Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Lòng yêu nước trong văn bản trung đại SGK ngữ văn 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.92 KB, 27 trang )

PHÒNG GD&ĐT MỸ ĐỨC
TRƯỜNG THCS AN TIẾN

-

-----------------

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘCLẬP -TỰDO -HẠNHPHÚC
___________ o0o__________

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Lòng yêu nước trong văn bản Trung Đại SGK Ngữ văn 8

SƠ YẾU LÝ LICH:
-

Họ và tên
Ngày, tháng, năm sinh
Năm vào ngành
Chức vụ và đơn vị công tác
Trình độ chuyên môn
Hệ đào tạo
Bộ môn giảng dạy
Trình độ chính trị
Kỷ luật

: DƯƠNG HỒNG LIÊN
: 19 / 6 / 1977 .
: 2005
: Giáo viên trường THCS An Tiến


Mỹ Đức , Hà Nội .
: Đại học sư phạm
: Từ xa
: Ngữ văn
: Sơ cấp
: Không

2


A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học Trung Đại là một bộ phận quan trọng của văn học dân tộc. Nó chiếm
một vị trí quan trọng trong chương trình ở trường phổ thông và là phần mở đầu cho
nền văn học viết của dân tộc. Nếu văn học dân gian, ở không ít tác phẩm tiếng Việt
còn mộc mạc, giản dị, thì ở nhiều tác phẩm văn học trung đại, ngôn từ đã đạt mức
điêu luyện, tinh xảo, đặc biệt với những tác phẩm văn học thể hiện lòng yêu nước,
chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc, mỗi câu chữ, giọng văn, thể văn đều
thể hiện thống thiết tính dân tộc sâu sắc. Biểu hiện cao nhất của tính dân tộc là lòng
yêu nước. Mỗi văn bản thời trung đại được viết ra đều nhằm một mục đích duy
nhất là giáo dục, định hướng con người đồng nhất cao nhất về đoàn kết dân tộc, mà
biểu hiện của nó, cụ thể hơn bao giờ hết thể hiện khi Tổ Quốc lâm nguy. Giọng văn
hùng hồn, dõng dạc, đĩnh đạc, nhiệt huyết của người viết.Yêu nước bằng những
việc làm hiện hữu. Mỗi người thể hiện yêu nước bằng nhiều cách khác nhau, tuy
nhỏ- lớn tùy vào khả năng, điều kiện. Thời Trung Đại, yêu nước chủ yếu gắn liền
với bảo vệ núi sông, lập công danh bằng những chiến công hiển hách. Tuy nhiên,
yêu nước cũng lập công danh bằng khoa bảng.
Bác Hồ đã nói: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng
bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu
kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý

kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền,
tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực
hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”. Tức là, với từng đối tượng
cụ thể, trong từng hoàn cảnh cụ thể, cần có biện pháp giáo dục tinh thần yêu nước
phù hợp để tinh thần yêu nước đó biến thành hành động cụ thể, góp phần xây dựng
và phát triển đất nước. Việc làm này được bắt đầu từ tầng lớp thanh thiếu niên; biến
những bài học cụ thể thành lòng yêu nước thực sự trong tâm hồn thế hệ trẻ Việt
Nam, tiếp nối truyền thống yêu nước ngàn năm của lịch sử dân tộc.
Hiện nay, giáo dục lòng yêu nước trong điều kiện mới không nên đi theo lối cũ.
Phải thay đổi tư duy, đề cao sự cởi mở, thẳng thắn, trao đổi nhiều chiều; kết hợp
thuyết phục với khơi gợi. Trong thời kì hội nhập, ảnh hưởng của tư tưởng, lối sống
cho riêng mình, lấy lợi ích cá nhân làm lẽ sống thì càng cần phải giáo dục lòng yêu
nước tích cực hơn, sát sao hơn nữa. Tiếp thu những tinh hoa của thế giới nhưng
cũng phải biết phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc.
Hơn nữa, việc dạy và học các môn khoa học xã hội còn nảy sinh biết bao nhiêu câu
chuyện bi hài, làm thầy cô giáo chúng tôi không biết nên cười hay nên khóc. Sự
yếu kém, thờ ơ, lạnh nhạt của học sinh đối với các bộ môn xã hội ngày càng gia

3


tăng, ít nhiều đã và đang bào mòn, suy giảm lòng đam mê, tâm huyết của đội ngũ
giáo viên dạy các môn xã hội.
Trong khi đó, các môn khoa học tự nhiên, như Toán, Lý, Hóa ngày càng có nhiều
ưu thế hơn, được hầu hết học sinh các cấp coi trọng hơn, dồn gần hết thời gian và
công sức để học tập các môn đó.
Phải chăng là kiến thức chuyên môn cũng như cách dạy của thầy cô giáo dạy môn
xã hội không bằng thầy cô giáo dạy các môn tự nhiên?Thực tế, nguyên nhân này
xem ra không mấy thuyết phục, vì chưa chắc các môn tự nhiên học sinh coi trọng,
học nhiều là có đội ngũ giáo viên tốt hơn, giỏi hơn. Căn nguyên sâu xa của nó, theo

chúng tôi suy nghĩ, chủ yếu do những nguyên nhân sau đây:- Nhiều học sinh (kể cả
phụ huynh) còn xem thường các môn khoa học xã hội, luôn cho nó là môn phụ,
môn học chỉ cần thuộc bài, môn chẳng mấy quan trọng, nên không cần phải tư duy,
suy nghĩ gì, học hành sơ sơ hoặc qua loa cũng chả sao.
Số đông học sinh khi lên cấp học trên có xu hướng học lệch, học một cách thực
dụng, thi gì học nấy. Vì coi trọng việc học và thi các môn khoa học tự nhiên thì cơ
hội vào ngành, nghề sẽ hết sức rộng rãi và hấp dẫn.
Còn coi trọng việc học các môn khoa học xã hội thì cánh cửa vào ngành, nghề rất
hẹp, không sư phạm thì tổng hợp, báo chí chứ biết chạy đâu, vả lại khi ra trường,
làm việc thuộc các ngành khoa học xã hội, cuộc sống vật chất không dễ dàng gì,
nhiều khi rất lao đao, vất vả.
Trước sức cuốn hút mạnh mẽ của cơ chế thị trường, mọi người đua nhau làm giàu,
đâu phải lúc để cho những suy ngẫm về dân tộc. Mặt khác, những điều tốt đẹp, đạo
lí cao cả, tính nhân văn sâu sắc là những vật trìu tượng không nhìn thấy... trong khi
đó thì thực tế cuộc sống lại hết sức phức tạp, biết bao chuyện xấu xa, mất công
bằng, ngang trái... cứ phơi bày ra đấy. Nhiều tiêu chí, mục đích chân thực, gần gũi
với cuộc sống, có sức hấp dẫn cuốn hút, kích thích sự đam mê tìm tòi, khám phá
của đối tượng học sinh cũng cần thiết. Phải chăng đây là thử thách đối với người
làm công tác giáo dục mặt xã hội, với người có tâm huyết về dân tộc.
Vì thế, việc giảng dạy văn bản phần văn học Trung Đại không chỉ làm cho học sinh
hiểu và cảm được cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ mà còn có khả năng rèn
luyện, tích tụ lòng yêu nước cho các em, nhất là tuổi hình thành nhân cách bậc
THCS
II.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh
nghiệm chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh Lớp 8A của trường THCS An Tiến- Mỹ
Đức -Hà Nội trong năm học 2012 - 2013.
Chương trình Trung học cơ sở ban hành năm 2002 , nội dung chương trình
quy định văn bản được học 37 tiết ở lớp 8, trong đó những văn bản Trung Đại là 4
tiết.Chính vì thế trong sáng kiến kinh nghiệm này ,tôi chỉ đề cập đến Lòng yêu

nước trong văn bản Trung Đại SGK Ngữ văn 8.
4


III.PHẠM VI- THỜI GIAN THỰC HIỆN
- Áp dụng vào hoạt động dạy - học ở lớp 8A Trường THCS AN Tiến -Mỹ Đức –
TP Hà Nội.
-Thời gian áp dụng : Học kì 2 của năm học 2012- 2013.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu các tài liệu: Sách giáo khoa Ngữ văn 8, Sách giáo viên Ngữ văn 8,
Sách thiết kế bài giảng Ngữ văn 8, Tài liệu đổi mới phương pháp dạy học ở trường
THCS, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III…
- Dự giờ thăm lớp, kiểm tra đối chiếu.
- Giảng dạy theo phương pháp mà đề tài đưa ra.

5


B- NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN
Không một ai tự nhận mình là người không yêu nước và lòng yêu nước là một
tình cảm có thật trong trái tim mỗi con người bởi nước gắn liền với nhà, với môi
trường sống, với đồng loại xung quanh. Yêu nước mới yêu đời và ngay cả những
người chán sống vì lý do nào đấy có thể họ nói “chán đời” nhưng chưa thấy ai nói
“chán nước”.
Đất nước là gốc rễ, là phần thiêng liêng trong tâm thức mỗi người và dường như
với một số người yêu nước chỉ là lòng dũng cảm, tinh thần hy sinh để bảo vệ nó
mỗi khi đất nước bị xâm lược. Gốc của lòng yêu nước là niềm tự hào về giang sơn,
về tên tuổi danh dự của quốc gia và là cả sự phẫn nộ, căm thù khi đất nước bị xâm
lăng. Khi có ngoại xâm, cả dân tộc bằng lòng yêu nước từ mỗi trái tim đa kết dính

lại một khối thành một sức mạnh vô địch thắng mọi kẻ thù, thế nhưng trước giặc
“nội xâm”, dường như khối kết dính đó lại có phần rời rạc bởi có người quên nước,
chỉ nghĩ đến nhà. Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thường không quá 10
năm nhưng trước giặc nội xâm sao lâu tới ngày toàn thắng đến vậy.
Lòng yêu nước không chỉ làm chúng ta thấm thía nỗi nhục mất nước để toàn dân
phải đấu tranh chống áp bức, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc mà còn phải biết
lo lắng trong hòa bình khi đất nước thân yêu của mình bị tụt hậu so với các quốc
gia khác. Mọi niềm tự hào đều bắt đầu từ tình yêu và chính niềm tự hào về đất nước
ấy làm nên lòng tự tôn dân tộc, tính tự trọng công dân.
Không thể có lòng yêu nước thực sự nếu ai đó vì lợi ích của mình, của nhóm lợi ích
mình tham gia chà đạp lên lợi ích cộng đồng. Có thể yêu nước được không nếu như
có lúc và nhiều lúc cầm những đồng tiền không phải từ giá trị lao động cống hiến
của mình thản nhiên đút túi hoặc cất vào tủ. Cũng không thể có một người yêu
nước nào có thể vô cảm trước nỗi đau đồng loại và trước những bất cập trong cuộc
sống. Và thật buồn khi hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng vẫn
xuất hiện những chuyện buồn đi ngược với truyền thống đạo lý dân tộc làm ảnh
hưởng tới danh dự quốc gia, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Lòng yêu nước thật giản dị khi mỗi con người trên đất nước ấy làm tốt công việc
của mình. Yêu nước không chỉ là sự hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc mà còn là
trách nhiệm với đồng bào, với tài sản quốc gia không bị thất thoát, với khát vọng
góp sức làm dân giàu nước mạnh. Một hành động chạy lại thùng rác để vứt rác ở
nơi thắng cảnh hoặc không xả rác ra đường cũng là hành động yêu nước bởi vẻ đẹp
đất nước không thể bị bôi bẩn dù là vô tình. Những cán bộ công không hạch sách,
nhũng nhiễu người dân cũng là hành động yêu nước. Những người tiếp xúc với
người nước ngoài có thái độ thân thiện cũng là biểu hiện của lòng yêu nước. Mỗi
người đều sống và làm việc bằng cái tâm và trách nhiệm với đất nước thì đất nước
ấy chẳng mấy chốc hóa rồng. Hóa ra kẻ thù trong chiến trận dễ nhận ra nên lòng
6



yêu nước có trong mỗi người đã làm nên chiến thắng, song kẻ thù của sự thịnh
vượng quốc gia trong thời bình lại nằm ở trong... chính mỗi người với những toan
tính cá nhân nên cuộc chiến chống nội xâm, vì sự phát triển của xã hội vẫn cứ là
cuộc chiến “trường kỳ” chăng!?
Đã đến lúc phải có chiến lược củng cố, xây dựng niềm tự hào về đất nước bắt đầu
cụ thể từ lòng tự trọng của mỗi công dân, uy tín của từng trường học, công sở, tổ
dân phố, thôn làng... Khi có niềm tự hào về cơ quan, đoàn thể, địa phương, người ta
sẽ sống là hành xử vì nó, giữ gìn và phát huy nó. Và lòng yêu nước không thể
chung chung nếu như không bắt đầu từ những điều cụ thể, gần gũi nhất...
Môn Ngữ văn được xem là trọng tâm của bộ môn khoa học xã hội – nhân văn.
Điều đó có nghĩa là muốn nhấn mạnh vào những kiến thức xã hội và chất nhân văn
trong các tác phẩm văn chương.
Theo V. Bêlinxki – nhà phê bình văn học Nga: “thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó
mới là nghệ thuật”. Vậy nên, trước hết cần phải giúp học sinh hiểu đời trước rồi
mới hiểu văn thơ sau. Học sinh chưa hiểu đời sẽ khó tiếp thu cái đẹp của văn
chương nghệ thuật. Cái hay, cái đẹp của văn chương sẽ được học sinh tiếp nhận
trong cả một quá trình xuyên suốt chứ không phải chỉ ở một vài tiết học trên lớp. Vì
thế giáo viên cần phải giúp học sinh nắm vững kiến thức xã hội qua bài đọc văn tác
phẩm văn chương.
Giá trị đích thực của một tác phẩm văn chương chính là chất nhân văn. Mọi đề tài,
chủ đề, tư tưởng cũng như mọi biện pháp nghệ thuật của một tác phẩm văn chương,
chung qui lại đều đọng vào những giá trị nhân văn nhất định. Bởi vì, mục tiêu, chức
năng của văn học là nhân đạo hóa con người. Văn chương không phải là một cách
đem đến cho người đọc sư thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí
giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả
dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn “(Thạch
Lam)”. Nó ca tụng lòng thương, tính bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần
người hơn “(Nam Cao)”.
Điều đó có nghĩa là nói đến chức năng nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ của tác
phẩm văn chương. Văn học cung cấp cho người đọc những hiểu biết toàn diện về

xã hội và con người “văn học là nhân học” (Gorki), từ những hiểu biết đó con
người sẽ sống đẹp và có khát vọng, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Muốn học
sinh hiểu được chất văn, chất đời, chất người của tác phẩm văn chương phải làm
sao tạo nên sự rung động thật sự, sự cảm nhận chân thành từ phía học sinh.
Để truyền thụ và lĩnh hội kiến thức về Lòng yêu nước ,người dạy và người
học cần nắm vững hệ thống các bài học của văn học Trung Đại theo thời gian của
các triều đại
gồm :
- Tìm hiểu thể Chiếu và văn bản Chiếu dời đô.
- Tìm hiểu thể Hịch và văn bản Hịch Tướng sĩ.
- Tìm hiểu thể Cáo và văn bản Nước Đại Việt ta.
- Tìm hiểu thể Tấu và văn bản Bàn luận về phép học.
7


II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Việc dạy và học văn học trung đại Việt Nam đến nay vẫn còn là nỗi khốn khổ,
gây nhiều khó khăn, phiền toái cho người dạy lẫn người học. Hiểu được những tác
phẩm đó chẳng phải là chuyện dễ dàng gì; truyền thụ cái hay, cái đẹp của nó cho
người học hiểu được lại càng khó khăn gấp bội phần. Vấn đề có nhiều nguyên
nhân, mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là rào cản ngôn ngữ, bởi những tác phẩm ấy
đều viết bằng ngôn ngữ Hán văn cổ hay chữ Nôm có phần xa lạ với ngôn ngữ
Tiếng Việt hiện đại hôm nay. Thêm vào đó là người tiếp nhận văn bản dù muốn
hay không là phải có một kiến thức nền khả dĩ, ít nhiều phải hiểu rõ môi trường văn
hoá trung đại, tư tưởng ý thức hệ chính thống thời trung đại, điển cố điển tích, thể
loại văn học v.v.. Chỉ bấy nhiêu thứ cũng đủ làm cho người dạy lẫn người học đau
đầu, mệt trí thì thử hỏi làm sao mà lắng lòng, mà bình tâm để cảm nhận cho được
cái tinh hoa cùng vẻ đẹp của văn chương qua cách biểu đạt rất kiệm lời của các bậc
thi nhân tiền bối đã gởi gắm trong từng câu chữ. Ở đây, tôi có cái may mắn là có 20
năm tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy về nó, nên bản thân cũng có vài trăn trở.

Những trăn trở này xin được mạo muội ghi lại đây để đồng nghiệp cùng suy nghĩ
và góp ý, với thiện tâm là làm sao giúp cho việc dạy và học các tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Những trăn trở, suy nghĩ này
không chỉ là của riêng bản thân người viết bởi có một số ý kiến sẽ nêu ở đây bạn
đọc đã từng bắt gặp trên các tạp chí, các công trình của các nhà nghiên cứu bậc
thầy đã phát biểu rồi, tôi chỉ là người tổng thuật lại, có kết hợp thêm ý kiến của
mình mà thôi.
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh).
Hiện nay, trước sự biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, cùng
với những tiến bộ nhảy vọt trong cách mạng khoa học và công nghệ, xu hướng toàn
cầu hoá kinh tế tạo ra nhiều thời cơ, vận hội mới cho sự vươn lên mạnh mẽ của
nhiều nước; đồng thời cũng đặt các nước đang phát triển vào những nguy cơ tiểm
ẩn không lường. Sự tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn tại khu vực các nước
đang phát triển, mà Đông Nam Á là một điển hình, ngày càng phức tạp. Xung đột
vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố quốc tế vẫn diễn biến ngày càng
phức tạp. Đặc biệt, sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước
ta thông qua chiến lược “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng là một vấn đề
hết sức lưu ý. Trong bối cảnh đó, công tác giáo dục thế hệ trẻ, nhất là giáo dục lòng
yêu nước, lòng tự hào dân tộc là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cấp bách
đối với sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
thanh thiếu niên Việt Nam, đòi hỏi phải có hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ
và khoa học.
Xã hội hiện nay phát triển rất nhanh và mạnh về kinh tế dẫn đến nhiều mối quan
hệ xã hội bị rạn nứt, phân hóa, rất nhiều giá trị đạo đức bị bào mòn, gặm nhấm. Vì
8



thế, môn ngữ văn phải làm sao lưu giữ được những gì đang bị băng hoại trước cơn
lốc thị trường, trước sự bào mòn về nhân cách con người, trước sự sa sút về ý thức
trong giới trẻ ngày nay. Việc dạy văn hiện nay trở nên khó khăn hơn trước những
biến động phức tạp của cuộc sống đời thường. Cho nên, giáo viên dạy văn một mặt
phải hướng trang văn ra với đời sống xã hội, với cuộc sống hiện tại một mặt phải
chắt chiu những giá trị nhân văn của tác phẩm văn học.
Lòng yêu nước càng cần thiết hơn khi vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo Hoàng
Sa – Trường Sa của Việt Nam đang trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Tràn ngập
trên các diễn đàn, các mạng xã hội là vô vàn những ý kiến công khai về biển đảo
Hoàng Sa, Trường Sa. Hầu hết là thái độ chỉ trích, phê phán gay gắt về cái gọi là
“đường lưỡi bò” và các hành động mà Trung Quốc vi phạm chủ quyền biển đảo
Việt Nam.
Trước những cơ sở trên, tôi đã kiểm chứng về lòng yêu nước của học sinh lớp 8A.
Cụ thể:
- Đặt câu hỏi hiểu biết về tình hình Trường Sa- Hoàng Sa.
- Thái độ của em về tình cảm đối với quê hương đất nước.
- Những biểu hiện của lòng yêu nước.
Những câu hỏi đó khiến tôi không thể khỏi bàng hoàng, các em thờ ơ một cách lạ
lùng, mà tưởng như một trận Game trong mạng. chơi mãi cũng chỉ là trò chơi. Tôi
cứ bị những điều đó ám ảnh, chẳng nhẽ những kiến thức về lòng yêu nước, tự tôn
dân tộc mà bao đời ông cha ta gìn giữ, lưu truyền, gửi gắm tâm huyết cho con cháu
lại bị hậu duệ lãng quên, tôi quyết định tìm phương pháp mới trong giảng dạy nhằm
đưa học sinh định hướng tốt hơn, cụ thể hơn về lòng yêu nước.
III. NỘI DUNG CỦA VẤN ĐỀ:
Ôi Tổ Quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.
Lòng yêu nước trở thành truyền thống của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó
không thể để bất kì một cá nhân nào vì lợi ích cá nhân làm mai một. Chúng ta hãy

cùng nhau vun đắp cho lòng yêu nước ngày càng được biểu hiện nhiều hơn, cụ thể
hơn, trên mọi phương diện khác nhau.
Là giáo viên dạy văn, ngoài việc cung cấp kiến thức xã hội cho học sinh, tôi còn
hướng các em, trau dồi cho các em tình yêu tổ quốc sâu đậm.
Cứ theo chiều dài dân tộc, tôi hướng học sinh về với cội nguồn, tìm về với tổ tông,
hiểu Lòng yêu nước của ông cha như thế nào.
Mở đầu thời kì oai hùng của dân tộc là triều Lý với Chiếu dời đô của Lý Công
Uẩn, rồi tiếp theo là triều Trần với Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, đến triều
Hậu Lê với Nước Đại Việt Ta ( trích Bình Ngô đại Cáo) của Nguyễn Trãi.
Khi dạy các văn bản trung đại trong chương trình ngữ văn 8, tôi cho học sinh tìm
hiểu thể loại văn học trước, sau đó tìm hiểu nội dung, nghệ thuật văn bản để hiểu
thời đại, lòng yêu nước của họ.
9


* Hiểu thể loại văn học để hiểu tác giả.
? Em hiểu thể “ Chiếu” trong thể loại văn học là gì?
Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh. Chiếu có thể được viết bằng
văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi; được công bố và đón nhận một cách trang
trọng. Một số bài chiếu thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến vận
mệnh của cả triều đại, đất nước nhằm thuyết phục mọi người về việc dời đô...
? Em hiểu thể “ Hịch” trong Hịch Tướng sĩ là gì?
Hịch là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ
lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chống thù
trong giặc ngoài. Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lí lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết
phục. Đặc điểm nổi bật của Hịch là khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe. Hịch
thường được viết theo thể văn biền ngẫu. Kết cấu của bài hịch có thể thay đổi linh
hoạt tùy theo mục đích và nghệ thuật lập luận của tác giả.
? Em hiểu thể “ Cáo” trong Bình Ngô Đại Cáo là gì?
Cáo là thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình

bày một chủ trương hay công bố kết quả một sự nghiệp để mọi người cùng biết.
Cáo phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu. Cũng như hịch, cáo là thể văn có
tính chất hùng biện, do đó lời lẽ phải đanh thép, lí luận phải sắc bén, kết cấu phải
chặt chẽ, mạch lạc.
? Em hiểu “ Tấu ” trong Luận phép học là gì?
Tấu là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên vua chúa để trình bày sự
việc, ý kiến, đề nghị. Tấu có thể viết bằng văn xuôi hay văn biền ngẫu, văn vần.
- Sau khi học sinh nêu thể loại, Giáo viên có thể bổ sung những chỗ còn thiếu sót
hoặc khen ngợi học sinh có câu trả lời đúng. Dùng câu hỏi tổng hợp để gợi ý học
sinh tìm ra nét chung của 4 thể loại văn học này là yêu nước thương dân.
? Em hãy tìm những nét chung, riêng của 4 thể loại văn học này?
Giống:
- Đều là thể văn nghị luận trung đại cổ.
- Đều được viết bằng văn biền ngẫu, văn xuôi, văn vần,...
- Lí lẽ,, dẫn chứng chặt chẽ, thuyết phục
- Riêng chiếu, hịch, cáo thì đều do vua, chúa, thủ lĩnh,... viết.
Khác:
* Chiếu:
- Là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh, buộc thần dân phải tuân theo.
- Một số bài chiếu có tư tưởng chính trị lớn lao, ảnh hưởng tới vận mệnh đất nước.
* Hịch:
- Là thể văn do vua chúa dùng để khích lệ, cổ vũ nhân dân tham gia vào phong trào
chống thù trong giặc ngoài.
- Mang tính chất khích lệ động viên.
- Bố cục 1 bài hịch nói chung gồm 4 phần:
+ P1: Nêu vấn đề
10


+ P2: Nêu truyền thống lịch sử vẻ vang

+ P3: Nhận định tình hình
+ P4: Nêu chủ trương kêu gọi
* Cáo:
- Là thể văn do vua chúa dùng để công bố kết quả cho toàn dân biết.
- Cáo gồm 4 phần:
+ P1: Nêu luận đề chính nghĩa
+ P2: Chứng minh tội ác của quân giặc
+ P3: Kể lại quá trình kháng chiến
+ P4: Khẳng định sức mạnh nhân nghĩa
* Tấu:
- Là thể văn do bề tôi dùng để trình bày với cua chúa 1 vấn đề, sự việc, tình hình,..?
? Những nét chung đó cho ta hiểu gì về thời đại mà họ đang sống ?
- Một là, thời đại độc lập dân tộc thống nhất đất nước, cộng đồng.
- Hai là, thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước.
- Ba là, thời đại khoan giản, an lạc nhân thứ, rộng mở và dân chủ.
? Em hiểu gì về ý thức,trách nhiệm của họ đối với non sông đất nước?
- Yêu nước gắn liền với lý tưởng trung quân ái quốc.
- Tự hào về truyền thống của dân tộc.
- Yêu con người, yêu ngôn ngữ dân tộc.
- Căm thù giặc, quyết tâm đánh giặc cứu nước.
? Hoàn cảnh ra đời Chiếu dời đô?
Định đô, lập nước là 1 trong những công việc quan trọng nhất của một quốc
gia. Với khát vọng xây dựng một đất nước Đại Việt hùng mạnh và bền vững muôn
đời, sau khi được triều thần suy tôn lên làm vua, Lí Công Uẩn đã đổi tên nước từ
Đại Cồ Việt thành Đại Việt, đặt niên hiệu là Thuận Thiên (thuận theo trời). Năm
canh thân (1010), khi ông được triều thần tôn lên làm vua, ông đã viết bài chiếu để
bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư-Ninh Bình về thành Đại La-Hà Nội và quyết định
dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La-sau đổi tên thành Thăng Long
(Rồng bay). Vua ban Thiên chiếu cho triều đình và nhân dân được biết.
Trần Quốc Tuấn là người biết đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hiềm khích

của được thiên hạ để trả thù cho cha, khi cha ông bị vua Trần Thái Tông cướp vợ.
Vì quyền lợi quốc gia, Trần Quốc Tuấn đã không làm theo lời cha dặn, ông đã một
lòng trung nghĩa với vua, với nước. Trần Quốc Tuấn đã phò vua và giúp vua đánh
đánh bại kẻ thù. Khi ông mất, vua Trần đã phong cho ông tước Hưng Đạo Vương.

11


?Bài hịch ra đời trong hoàn cảnh nào ?
Theo Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam (XB 1987) thì bài hịch này được
công bố vào 9.1284 tại cuộc duyệt binh ở Đông Thăng Long. Trong 3 cuộc kháng
chiến chống Mông-Nguyên thời Trần thì cuộc kháng chiến lần 2 là gay go, quyết
liệt nhất. Giặc cậy thế mạnh ngang ngược, hống hách. Ta sôi sục căm thù quyết tâm
chiến đấu. Nhưng trong hàng ngũ tướng sĩ cũng có người dao động, có tư tưởng
đầu hàng. Vì vậy tư tưởng chủ đạo của bài hịch là nêu cao tinh thần quyết chiến
quyết thắng. Đây chính là thước đo cao nhất, tập trung tinh thần yêu nước trong
hoàn cảnh lúc bấy giờ.
? Hoàn cảnh ra đời Nước Đại Việt ta?
Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu ức Trai.Là nhà yêu nước, là anh hung dân tộc,
là danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Trãi không phải chỉ là tác giả của những bài
thơ nôm phú tuyệt vời như Cửa biển Bạch Đằng, Bến đò xuân đầu trại…mà còn là
tác giả của Bình Ngô đại cáo. Bản thiên cổ hùng văn, rất xứng đáng là bản tuyên
ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc. Sau khi đánh thắng giặc Minh năm 1427,Thừa
lệnh vua Lê, Nguyễn Trãi soạn thảo Bình Ngô Đại Cáo có ý nghĩa trọng đại của
một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi( tức
đầu năm 1428), sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan rã 15 van viện binh của
giặc, buộc vương Thông phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước.
? Hoàn cảnh ra đời của Luận phép học?
Nguyễn Thiếp là người Thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu từng đỗ đạt làm
quan dưới triều Lê. Nhưng sau đó từ quan về dạy học. Quang Trung mấy lần viết

thư mời ông cộng tácvới thái độ rất chân tình.Nên cuối cùng Nguyễn Thiếp cũng
giúp triều Tây Sơn góp phần phân xây dựng đất nước về mặt chính trị. Bàn về phép
học là một trong những văn bản quan trọng của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang
Trung vào tháng 8- 1781.Ba điều mà ông muốn gửi vua Quang Trung là Quân
Đức, Dân tâm, Học pháp.
Lịch sử đất nước Việt Nam có những trang vàng chói lọi là nhờ vào những vị
vua, vị tướng anh minh như Lý Công Uẫn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,… Họ là
tấm gương sáng ngời để đời sau soi vào đó mà học tập. Chúng ta tưởng nhớ đến
Bác Hồ đã lãnh đạo toàn dân giành độc lập ngày hôm nay. Chúng ta chắc chắn Bác
đã noi gương những người đi trước. Sống xứng đáng với sự hi sinh của họ. Bác đã
từng nói: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước". Và người cũng đã ân cần dạy tuổi trẻ "có tài mà không có đức thì là
người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó".
Sau khi thực hiện những nội dung cần đạt, giáo viên tiến hành cho học sinh tìm
hiểu về lí tưởng của thanh thiếu niên trong những cuộc kháng chiến chống ngoại
12


xâm. Đó là lí tưởng “dấn thân, nhập cuộc” với một ý chí quyết tâm thực hiện đến
cùng lí tưởng cách mạng. Sau đó yêu cầu học sinh trình bày lí tưởng của thanh
thiếu niên trong xã hội hiện nay.
* Hiểu nội dung, nghệ thuật để hiểu tác giả về lòng yêu nước
Văn bản Chiếu dời đô
1-Vì sao phải dời đô (luận điểm 1):
Hs đọc đoạn 1.
? Luận điểm trong văn nghị luận thường được triển khai bằng một số luận cứ (lí lẽ
và d.c). ở Đoạn 1, luận điểm vì sao phải dời đô được làm sáng rõ bằng những luận
cứ nào?
- 2 luận cứ: Dời đô là điều thường xuyên xảy ra trong lịch sử các triều đại; nhà
Đinh và nhà Lê đóng đô 1 chỗ là hạn chế.

? Ở luận cứ 1, những lí lẽ và chứng cớ nào được viện dẫn ?
? Những chứng cớ và lí lẽ mà tác giả đưa ra ở đây có sức thuyết phục không ? Vì
sao ?
? Ý định dời đô bắt nguồn từ kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy ý chí mãnh liệt nào
của Lí Công Uẩn, cũng như của dân tộc ta thời Lí ?
a-Dời đô là điều thường xuyên xảy ra trong lịch sử các triều đại (luận cứ 1):
-Nhà Thương 5 lần dời đô, nhà Chu 3 lần dời đô.
-Không phải theo ý riêng mà vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp
lớn, tính kế muôn đời cho con cháu.
-Khiến cho vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
->Chứng cớ và lí lẽ có sức thuyết phục. Vì nó có sẵn trong sử sách, ai cũng biết.
=>Thể hiện ý chí mãnh liệt là muốn noi gương sáng của các triều đại đi trước và
muốn đưa nước ta đến sự hùng mạnh lâu bền.
-Luận cứ 2 là gì ?
? Ở luận cứ 2, những lí lẽ và chứng cớ nào được viện dẫn ?
? Những chứng cớ và lí lẽ trên có sức thuyết phục không ? Vì sao ?
-Gv: Tính thuyết phục của lí lẽ dời đô được tăng lên khi tác giả lồng cảm xúc của
mình: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
? Những lí lẽ và cảm xúc của Lí Công Uẩn, đã thể hiện được tư tưởng và khát vọng
nào của ông ?
13


b-Nhà Đinh và nhà Lê đóng đô 1 chỗ là hạn chế (luận cứ 2):
-Hai nhà Đinh, Lê không noi theo dấu cũ, cứ đóng yên đô thành.
-Khiến cho triều đại không được lâu bền, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không
được thích nghi.
->Chứng cớ và lí lẽ có sức thuyết phục. Vì đó là sự thật được ghi trong sử sách.
=> Nước ta chưa ngang hàng với phương Bắc.
=>Thể hiện khát vọng muốn thay đổi đất nước để phương triển đất nước lâu bền và

hùng cường.
2-Vì sao thành Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất( luận điểm 2)
-Hs đọc đoạn 2.
? Luận điểm thứ 2 của bài được trình bày bằng những luận cứ nào ?
- 2 luận cứ: Cái lợi thế của thành Đại La và Đại La là thắng địa của đất Việt.
? Ở luận cứ 1, để làm rõ lợi thế của thành Đại La, tác giả đã dùng những chứng cớ
nào ?
? Em có nhận xét gì về những chứng cớ được đưa ra ở đây ? Vì sao ?
a-Cái lợi thế của thành Đại La( Luận cứ 1)
-Đại La là kinh đô cũ của Cao Vương.
-Nơi trung tâm trời đất.
-Có thế rồng cuộn hổ ngồi.
-Đúng ngôi nam bắc đông tây; tiện hướng nhìn sông dựa núi,...
->chứng cớ có sức thuyết phục. Vì chúng được phân tích trên nhiều mặt: lịc sử, địa
lí, dân cư.
b-Đại La là thắng địa của đất Việt ( Luận cứ 2)
? Luận cứ 2 là gì ?
? Theo em, đất như thế nào thì được gọi là thắng địa ? (Đất tốt, lành, vững có thể
đem lại nhiều lợi ích cho kinh đô).
? Lời tiên đoán của tác giả đã bộc lộ khát vọng gì ?
? Cuối bài chiếu, Lí Công Uẩn đã tuyên bố gì ?
? Lời tuyên bố của Lí Công Uẩn có ý nghĩa gì ?
?Bài chiếu có những nét đặc sắc gì về nội dung, nghệ thuật ?
? Qua bài chiếu, em hiểu thêm gì về vua Lí Công Uẩn ?
? Hs đọc diễn cảm bài chiếu
14


- Đại La sẽ là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô
bậc nhất của đế vương muôn đời.

=>Thể hiện khát vọng về một đất nước vững mạnh, hùng cường.
-Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào
?
=>Khẳng định ý chí dời đô là đúng đắn, là hợp mệnh trời, hợp ý dân.
=> Khẳng định nước ta ngang hàng với phương Bắc.
Văn bản Hịch tướng sĩ
-Hs đọc phần mở bài.
? Những nhân vật nào được nêu gương ?
? Những nhân vật ấy có địa vị như thế nào, có cùng thời đại không ?
? Họ có điểm chung nào để trở thành gương sáng cho mọi người noi theo ?
? Em có nhận xét gì về cách nêu dẫn chứng và cách viết câu văn của tác giả ? Điều
này đã đem lại hiệu quả gì cho đoạn văn ?
? Phần mở bài đã đảm bảo được chức năng nào của bài Hịch tướng sĩ ?
1-Nêu gương sáng trong lịch sử:
-Có người là tướng như Do Vu, Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang, Xích Tu
Tư.
-Có người là gia thần như Dự Nhượng, Kính Đức.
-Có người làm quan nhỏ coi giữ ao cá như Thân Khoái.
->Các nhân vật được nêu gương có địa vị cao thấp khác nhau, thuộc các thời đại
khác nhau.
=>Sẵn sàng chết vì vua, vì chủ tướng, không sợ hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ.
->Liệt kê dẫn chứng kết hợp với nhiều câu cảm thán – Có sức thuyết phục người
đọc và bộc lộ t.cảm tôn vinh, ngưỡng mộ đối với những gương sáng trong lịc sử.
=>Nêu gương sáng trong Lịch sử để khích lệ lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ
thời Trần.
2-Phân tích tình hình đich-ta:
- Học sinh đọc phần thân bài.

15



? Khi phân tích tình hình địch- ta, tác giả đã dùng những luận điểm nào ? (Tội ác
của giặc và lòng căm thù giặc; phê phán thói hưởng lạc cá nhân, từ đó thức tỉnh
tinh thần yêu nước của tướng sĩ).
? Ở luận điểm 1, tác giả đã nói tới "Thời loạn lạc và buổi gian nan", theo em đó là
thời kì lịch sử nào của nước ta ? (Thời Trần quân Nguyên- Mông xâm lược nước
ta).
?Trong thời buổi ấy, h/ả của kẻ thù được hiện lên qua những câu văn nào ?
? Em có nhận xét gì về các biện pháp nghệ thuật được sử dụng ở đoạn văn này (từ
ngữ, giọng điệu, biện pháp tu từ )?Tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó là gì ?
? Qua đoạn văn, h/ả kẻ thù hiện lên như thế nào ?
? Em có nhận xét gì về thái độ của tác giả khi viết đoạn văn này ?
? Đọc đoạn văn diễn tả lòng căm thù giặc, hãy chô biết, đoạn văn này được cấu tạo
như thế nào trên các phương diện: câu, liệt kê ý trong câu, cách dùng dấu câu, cách
dùng từ, giọng điệu? Cách cấu tạo ấy có tác dụng gì trong việc diễn tả tâm trạng
con người ?
? Theo dõi đoạn văn diễn tả tâm tình của chủ tướng đối với các tướng sĩ, em có
nhận xét gì vể sự liệt kê các câu văn trong đoạn văn ?
a-Tội ác của giặc và lòng căm thù giặc:
-Sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình,
đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, giả
hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng... Thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói.
->Từ ngữ gợi hình, gợi cảm kết hợp với b.p so sánh; giọng văn mỉa mai, châm
biếm – Khắc hoạ sinh động hình ảnh của kẻ thù, gợi cảm xúc căm phẫn cho người
đọc, người nghe.
=>Kẻ thù bạo ngược, vô nhân đạo, tham lam.
->Căm ghét, khinh bỉ kẻ thù và đau xót cho đất nước.
-Ta thường tới bữa quên ăn... vui lòng.
->Cả đoạn có 2 câu văn, mỗi câu có 2 ý liên kết với nhau (nỗi đau xót- nỗi căm hờn

kẻ thù), dùng nhiều dấu phẩy, nhiều động từ, giọng điệu thống thiết tình cảm – Cực
tả niền uất hận trào dâng trong lòng và khơi gợi sự đồng cảm trong lòng người đọc,
người nghe.
16


? Sử dụng câu văn biền ngẫu, có cấu tạo 2 vế song hành đối xứng ấy có tác dụng gì
trong việc diễn tả mối quan hệ chủ tướng ?
? Sau khi bày tỏ quan hệ thân tình, tác giả đã phê phán lối sống sai lầm nào của
tướng sĩ?
? Những biểu hiện đó cho thấy một cách sống nào bị phê phán ?
? Tác giả đã phân tích hậu quả của cách sống này bằng những câu văn nào ?
? Những lời văn đó đã bộc lộ được thái độ gì của tác giả ?
? Tiếp theo, tác giả đã khuyên răn tướng sĩ những điều gì, những câu văn nào nói
lên điều đó ?
? Những lời khuyên trên nhằm mục đích gì, những câu văn nào nói lên điều đó ?
? Theo em, trong 2 đoạn văn trên, tác giả đã thuyết phục người đọc, người nghe
bằng một lối nghị luận như thế nào ?
b-Phê phán thói hưởng lạc cá nhân, từ đó thức tỉnh tinh thần yêu nước của
tướng sĩ:
-Các ngươi ở cùng ta... kém gì.
->Liệt kê các câu có 2 vế song hành đối xứng (câu văn biền ngẫu) –
Diễn tả mối quan hệ gắn bó khăng khít không thể tách rời giữa chủ tướng đối với
tướng sĩ trên phương diện vật chất và tinh thần.
-Nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn,...
-Lấy việc chọi gà làm vui... hoặc mê tiếng hát.
=>Phê phán cách sống quên danh dự, quên bổn phận, cầu an hưởng lạc.
-Cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp... tiếng hát hay không thể làm cho giặc
điếc tai.
-Chẳng những thái ấp của ta không còn... lúc bấy giờ giẫu các ngươi muốn vui vẻ

phỏng có được không ?
=>Phê phán nghiêm khắc lối sống cá nhân, hưởng lạc của tướng sĩ.
-Nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào dưới đống củi" là nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh
nóng mà thổi rau nguội" làm răn sợ.
-Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên.
=>Phải biết lo xa và phải tăng cường tập võ nghệ.
-Có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt,... làm rữa thịt Vân Nam Vương,...
17


-Chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền... mà tên họ các ngươi cũng sử sách
lưu thơm.
=>Vừa chống được ngoại xâm, vừa giữ được nước nhà.
->Dùng nhiều điệp từ, phép liệt kê, từ ngữ có hình ảnh, phép so sánh, sử dụng câu
văn biền ngẫu, lí lẽ sắc sảo kết hợp với tình cảm thống thiết.
-Hs đọc 2 đoạn cuối.
? Tác giả viết bài Hịch để nhằm mục đích gì ?
Khích lệ tướng sĩ học binh thư, trong hoàn cảnh đất nước đang có ngoại xâm.
? Theo em, vì sao Trần Quốc Tuấn có thể nói với tướng sĩ rằng: Nếu...
(Vì binh thư yếu lược là sách binh pháp nổi tiếng, vì nước ta đang đứng trước nguy
cơ ngoại xâm, vì tướng sĩ muốn cầu an hưởng lạc).
? Điều đó cho thấy Trần Quốc Tuấn có thái độ như thế nào đối với tướng sĩ và kẻ
thù ?
? Bài hich có những nét đặc sắc gì về nội dung và nghệ thuật ?
? Chọn đọc diễn cảm đoạn văn mà em thích ?
3-Kêu gọi tướng sĩ:
-Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời bảo của ta, thì mới phải đạo thần
chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy của ta, tức là kẻ nghịch thù.
=>Thể hiện thái độ dứt khoát, cương quyết, rõ ràng đối với tướng sĩ và thể hiện
quyết tâm chiến đấu, chiến thắng kẻ thù xâm lược.

Văn bản Nước Đại Việt ta
-Hs đọc 2 câu đầu.
GV: Nhân nghĩa là đạo lí, là cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau;
yên dân là giữ yên cuộc sống cho dân, đem lại cuộc sống yên ổn cho dân; điếu phạt
là thương dân trừ bạo.
? Vậy theo em ý của 2 câu đầu là gì ?
? Từ đó có thể hiểu nội dung tư tưởng nhân nghĩa được nêu trong Bình Ngô đại cáo là gì?
? Bình Ngô đại cáo là bản tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi,
được mở đầu bằng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, qua đó em hiểu gì về tính chất của
cuộc kháng chiến này ? (Chính nghĩa là phù hợp với lòng dân).
? Em hiểu gì về tư tưởng của người viết bài cáo này ?
18


1-Nguyên lí nhân nghĩa của cuộc kháng chiến
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
->Phải trừ giặc Minh bạo ngược để giữ yên cuộc sống cho dân.
=>Nhân nghĩa có nghĩa là lo cho dân, vì dân. Thể hiện tư tưởng tiến bộ vì dân,
thương dân.
-Hs đọc phần còn lại.
? Trong phần văn bản trình bày nền văn hiến Đại Việt, các biểu hiện nào được nói
đến? Thông qua những câu thơ nào ?
?Các lí lẽ này nhằm khẳng định biểu hiện nào của văn hiến Đại Việt ? Vì sao ?
? Tác giả đã nhắc tới những triều đại nào xây nền độc lập ? Các triều đại đó được
so sánh với những triều đại nào của Trung Quốc ?
? Em có nhận xét gì về biện pháp nghệ thuật được sử dụng mà tác giả sử dụng ở
đây ? Tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó ?
? Qua đó tư tưởng và tình cảm nào của tác giả bộc lộ ?
? Nền văn hiến Đại Việt còn được làm rõ hơn qua những chứng cớ nào ? (Chứng

cớ ghi trong LS chống ngoại xâm). Câu văn nào nói rõ điều đó ?
-Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
? Ở đây tác giả có sử dụng câu văn biền ngẫu, em hãy miêu tả cấu trúc của câu văn
biền ngẫu ? Tác dụng của việc sử dụng câu văn biền ngẫu ?
? Qua đó tư tưởng tình cảm nào của người viết được bộc lộ ?
? Em hãy nêu những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của văn bản ?
? Trên cơ sở so sánh với bài Sông núi nước Nam, hãy chỉ ra sự tiếp nối và phát
triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta ?
2-Chân lí về nền độc lập có chủ quyền của Đại Việt
-Núi sông bờ cõi đã chia ->có lãnh thổ riêng.
-Phong tục Bắc Nam cũng khác ->có nền văn hóa riêng.
-Từ triệu, Đinh, Lí, Trần ->có lịch sử riêng.
=>Khẳng định Đại Việt là nước độc lập.
19


Từ Triệu,... bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên...
->Sử dụng câu văn biền ngẫu và phép so sánh ngang bằng-> Khẳng định tư cách
độc lập của nước ta và tạo sự uyển chuyển nhịp nhàng cho câu văn.
=>Đề cao ý thức dân tộc và bộc lộ tình cảm tự hào về dân tộc Đại Việt.
->Sử dụng câu văn biền ngẫu, mỗi câu có 2 vế sóng đôi, đối xứng- Làm nổi bật
chiến công của ta và thất bại của địch, tạo sự cân đối nhịp nhàng cho lời văn.
=>Kđịnh nền độc lập của nước ta và bộc lộ niềm tự hào về truyền thống đấu tranh
vẻ vang của dân tộc.
Đoạn thơ ngắn nhưng bao quát được khá đầy đủ những yếu tố chính của một
quốc gia: lãnh thổ, văn hiến, phong tục, chủ quyền, và lịch sử. Trong đó, có hai yếu

tố mới: văn hoá và lịch sử. Nước, do đó, là một cộng đồng có một lãnh thổ riêng,
độc lập, tự chủ, và một lịch sử cũng như một nền văn hoá với những phong tục
riêng. Nhấn mạnh vào yếu tố văn hoá và lịch sử, trong quan niệm về lòng yêu nước
của Nguyễn Trãi có một yếu tố vốn đã manh nha từ thời Trần: lòng tự hào. Tự hào
về các bậc “hào kiệt đời nào cũng có”. Và sự quan tâm sâu sắc đến số phận của dân
chúng: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Có điều sự quan tâm ấy xuất phát từ đạo
lý hơn là từ tình đồng bào như trong huyền thoại trăm trứng trăm con hay như
những
điều
chúng
ta
thường
nhắc
đến,
sau
này.
Việc nhấn mạnh vào hai yếu tố văn hoá và lịch sử có ảnh hưởng rất sâu và kéo dài
đến tận nhiều thế kỷ sau này.
Văn bản Bàn luận về phép học
1-Bàn về mđ của việc học:
? Mở đầu văn bản tác giả nêu khái quát mục đích chân chính của việc học,đó là
mục đích gì?
GV: Tác giả dùng câu châm ngôn vừa dễ hiểu vừa tăng sức thuyết phục:Ngọc
không mài…..Khái niệm đạo được giải thích dễ hiểu đó là cách đối sử hàng ngày
giữa mọi người. Như vậy mục đích chân chính của việc học là để làm người, để học
cách đối sử với mọi người xung quanh
? Đồng thời tác giả muốn phê phán lối học nào ?
? Kết quả của việc học lệch lạc, sai trái là gì ?
? Qua kết quả đó, tác giả đã chỉ ra những tác hại nào của việc học lệch lạc, sai trái ?
? Em có nhận xét gì về đặc điểm của lời văn trong đoạn này ?

-Mục đích chân chính của việc học là học để biết rõ đạo, học để làm người20


-Phê phán lối học chuộng hình thức và cầu danh lợi
-> Lối học lệch lạc, sai trái không chú ý đến nội dung, chỉ chú ý đến hình thức.
-Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.
=>Kết quả của việc học lệch lạc, sai trái dẫn đến gía trị của con người bị đảo lộn,
đất nước không có người tài- đức, đất nước sẽ bị diệt vong.
->Đoạn văn với nhiều câu văn ngắn, liên kết chặt chẽ khiến ý văn mạch lạc, rõ
ràng, dễ hiểu.
=>Thể hiện thái độ xem thường lối học chuộng hình thức, coi trọng lối học lấy mục
đích thành người tốt làm cho đất nước vững bền.
?Qua đoạn văn bàn về mục đích học,tác giả đã thể hiện thái độ gì đối với việc học ?
-Gv: Đó là thái độ đúng đắn, tích cực cần được chúng ta phát huy trong việc học
ngày hôm nay.
2-Bàn về cách học:
? Khi bàn về cách học, tác giả đã đề xuất những ý kiến nào ?
?Những ý kiến trên được nêu ra nhằm mục đích gì ?
?Trong số những cách học đó, em tâm đắc với cách học nào ? Vì sao ?
? Vì sao tác giả lại tin rằng phép học do mình đề xuất có thể tạo được nhân tài,
vững yên được nước nhà ?
- Vì cách học mở rộng sẽ phát hiện đc nhiều nhân tài và cách học gắn với thực hành
là cách học giúp người học hiểu sâu, hiểu kĩ vđề hơn, ....
? Khi đề xuất ý kiến với vua về việc học của nước nhà, tác giả đã dùng những từ
ngữ cầu khiến như : cúi xin, xin chớ bỏ qua. Những từ ngữ đó cho em hiểu gì về
thái độ của tác giả với việc học, với vua?
- Chân thành với sự học, tin ở điều mình tấu trình là đúng đắn, tin ở sự chấp thuận
của vua và giữ được đạo vua tôi.
? Em có suy nghĩ gì về hệ thống các phương pháp học mà Nguyễn Thiếp đưa ra so
với thời điểm hiện tại?

-Vẫn rất phù hợp so với thời điểm hiện tại.
-Đề xuất ý kiến:
+Mở rộng trường lớp, chấp nhận nhiều tầng lớp học
+ Nội dung học từ thấp đến cao
+ Hình thức học rộng nhưng gọn, học đi đôi với hành.
21


=>Mở mang sự hiểu biết cho dân chúng.
3-Tác dụng của phép học:
? Mục đích chân chính và cách học đúng đắn được tác giả gọi là đạo học. Theo tác
giả đạo học thành sẽ có tác dụng như thế nào ?
?Tại sao đạo học thành lại sinh ra nhiều người tốt ?
- Cách học chân chính sẽ tạo ra nhiều người học có tài đức sẽ thành nhiều người
tốt.
? Tại sao có thể nói triều đình ngay ngắn liên quan đến đạo học thành ?
- Đạo học thành thì không còn lối học hình thức, không còn hiện tượng chúa tầm
thường, thần nịnh hót.
? Tại sao đạo học thành có thể khiến thiên hạ thịnh trị ?
- Đạo học thành sẽ tạo ra nhiều người biết trọng lẽ phải, biết ứng dụng điều học vào
công việc, không còn thói cầu danh lợi hoặc nịnh thần; khiến việc cai trị quốc gia
sẽ dễ dàng, nước nhà sẽ vững vàng ổn định.
?Đằng sau các lí lẽ bàn về tác dụng phép học, người viết đã thể hiện một thái độ
như thế nào ?
-Gv: Tư tưởng của Nguyễn Thiếp đưa ra ở đây vẫn còn có gía trị đến ngày nay.
Đạo học thành sẽ có sức mạnh cải tạo con người, cải tạo xã hội, thúc đẩy xã hội
phát triển.
-Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà
thiên hạ thịnh trị.
=>Đề cao tác dụng của việc học chân chính, tin tưởng ở đạo học chân chính, kì

vọng vào tương lai đất nước.
Yêu nước, với người Việt Nam là yêu những điều tưởng tượng được
định hướng bởi những ý đồ chính trị và bị tác động bởi những điều kiện văn hoá
và lịch sử nhất định. Những điều tưởng tượng ấy được nuôi dưỡng bằng truyền
thuyết và huyền thoại. Dù ở lĩnh vực nào, mỗi văn bản của mỗi tác giả đều thể
hiện lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.
IV. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để thực hiện tốt nội dung truyền đạt theo đúng ý nguyện trong việc “Giáo
dục học sinh lòng yêu nước từ văn bản Trung Đại trong Ngữ văn 8” với thời lượng
22


lên lớp chính khóa ít là rất khó. Do đó, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra các biện pháp
sau đây:
1/ Việc quan trọng nhất trong thành công dạy học theo tôi, đó là giáo
viên phải soạn bài thật tốt, chuẩn bị một hệ thống câu hỏi phù hợp, các bài tập trắc
nghiệm, tự luận phù hợp.
2/ Giáo viên cần có một giọng đọc thống thiết, dõng dạc, lúc oai hùng
ngạo nghễ, lúc chậm giãi sâu lắng, lúc thong thả nhẹ nhàng, lúc mềm mại khôn
khéo, một phần nào đó gây hấp dẫn cho học sinh vừa khơi gợi niềm tự hào, tự tôn
của dân tộc.
3/ Phân tích các biệp pháp nghệ thuật, từ ngữ Hán Việt, thể loại văn học,
đoạn văn có nhiều yếu tố biểu cảm, cách lập luận tập trung các ý có nội dung Lòng
yêu nước trong mỗi bài cho học sinh qua các giờ phụ đạo do nhà trường tổ chức
hoặc trong các giờ học môn tự chọn môn văn. Tuy nhiên để truyền tải thông tin đến
học sinh nhanh nhất bản thân tôi soạn một số bài tập trắc nghiệm để các em thực
hiện.
Chẳng hạn:
Cần hiểu về tấm lòng yêu nước thương dân của Lý Thái Tổ,
- Tình hình đất nước lúc bấy giờ.

- Hoàn cảnh xuất thân của vua Lý.
- Ý thức, trách nhiệm của thế hệ trước.
- Tầm nhìn xa trông rộng, định hướng cho tương lai đất nước.
- Truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm.
Chắc chắn mọi người đều nhận thức rằng trách nhiệm của những nhà
lãnh đạo phải tiếp nối truyền thống dân tộc thật nặng nề mà nếu không có tinh thần
dân tộc cao độ, dân Việt khó thể tồn tại trước bao cuồng phong muốn thổi bật gốc
văn hóa dân tộc. Tư tưởng Nho Giáo từng là căn bản văn hóa của dân Việt từ thời
lập quốc và hợp với Lão Giáo, Phật Giáo và rồi với nền văn hóa Tây Phương thành
nền nếp, kỷ cương người Việt ngày nay. Người Việt rất trọng nhân nghĩa, thủy
chung và đối tượng của nhân nghĩa chính là người dân.
Việc định đô lập nước là một vấn đề trọng đại tới tương lai đất nước. Dời đô là
khát vọng của Lý Công Uẩn, của nhân dân, của lịch sử dân tộc . Việc dời đô là phải
tìm một nơi trung tâm của trời đất , địa thế rồng cuộn hổ ngồi. Lý Công Uẩn tâm
đắc nói tới cái nơi đúng ngôi chính giữa nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông
dựa núi, nơi đấy không phải là Hoa Lư chật hẹp, mà là một nơi địa thế rộng, bằng,
23


đất đai cao thoáng. Một nơi thuận lợi về tất cả mọi mặt thì nhân dân được ấm no,
thanh bình, dời đô hợp với thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Dời đô ra Thăng Long là một bước ngoặc lớn, đánh dấu sự trưởng thành của dân
tộc đại Việt . Kinh đô Thăng Long là cái nôi lập đế nghiệp cho muôn đời là nơi để
cho sơn hà xã tắc được bền vững muôn đời
Chiếu dời đô đã thể hiện sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ
Việt 1000 năm về trước khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn,
tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Chiếu nêu bật được vai trò kinh
đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia.
Thời gian sau đó,Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà
Mạc, Lê Trung Hưng và đang là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam. Thăng Long thực sự là “nơi kinh đô bậc nhất của muôn đời”.
Tôi cho học sinh tiến hành bài viết để kiểm tra nhận thức của học sinh.
Đề bài
Viết một đoạn văn giới thiệu tác giả Lý Công Uẩn.
Sau đây là bảng số liệu thống kê điểm văn cuối học kì II Lớp 8A năm học
2012 – 2013
Tỉ lệ học sinh giỏi

Tỉ lệ học sinh khá

51,6 %

45,2%

Tỉ lệ học sinh trung bình
3,2 %

V. ĐỀ XUẤT- KIẾN NGHỊ
.Tuy đất nước có nhiều phát triển nhưng phần lớn là học sinh sinh sống ở
nông thôn, vùng sâu, địa bàn biên giới, hải đảo nên việc học tập của các em chưa
được quan tâm một cách đúng mức, những thông tin về LÒNG YÊU NƯỚC chỉ
giới hạn trong chương trình sách giáo khoa, gia đình, đây cũng là một trong số
những hạn chế đáng kể trong việc học tập của các em. Mặt khác hoàn cảnh đất
nước lúc này có nhiều diễn biến phức tạp ở Biển Đông càng cần tình yêu Tổ
Quốc nhiều hơn ở các em. Chính vì thế, trong thời gian tới mong rằng Đảng và
nhà nước,các bậc phụ huynh cần quan tâm, khuyến khích hơn nữa việc học tập
của các em. Bên cạnh đó, với những biện pháp đã nêu ra ở trên mong quý đồng
nghiệp hãy xem và có thể thực hiện như là một chuyên đề, một chủ đề để giảng
dạy phân môn tự chọn ngữ văn lớp 8.
24



C- KẾT LUẬN
Qua một năm rút kinh nghiệm và thay đổi ,áp dụng những giải pháp nêu trên tôi
nhận thấy chất lượng dạy và học văn bản ở môn văn khối 8 năm học 2012 – 2013
được nâng cao rõ rệt .Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng
dạy ,tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn ;tự tin say mê hơn với sự
nghiệp trồng người .Ai đó đã từng nói “Nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi chẳng
thấy khổ chút nào mà ngược lại ,tôi thấy mình sung sướng hạnh phúc vì được cống
hiến ,góp sức mình làm đẹp cho đời .Đối với các em học sinh ,các em bước đầu đã
ý thức được tầm quan trọng của môn văn .
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế
được môn ngữ văn .Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm
hồn .Trong thời đại hiện nay ,khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh ,môn văn sẽ giữ
lại tâm hồn con người ,giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với
con người ,trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim .Sau khi nghiên cứu ,tham khảo sáng
kiến kinh nghiệm này ,bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn mới mẻ ,tích
cực hơn về phương pháp dạy và học văn, về con người tạo ra giá trị nhân văn .Từ
đó ,rất hi vọng kết quả học văn của các em sẽ tốt hơn ;các em sẽ yêu thích ,ham mê
môn văn hơn nữa.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Mỹ Đức , ngày 19 tháng 04 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.
TÁC GIẢ

Dương Hồng Liên


25


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 8 tập 1,2
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004–
2007 ) môn ngữ văn – quyển 1 và 2 – NXB Giáo dục
3. Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và
tích cực – Đoàn Thị Kim Nhung - NXB Đại học quốc gia TPHCM
4. Thi nhân Việt Nam – NXB quốc gia tập 1,2,3,4.
5. Giáo trình văn học Trung Đại giai đoạn TK X- TKXV- NXB Đại học
quốc gia TP HCM
6. Thiết kế ngữ văn 8- NXB Hà Nội.

26


×