

3. Dạng câu hỏi phân tích một sự kiện, một vấn đề
Đây là dạng câu hỏi phân tích cụ thể một sự kiện, vấn đề. Khi làm bài học sinh
trước hết phải nêu được nội dung sự kiện, vấn đề đó, sau đó phân tích làm nổi bật
ý nghĩa của sự kiện, vấn đề
VD1. Tại sao nói năm 1920 là một mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Nguyễn Ái Quốc?
Gợi ý trả lời
- Nêu hoạt động trong năm 1920 của Nguyễn Ái Quốc:
+ Đọc bản sơ thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin
+ Tham gia Đại hội của Đảng xã hội Pháp và sáng lập đảng Cộng sản Pháp
- Ý nghĩa:
+ Tìm ra con đường GPDT đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là con đường cách
mạng vô sản
+ Người chuyển từ lập trường yêu nước sang lập trường cộng sản, là người cộng
sản đầu tiên của Việt Nam.
VD2: Nêu hoàn cảnh ra đời, nội dung, ý nghĩa của Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Gợi ý trả lời
- Hoàn cảnh ra đời: Hành động bội ước của Pháp… Ban Thường vụ Trung ương
Đảng quyết định phát động cả nước kháng chiến. Tối ngày 19-12-1946, Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch ra đời
- Nội dung:
+ Nêu nguyên nhân chúng ta phải kháng chiến…Chúng ta muốn hoà bình, chúng
ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn
tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
+ Khẳng định quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta: thà hi sinh tất cả chứ không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ
+ Phát động nhân dân đấu tranh: Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp…

- Ý nghĩa: Đây là một bản cương lĩnh cứu nước mang tính khái quát hoá cao, chứa
đựng tư tưởng, quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Lời kêu
16


gọi toàn quốc kháng chiến giống như lời hiệu triệu, một tiếng kèn xung trận, khích
lệ tinh thần chống Pháp của nhân dân ta.
* Lưu ý: Học sinh có thể áp dụng làm tương tự với câu hỏi về bản Tuyên ngôn độc
lập…
4. Dạng câu hỏi liệt kê sự kiện, vấn đề rồi đánh giá ý nghĩa của tất cả các sự kiện
nói chung hoặc phân tích ý nghĩa của một sự kiện, vấn đề nói riêng
Khi làm dạng đề này học sinh trước hết phải liệt kê sự kiện theo yêu cầu của câu
hỏi, sau đó dùng kiến thức tổng hợp, dẫn chứng cụ thể của sự kiện, vấn đề đó để
phân tích
VD1: Trình bày những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian
từ 1920 đến năm 1930. Đánh giá sự đóng góp của những hoạt động đó đối với
phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Gợi ý trả lời
- Trình bày những hoạt động chính của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 - 1930
- Đóng góp của những hoạt động đó:
+ Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
+ Tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ
chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản ở Việt Nam.
+ Xây đắp mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới
+ Sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và vạch ra những vấn đề cốt lõi trong đường
lối cứu nước
VD2: Nêu những cống hiến to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình hoạt động
cứu nước, cứu dân từ năm 1911-1930. Phân tích một cống hiến to lớn nhất
Gợi ý trả lời

- Kể các cống hiến của Nguyễn Ái Quốc thời gian này
+ Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
+ Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng CSVN
+ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập Đảng CSVN
- Phân tích cống hiến to lớn nhất:
+ Cống hiến to lớn nhất trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc thời gian
này là tìm ra con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản
+ Nêu sự kiện năm 1920
+ Từ việc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp tục hoạt
động truyền bá con đường cách mạng vô sản vào Việt Nam, trên cơ sở chuẩn bị về
tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới
thành lập Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
5. Dạng câu hỏi tổng hợp
Vì đây là dạng câu hỏi tổng hợp vấn đề nên khi làm bài học sinh cần nêu rõ các
luận điểm rôi dẫn chứng sự kiện phù hợp với các luận điểm đó, học sinh nên viết ở
mức độ khái quát cao, tránh quá dài dòng.
17


VD1: Phân tích công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Gợi ý trả lời
Cần làm sáng tỏ các công lao
- Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
- Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng CSVN
- Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập Đảng CSVN
VD2: Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc từ năm 1941 đến năm 1945, hãy
làm sáng tỏ vai trò của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách

mạng tháng Tám năm 1945?
Gợi ý trả lời:
- Xác định đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng: Nguyễn Ái Quốc chủ
trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương đảng giương cao hơn nữa ngọn
cờ giải phóng dân tộc, đồng thời đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang.
- Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị lực lượng chính trị: sáng lập ra Mặt trận Việt Minh
với các hội “cứu quốc”, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp và rèn luyện
lực lượng chính trị quần chúng.
- Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Chỉ thị thành lập Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân, chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa, chỉ thị
thành lập Khu giải phóng Việt Bắc.
- Người cùng Trung ương Đảng đánh giá chính xác thời cơ, chớp đúng thời cơ,
kiên quyết phát động và lãnh đạo toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi, lập nên nước Việt Nam DCCH (2-9-1945).
* Lưu ý: Học sinh có thể làm tương tự đối với các câu hỏi về vai trò của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1945-1954, 19541969 ….
6. Một số bài tập tự giải
Câu 1. Tại sao nói Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và
tổ chức để tiến tới sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam? Những quan điểm về
chiến lược giải phóng dân tộc được Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị trong những năm
1920-1924 là gì?
Câu 2. Hãy làm rõ công lao vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1945. Theo anh (chị) công lao nào
lớn nhất? Vì sao?
Câu 3. Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết mối quan hệ Việt - Pháp bằng
con đường hoà bình từ ngày 6- 3 - 1946 đến trước ngày 19 - 12 - 1946?
Câu 4. Bằng những kiện lịch sử hãy làm sáng tỏ công lao của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1946 - 1954)

18



D. KẾT LUẬN
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng việc giảng dạy theo chuyên đề cho học
sinh lớp 12 là một trong những phương pháp giảng dạy phục vụ cho việc học tập
của học sinh trong ôn thi đại học – Cao đẳng. Vì vậy tôi mạnh dạn viết chuyên đề
này và qua kiểm nghiệm đã thu được kết quả: học sinh hiểu bài nhanh hơn, nhận
biết được các dạng đề và giải các đề thi, kết quả thi đại học của các em đạt điểm
trung bình cao
Đối với chuyên đề: Hoạt động và vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1911-1969 tôi rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các thầy, cô, bạn bè đồng nghiệp để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Tôi
xin chân thành cảm ơn!

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 2 - NXB Giáo dục
2. Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3 - NXB Giáo dục
3. Bộ đề thi Lịch sử- NXB ĐHSP
4. Sách giáo khoa Lịch sử 11 - NXB Giáo dục
5. Sách giáo khoa Lịch sử 12 - NXB Giáo dục
6. Hướng dẫn giải các dạng bài tập từ các đề thi quốc gia - NXB ĐHQG Hà Nội
7. Đề kiểm tra theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Lịch sử 12 - NXB Giáo dục
8. Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta - NXB Lao động
9. Tuyển tập 36 bộ đề thi lịch sử - NXB ĐHSP
10. Kiến thức cơ bản môn Lịch sử - NXB ĐHSP
Vĩnh tường, ngày 7 - 3 - 2014
Người viết


Vũ Thị Nhung

20



×