Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

vai trò hồ chí minh đối với cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.82 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng
Trù, nay thuộc xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Trong quãng
thời gian từ khi sinh ra đến trước khi xuất dương, Bác đã sinh sống ở nhiều
nơi. Đó là quê hương Nghệ Tĩnh với truyền thống yêu nước và đấu tranh
chống Pháp kiên cường. Đó là thành Huế với bao cảnh đau lòng của một dân
tộc bị làm nô lệ, Nguyễn Tất Thành là người thanh niên vượt qua gian khó,
đã sớm bộc lộ mầm mống trí lớn của một con người mà sau này trở thành
anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Người sinh ra
trong thời buổi dân tộc Việt Nam đang sống lầm than, tủi nhục, dưới ách
thốnh trị của thực dân Pháp. Lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu nước đã đứng
lên chiến đấu giành lại độc lập tự do, nhưng đều đi đến thất bại. Sứ mệnh
lịch sử đặt ra cho dân tộc, cho mỗi một người dân yêu nước cũng như cho
các dân tộc bị áp bức trên thế giới lúc bấy giờ, là tìm ra phương sách cứ
nước, cứu dân. Đó là thách thức của thời đại. Thời thanh niên, Nguyễn Tất
Thành được học chữ Hán, rồi chữ Pháp của nền giáo dục thực dân. Vốn là
con người thông minh ham học hỏi, Nguyễn Tất Thành đã để ý đến câu khẩu
hiệu của nước Pháp: tự do – bình đẳng – bác ái. Và người tự hỏi, đằng sau
ba chữ đó là sự thật như thế nào. Và vì sao dân tộc ta vẫn phải chịu cảnh nô
lệ lầm than. Những câu hỏi đó cộng với lòng yêu nước, ý chí vượt khó đã
thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Vốn có tư chất thông minh, nhạy
bén về chính trị, công thêm có thế giới quan khoa học, tư duy độc lập Người
đã ôm ấp chí lớn cứu nước, cứu dân, lại không chịu đi theo lối cũ của các
bậc tiền bối. Với nghị lực phi thường, Người đã quyết chí đi sang phương
tây để thấy tận mắt đất nước của những kẻ đã tới xâm lược dân tộc mình
mong tìm con đường giải phóng dân tộc.
Sinh thời, Người đã từng nói với đồng bào mình “tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước nhà được độc lập tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, nhà ở, được học hành tiến bộ, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được hưởng quyền tự do dân chủ mà họ xứng
đáng được hưởng với tư cách người chủ và làm chủ xã hội”. Đó thực sự là


hoài bão, là khát vọng mãnh liệt, thể hiện một tư tưởng lớn, một lý tưởng
nhân đạo cao quý của Người. Người đã hành động không mệt mỏi trong suốt
cuộc đời, với nghị lực phi thường, vượt qua mọi gian nan thử thách, với
niềm tin không gì thay đổi vào xu thế phát triển của lịch sử, nhất là tin vào
sức mạnh vô tận của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong
sự nghiệp đấu tranh cách mạng, biến tư tưởng, lý tưởng thành hiện thực.
Người cũng từng nói rõ, “lòng thương yêu của tôi đối với nhân dân và nhân
loại không bao giờ thay đổi”. [2, 231 - 232 ].
Ở Hồ Chí Minh chúng ta bắt gặp, như đồng chí Phạm Văn Đồng đã
nói- sự kết hợp hài hoà giữa tính khách quan và chủ quan, giữa chiến lược và
sách lược, giữa những nguyên tắc và sự linh hoạt. Và điều đó làm cho Người
trở nên vĩ đại, vì Người đã dựa vào triết học duy vật biện chứng, thứ triết
học “ không chỉ phản ánh sự đức kết quan trọng nhất trong tư duy của loài
người mà sự đúc kết quan trọng nhất trong lịch sử tư duy của loài người mà
còn là sự phản ánh có ý nghĩa nhất trong lịch sử tri thức” [9, 103]
Vượt lên trên tất cả các bậc tiền bối, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
là “biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội” , mà Người còn có “sự đóng góp quan trọng và
nhiều mặt trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật” . Người là
“kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam
và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân
tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc
thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc” , Người đã được ghi danh
vào danh sách “các nhân vật trí thức lỗi lạc và các danh nhân văn hoá trên
phạm vi quốc tế góp phần thực hiện các mục tiêu của UNESCO và đóng góp
vào sự hiểu biết trên thê giới” như Nghị quyết 24C/18.65, phiên họp Đại Hội
đồng UNESCO, khoá họp lần thứ 24 , tại Pari đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh và khuyến nghị các nước thành viên cùng tham gia kỷ niệm 100 năm

Ngày sinh của Người.
Thật khó mà tách rời Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc với
Hồ Chí Minh - nhà văn hóa kiệt xuất. Bởi vì, lãnh đạo toàn dân đánh đuổi
giặc ngoại xâm, với vinh dự lớn là một nước nhỏ đã đánh thắng hai đế quốc
to là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng nhân dân khỏi thân phận nô
lệ, khỏi cái đói, cái rét, giành lại cho nhân dân Việt Nam những quyền sống
của con người, một cuộc sống có văn hóa, đó không chỉ là một sự nghiệp
chính trị phi thường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà là cuộc đấu tranh không
mệt mỏi của Người cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, chính là sự nghiệp văn
hóa cao cả nhất.
NỘI DUNG
1 HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1.1 Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 là cuộc khủng hoảng
nghiệm trọng và sâu sắc nhất trong lịch sử chủ nghĩa tư bản. Nó chấm dứt
thời kỳ ổn định tam thời của chủ nghĩa tưu bản trong những năm 20. Tháng
10 -1929, cuộc khuỉng hoảng nổ ra ở Mỹ rồi lan sang các nước tư bản khác.
Mức sản xuất của toàn bộ thê giới tư bản chủ nghĩa giảm 42%, trong khi đó
về tư liệu sản xuất giảm 53% [7, 132]. Cuộc khủng hoảng diễn ra ở tất cả
các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và tài chính. Tuy nhiên
ở các nước khác nhau, mức độc và thời gian diễn ra khủng hoảng cũng khác
nhau, tiêu biểu là các nước tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Pháp….
Cuộc khủng hoảng các nước tư bản đã lan ra sang các xứ thuộc địa. Nhân
dân các nơi này phải chịu gánh nặng khủng hoảng của “ chính quốc”. Tình
hình đó làm cho nền kinh tế thuộc địa vốn đã lạc hậu, phụ thuộc lại càng suy
sụp, tiêu điều hơn. Cuộc sông của nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc
ngày càng điêu đứng. Chính vì thế, những cuộc nổi dậy đấu tranh nổ ra
không ngớt. Để củng cố nền thống trị đang bị lung lay, giai cấp tư sản các
nước tìm cách tăng cường nền chuyên chính của mình. Các lực lưọng cực
đoan, chế độ độc tài, chủ nghĩa phát xít bành trướng ở nhiều nơi, trước hết là

Italia, Đức , Nhật. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản ngày càng sâu sắc. Khối
phát xít Đức- Italia- Nhật hình thành.
Tại Pháp, cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra muộn hơn so với các nước
khác, nhưng lại hết sưc mạnh và sâu sắc. Khủng hoảng công nghiệp xen kẽ
khủng hoảng nông nghiệp và khủng hoảng tài chính. Vì vậy giới cầm quyền
Pháp đã trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng lên lưng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động Pháp và nhân dân các nước thuộc địa.
1.2 Tình hình trong nước
Kinh tế Việt Nam vố đã bị phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp, nay
phải gánh chịu hậu quả khủng hoảng ở “chính quốc” lại càng suy sụp hơn.
Chính quyền Đông Dương thi hành một loạt các chính sách về Kinh tế- tài
chính, chúng tăng mức các thứ thuế đã có và đặt thêm nhiều thứ thuế mới….
Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đã tác động đến tình hình xã
hội Việt Nam. Một phần ba số công nhân bị thất ngiệp. Riêng miền Bắc,
25000 công nhân bị sa thải, trong đó có 12000 công nhân ngành mỏ. Những
công nhân có việc bị giảm lương từ 30% đến 50%.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã tác động nặng nề
đến kinh tế Đông Dương trong đó có Việt Nam. Nhiều nhà máy, xí nghiệp,
đồn điền đã bịt hu hẹp quy mô sản xuất. Đời sống của các tầng lớp nhân dân
lao động vô cùng khó khăn. Các cuộc bắt bớ, đàn áp diễn ra ở cả Bắc Kỳ-
Trung Kỳ- Nam Kỳ. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930), thực dân Pháp
đã lập ra Hội đồng đề hình thường trực, đưa hàng loạt các chiến sĩ yêu nước
lên máy chém. Lòng căm thù của các tầng lớp nhân dân Việt Nam đối với
bọn thự dân, đề quốc càng sâu sắc thêm. Trong khi đó phong trào cách mạng
ở Trung Quốc, Ấn Độ , của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
đã có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng ở Việt Nam.
2 VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI CÁCH
MẠNG VIỆT NAM TỪ 1930 ĐẾN 1939.
2.1 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam từ 1930 đến 1939.

2.1.1 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời và hoạt động của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất là đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đã mở
đầu một thời kỳ mới, vô cùng oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Lúc này, dù
đang hoạt động ở nước ngoài, trên cương vị là người đại diện Ban Phương
Đông, Nguyễn Ái Quốc giữ liên lạc chặt chẽ với Quốc tế Cộng sản, đồng
thời theo dõi chặt chẽ phong trào cách mạng trong nước. “Người đã thấy sự
cần thiết phải thành lập và xây dựng một Đảng Cộng sản để lãnh đạo cuộc
đấu tranh, và chính Người đã bắt tay xây dựng nên Đảng Cộng sản Đông
Dương, và sau này là Đảng Lao động Việt Nam, Người đã tổ chức nên đảng,
giáo dục đảng và rèn luyện Đảng trong cuộc đấu tranh. Chính nhờ vậy mà
nhân dân Việt Nam đã có đựoc đội tiên phong của mình, một Đảng sáng
suốt biết đoàn kết tất cả các lực lượng tiến bộ của nhân dân trong một mặt
trận rộng rãi để đưa họ đến thắng lợi” ( Phidencaxtơrô tại Hà Nội ngày
17/9/1973)[ 10 , 430]
- Thứ hai là thông báo sự ra đời của đảng và kêu gọi sự ủng hộ ở bên
ngoài: Cuối tháng 4, Người đến Malaixia làm nhiệm vụ và sau khi thoát
khỏi cuộc vây bắt ở Xingapo (lúc đó thuộc Malaixia), Theo ủy nhiệm của
Quốc tế Cộng sản, cuối tháng 4-1930, Nguyễn Ái Quốc đến Xiêm và
Malaixia. Đến Đông Bắc Xiêm (Thái Lan ngày nay), Người báo tin cho một
số đồng chí ở đây biết các nhóm cộng sản ở Việt Nam đã thống nhất thành
Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 27-2-1930, Người viết thư gửi đại diện
Đảng Cộng sản Pháp ở Quốc tế Cộng sản, báo tin Đảng Cộng sản Việt Nam
đã được thành lập, đề nghị công bố trên báo Nhân đạo (L’Humanité) và tập
san Thư tín quốc tế (Inprecor)Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Người cũng yêu cầu Đảng Cộng sản Pháp cho biết tên những con
tàu chạy tuyến đường Pháp – Viễn Đông, có các đồng chí cộng sản Pháp làm
việc trên đó để bắt liên lạc. Trong thư, Nguyễn Ái Quốc viết: Chưa thể về
nước, không tham gia Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, vì đang chịu
“một cái án tử hình vắng mặt”.

Ngày 28-2-1930, Người viết thư gửi các đồng chí Liên Xô yêu cầu
cung cấp tài liệu để Người viết một cuốn sách tuyên truyền về nước Nga Xô-
viết với nhan đề: Những kỷ niệm về cuộc du lịch của tôi. Khoảng cuối năm,
cuốn Nhật ký chìm tàu của Người đã xuất hiện ở Việt Nam, sau đó được in
lại, phổ biến rộng rãi trong cao trào cách mạng Xôviết Nghệ Tĩnh. Nhân dịp
đoàn đại biểu Việt Nam sắp đến Liên Xô dự Đại hội Công hội lần thứ V,
ngày 5-9-1930, Người viết thư gửi các học sinh Việt Nam ở Liên Xô, nhắc
nhở việc xây dựng khối đoàn kết giữa những học sinh ở Liên Xô với các đại
biểu, nhằm “chớ để người ta trông thấy sự phân biệt trí thức và vô sản”[6,
40.] Cuối 1929, Trần Phú rời Liên Xô trở về nước hoạt động và ngày 8-2-
1930 đồng chí đã về tới Sài Gòn. Đầu tháng 4-1930, Trần Phú gặp Nguyễn
Ái Quốc tại Hồng Kông, báo cáo với Người về nội dung Đại hội VI Quốc tế
Cộng sản (1928), về nhóm học sinh Việt Nam tại Liên Xô và tình hình Liên
Xô hiện tại. Trong cuộc gặp đó, Nguyễn Ái Quốc cũng thông báo với Trần
Phú kết quả Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc thành lập
Đảng là bước ngặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng. Trên cương vị là đại diện Ban Phương Đông, Người phân công Trần
Phú, Ngô Đức Trì về nước hoạt động và gửi thư giới thiệu hai người với Ban
Chấp hành Trung ương lâm thời trong nước.
-Thứ ba là theo dõi tình hình hoạt động của Đảng, góp ý xây dựng
Đảng: Ngày 20-4-1931, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, yêu cầu phải tăng cường phát triển lực lượng của Đảng
cho đều khắp cả Bắc – Trung – Nam, chú trọng phát triển các tổ chức Công
hội, Nông hội, Mặt trận… và gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương, phê
bình trong cách khai hội, cách thảo luận, trong vấn đề công tác và vấn đề
chậm đổi tên đảng tại Hội nghị xứ uỷ Trung và Bắc kỳ. Người yêu cầu:“Tất
cả mọi đảng viên và tất cả các chi bộ phải thảo luận Chỉ thị của Quốc tế thứ
ba và Nghị quyết của Trung ương, rồi phải ra Nghị quyết về những Nghị
quyết và Chỉ thị nói trên… Có làm như thế thì mới có thể nâng cao được

trình độ đảng viên, tất cả Chỉ thị và Nghị quyết mới được thi hành, tư tưởng
và hành động của đảng viên mới thống nhất” [6, 75 – 76]
Người còn nhấn mạnh việc phải ra sức củng cố và phát triển đảng, Hồ
Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng đoàn kết, nhất trí trong đảng, trên cơ
sở Chủ nghía Mác- Lênin và đường lối đúng đắn của Đảng, Người coi giữ
gìn đoàn kết, nhất trí trong Đảng như gìn giữ con ngươi của mắt mình. Với
Người sự đoàn kết, nhất trí của Đảng phải đựoc thực hiện trên tất cả trên tất
cả các mặt như chính trị, tư tưởng và tổ chức, Người luôn luôn giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và căn dặn mọi đẩng viên phải bảo
vệ và quyết tâm thực hiện đưòng lối chủ trường của đảng… luôn luôn trau
rồi phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng. Đối với Người đào tạo cán bộ
cách mạng cho đời sau là một việc rất cần thiết cho sự nghiệp xây dựng
Đảng. Đồng thời Người thẳng thắn phê bình Đảng còn kém đường bí mật
công tác, nhắc nhở Đảng phải tìm cách bảo vệ cán bộ, không để địch tìm
cách “túm mòn” hết cán bộ và phải biết tự đặt câu hỏi “Vì sao mà bị lộ để
suy nghĩ, và tìm cách sửa đổi”
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở một nước phong kiến lạc hậu ở
phương Đông, bị chủ nghĩa thực dân xâm lược và nô dịch từ cuối thế kỷ
XIX, Việt Nam vốn là một dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân
ái, có nền văn hiến lâu đời. Từ khi Pháp xâm lược thì ngay từ đầu phong trào
đấu tranh của nhân dân ta đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ và liên tục. Do vậy
ngay từ đầu Người đã đề ra những luận điểm về tính chất chủ động, tính tích
cực của cách mạng giải phóng dân tộc, của nhân dân các nước thuộc địa, bổ
sung vào những luận điểm chung lúc bấy giờ. Nhân dân các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc có thể “ chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải phóng cho
ta” [2, 83]. Giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc, Người đã có những
luận điểm sáng tạo phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam ta về tổ chức,
lãnh đạo cách mạng, nhân tố cơ bản đảm bảo cho thắng lợi.
Khái quát quy luật đặc thù của con đường hình thành Đảng cộng sản
Việt Nam trong bài “ 30 năm hoạt động của Đảng” Người viết Chủ nghĩa

Mác- Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã
dẫn tới việc thành lập đảng thực sự là một sự sáng tạo,là một cống hiến quan
trọng của Người, thể hiện qua trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng như của các thế hệ công sản Việt Nam là từ công nhân yêu nước đến
với chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa quốc tế vô sản; từ giác ngộ dân tộc phát triển
đến giác ngộ giai cấp, kết hợp nhân thức về vấn đề này cũng có ý nghĩa rất
lớn trong sự nghiệp xây dựng Đảng, với yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh và đáu
tranh giai cấp ngày càng phát triển. Ngay từ đầu Người đã nhận rõ cách
mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Sự
nghiệp cách mạng của nhân dân góp phần thực hiện những mục tiêu cơ bản
của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Người
đã kết hợp một cách thiên tài cuộc đấu tranh giành độc lập và cuộc đấu tranh
vì quyền lợi của quần chúng bị bọn phong kiến và giai cấp bóc lột áp bức,
Người đã tìm ra con đường kết hợp giữa những tư tưởng yêu nước của các
dân tộc với sự cần thiết phải giải thoát cho họ khỏi sự bóc lột.
Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định trong thời đại ngày nay, giai cấp công
nhân là giai cấp duy nhất và độc nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách
mạng đến thắng lợi cuối cùng. Giai cấp nông dân là lực lượng cách mạng to
lớn, là đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân, nhưng vì nông dân mang
tính chất phân tán, tư hữu , nên không thể coi nông dân là lực lượng lãnh đạo
cách mạng. Người đã phê phán trào lưu cơ hội thổi phồng vai trò của nông
dân và các tầng lớp, gia cấp khác mà không thấy vai trò, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam và Ngưòi cũng phê phán
khuýnh hướng cô độc , hẹp hòi, chỉ thiên về công nông mà không thấy hết
vai trò, sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng chung.
- Thứ tư là Hồ Chí Minh đã đưa Chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt
Nam và từ đó dấy lên khắp trong nước một làn sóng cách mạng mạnh mẽ,
dẫn đến việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương, đánh dấu một bước
ngặt cơ bản trong lịch sử nước ta và nói cho đúng hơn là ba nước Đông
Dương. Người đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin để

vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng
thắng lợi. đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân rồi chuyển
ngay lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước nong nghiệp vốn là
thuộc địa. Đó là giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Với lý luận của Người về cách mạng thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh dày
công đặt nền móng tư tưởng cho việc xây dựng đường lối cách mạng của
Đảng. Một sự tổng hợp những quan điểm chiến lược có tính chỉ đạo lớn về
chính tri và lý luận, về nhân thức và hoạt động về phương pháp và mục tiêu
chiến thắng kẻ thù và xây dựng đất nước. Nắm vững đường lối ấy của
Người, chúng ta có căn cứ khoa học để hiểu, vì sao đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại có thể kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sứ mạnh chủ nghĩa
xã hội, sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, gắn liền cuộc
chiến đấu của nhân dân ta với thế tiến công của ba dòng thác cách mạng thế
giới.
2.1.2 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với phong trào cách mạng từ 1930-
1931 và phong tràocXô Viết Nghệ - Tĩnh
Ngay từ khi mới ra đời , nhờ có đường lối đúng đắn, Đảng ta đã tổ
chức và lãnh đạo một cao trào cách mạng xưa nay chưa từng có ở nước ta,
xây dựng đựoc khối liên minh công nông và thành lập được chính quyên Xô
Viết ở nhiều nơi trong tỉnh Nghệ- Tĩnh. Đó là bản chất anh hùng ca đầu tiên
trong lịch sử đấu tranh anh dũng của Đảng ta. Trong thời gian khoảng chừng
một tháng ở Liên Xô, Người còn làm những nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản
giao. Vào cuối tháng 5-1930, Người quay trở lại Hồng Kông. Tại đây Người
đã nhận được tin tức về phong trào cách mạng trong nước, cùng những báo
cáo về hoạt động của Đảng trong quần chúng công nhân, binh lính và bà con
người Việt Nam ở Thượng Hải. Tại Thượng Hải, Nguyễn Ái Quốc họp với
Nguyễn Lương Bằng, Hồ Tùng Mậu, Đỗ Ngọc Du và Lưu Quốc Long ,
hướng dẫn họ cách vận động cách mạng trong binh lính, làm báo Kèn gọi
lính. Người còn giới thiệu đồng chí Nguyễn Lương Bằng với đồng chí Thái
Sướng, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, để được giúp đỡ trong công

tác binh vận ở Thượng Hải. Vào cuối tháng 9-1930, Nguyễn Ái Quốc báo
cáo với Quốc tế Cộng sản về việc cố gắng thu xếp “một cuộc họp của Trung
ương để quyết định mọi việc” [6, 51 – 52] và đến tháng 10-1930, Người
tham dự Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam họp tại Hồng Kông. Hội nghị quyết định thông qua: Dự thảo
Luận cương cách mạng tư sản dân quyền do Trần Phú soạn thảo, đổi tên
Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu Trần Phú làm Tổng Bí thư
của Đảng.
- Một là Người thường xuyên theo dõi tình hình để chỉ đạo phong
trào cách mạng: Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cao trào đấu
tranh cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng phát triển
mạnh, mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Phong trào bùng nổ từ tháng 5,
nhưng phát triển đến đỉnh cao ở Nghệ An, Hà Tĩnh vào các tháng 9, 10 và
kéo dài sang đầu năm 1931. Người theo dõi sát sao diễn biến phong trào
cách mạng trong uớc và các sự kiện ở Nghệ - Tĩnh, Một mặt Người chỉ thi
cho Trung ương phải nhanh chóng có kế hoạch chống địch khủng bố, bảo vệ
dân , bảo vệ tổ chức Đảng.đặc biệt là tố cáo và làm cho thế giới biết về sự
đàn áp tàn bạo và Người ghi lại những con số thống kê rùng rợn về số người
chết trong các cuộc biểu tình lớn, đặc biệt trong cuộc biểu tình ngáy 1 tháng
5 năm 1930 ( làm 7 người chết, bị thương 18 người và bắt đi 98 người),
ngày 12 tháng 9 thực dân Pháp lại tiếp tục đàn áp dã man, làm “chết 217
người, bị hương 125 người, đốt cháy 227 nóc nhà. Hai làng Lộc Châu và
Lộc Hải bị triệt hại hoàn toàn.” [1, 260].Sau khi đánh giá ý nghĩa to lớn của
cao trảo cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh, Người viết : “ Tuy đế
quóc Pháp đã dập tắt phong tào đó trong một biển máu, nhưng Xô viết Nghệ
Tĩnh đã chứng tỏ tinh thàn oanh lịêt và năng lực cách mạng của quần chúng
nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện
lực lượng cho cuộc Cách mạng thánh Tám tháng lợi sau này” [5, 211].
- Hai là Người thường xuyên báo cáo tình hình, diễn biến của phong
trào cho Quốc tế vô sản …đề nghị được giúp đỡ: Nguyễn Ái Quốc đã gửi

thư, báo cáo cho Quốc tế Cộng sản và Quốc tế Nông dân, đề nghị giúp đỡ
các nạn nhân bị khủng bố. Đồng thời vơi tư cách là người đại diện của Quốc
tế Công sản, người đưa ra những lời khuyên bảo đối với Đảng vừa mới được
thành lập, đồng thời nhấn mạnh việc phải làm cho nông dân hiểu rõ: Cần
tiến hành kết hợp đấu tranh kinh tế với chính trị, làm cách mạng ruộng đất
“chứ không phải để tiến hành một cuộc khởi nghĩa địa phương” [6, 567]. Cơ
quan an ninh Đông Dương, được biết ít nhiều vì sao các mối quan hệ của
Người đối với những hoạt động cách mạng trong nước, và cho rằng Người
chỉ đạo toàn bộ phong trào và Người đã làm việc này ngay cả khi người ỏ
Hồng Kông, từ khi Người còn ở Thái Lan. Nhưng Nguyễn Ái Quốc không
chỉ là người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương từ nước ngoài. Là
người phụ trách khu vực Đông Nam Châu Á trong Quốc tế Cộng sản, Người
thúc đấy hoạt động, chính sách trong toàn bộ khu vực khi Người ở Thái Lan,
Malaixia, Singapo.
Ngày 19/2/1931 với bí danh là Víctor Người gửi các bức thư gửi
Quốc tế Cộng sản và các bài viết kêu gọi ủng hộ phong trào đấu tranh của
nhân dân Việt Nam, đặc biệt là Xôviết Nghệ Tĩnh, Nguyễn Ái Quốc đã giới
thiệu tóm tắt tình hình địa lý, nhân văn, hành chính và phong trào cách mạng
của hai tỉnh, tố cáo những thủ đoạn đàn áp dã man của thực dân Pháp và
phong kiến Nam triều “ Nhân dân đói khát và nơi ăn chốn ở rất khổ sở, sưu
thuế nặng nề và nạn áp bức chính trị làm cho cảnh ngộ của họ càng cùng cực
hơn”[3, 73]. Hồ Chí Minh khẩn thiết đề nghị với Quốc tế cộng sản, các tổ
chức quốc tế, các đảng anh em có những hình thức đấu tranh phối hợp ủng
hộ, góp ý kiến và trao đổi kinh ngiệm đấu tranh, giúp đỡ về tinh thần và về
vất chất, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh anh dũng của nhân
dân Việt Nam nói chung và phong trào Xôviết Nghệ Tĩnh nói riêng về mọi
mặt, góp phần ngăn chặn sự đàn áp đẫm máu của bọn đế quốc đối với phong

×