Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CHI NHÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP VÀ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP - XÍ NGHIỆP XÂY LẮP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.07 KB, 38 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
TẠI CHI NHÁNH CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP VÀ
SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP - XÍ NGHIỆP XÂY LẮP 3
Giáo viên hướng dẫn : Th.s Vũ Thị Kim Lan
Sinh viên thực hiện : Đỗ Thị Ngân
Mã sinh viên : A12039
Chuyên ngành : Kế toán
Luận văn tốt nghiệp
HÀ NỘI - 2010
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN
TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1 Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và sự cần thiết phải tổ chức
công tác kế toán trong doanh nghiệp xây lắp.
1.1.1 Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh xây lắp
Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất quan trọng mang tính chất
công nghiệp nhằm tạo cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp xây lắp không những chỉ có ý nghĩa đối với doanh
nghiệp mà còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội to lớn. So với các ngành sản xuất
vật chất khác thì ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật
đặc trưng, được thể hiện rõ ở sản phẩm và quá trình tái tạo sản phẩm của
ngành. Do vậy công việc tổ chức kế toán tài chính trong doanh nghiệp xây lắp
phải đáp ứng được các yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của
một doanh nghiệp vừa phải phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp xây lắp.
Sản phẩm xây lắp có các đặc điểm:


• Sản xuất xây lắp mang tính chất riêng lẻ
Sản phẩm xây lắp không có sản phẩm nào giống sản phẩm nào, mỗi sản
phẩm có yêu cầu về mặt thiết kế mỹ thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây
dựng khác nhau. Chính vì vậy mỗi sản phẩm xây lắp đều có yêu cầu về tổ
chức quản lý, tổ chức thi công và biện pháp thi công phù hợp với đặc điểm
của từng công trình cụ thể, có như vậy việc sản xuất thi công mới mang lại
hiệu quả cao và bảo đảm cho sản xuất được liên tục.
• Sản phẩm xây lắp có giá trị lớn, khối lượng công trình lớn, thời gian
thi công tương đối dài
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
2
Luận văn tốt nghiệp
Các công trình xây dựng cơ bản thường có thời gian thi công rất dài, có
công trình phải xây dựng hàng chục năm mới xong. Trong thời gian sản xuất
thi công xây dựng chưa tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng lại sử dụng nhiều
vật tư, nhân lực của xã hội. Do đó, khi lập kế hoạch xây dựng cơ bản cần cân
nhắc, thận trọng, nêu rõ các yêu cầu về vật tư, tiền vốn, nhân công. Việc quản
lý theo dõi quá trình sản xuất thi công phải chặt chẽ, đảm bảo sử dụng vốn tiết
kiệm, đảm bảo chất lượng thi công công trình.
• Thời gian sử dụng sản phẩm xây lắp tương đối dài
Các công trình xây dựng cơ bản thường có thời gian sử dụng dài nên
mọi sai lầm trong quá trình thi công thường khó sửa chữa phải phá đi làm lại.
Sai lầm trong xây dựng cơ bản vừa gây lãng phí, vừa để lại hậu quả có khi rất
nghiêm trọng, lâu dài và khó khắc phục. Do đặc điểm này mà trong quá trình
thi công cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng công trình.
• Sản phẩm xây lắp được sử dụng tại chỗ, địa điểm xây dựng luôn thay
đổi theo địa bàn thi công
Khi chọn địa điểm xây dựng phải điều tra nghiên cứu khảo sát thật kỹ
về điều kiện kinh tế, địa chất, thuỷ văn kết hợp với các yêu cầu về phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Sau khi đi vào sử dụng,

công trình không thể di dời, vì vậy nếu các công trình là các nhà máy, xí
nghiệp cần nghiên cứu các điều kiện về nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn
lực lao động, nguồn tiêu thụ sản phẩm đảm bảo điều kiện thuận lợi khi công
trình đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh sau này.
• Sản xuất xây lắp thường diễn ra ngoài trời, chịu tác động trực tiếp
bởi điều kiện môi trường, thiên nhiên, thời tiết và do đó việc thi công xây lắp
ở một mức độ nào đó mang tính thời vụ
Do đặc điểm này, trong quá trình thi công cần tổ chức quản lý lao động,
vật tư chặt chẽ đảm bảo thi công nhanh, đúng tiến độ khi điều kiện môi
trường thời tiết thuận lợi. Trong điều kiện thời tiết môi trường không thuận
lợi ảnh hưởng đến chất lượng thi công có thể sẽ phát sinh các khối lượng công
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
3
Luận văn tốt nghiệp
trình phải phá đi làm lại và các thiệt hại phát sinh do ngừng sản xuất, doanh
nghiệp cần có kế hoạch điều độ cho phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành.
1.1.2 Đặc điểm tổ chức kế toán trong doanh nghiệp xây lắp
Công việc tổ chức kế toán trong doanh nghiệp xây lắp là việc tổ chức
thực hiện ghi chép, phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát
sinh. Do đó việc tổ chức kế toán trong doanh nghiệp xây lắp sẽ tuỳ thuộc vào
đặc điểm sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra cơ sở cho việc hạch toán chi phí
sản xuất theo giai đoạn, bộ phận sản xuất và sản phẩm được sản xuất. Bên
cạnh đó việc tổ chức kế toán còn phụ thuộc quy trình công nghệ sản xuất và
yêu cầu công tác chi phí của nhà quản lý sao cho thực hiện được mục tiêu
cung cấp thông tin kịp thời và chính xác về mức hao phí cần phải bù đắp và
hiệu quả của từng bộ phận sản xuất hoặc giai đoạn sản xuất. Vì vậy tổ chức kế
toán trong doanh nghiệp xây lắp có những đặc điểm sau đây:
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là hạng mục công trình, các
giai đoạn công việc của hạng mục công trình hoặc các nhóm hạng mục công
trình…

- Đối tượng tính giá thành là các hạng mục công trình đã hoàn thành, các
giai đoạn công việc đã hoàn thành, khối lượng xây lắp đã hoàn thành.
- Dự toán được lập theo từng khoản mục chi phí nên chi phí sản xuất
cũng được phân loại theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung để so sánh
giữa dự toán và thực tế.
1.1.3 Ý nghĩa của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Xây dựng cơ bản giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất
nước, đảm bảo và nâng cao năng lực sản xuất cho các ngành, các lĩnh vực của
nền kinh tế. Chính xây dựng cơ bản đã tạo điều kiện xoá bỏ dần sự cách biệt
giữa thành thị - đóng góp đáng kể cho thu nhập quốc dân và tạo nên diện mạo
mới cho đất nước.
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
4
Luận văn tốt nghiệp
Từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp
xây lắp được chủ động hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương hướng
riêng và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Do vậy,
việc tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp xây
lắp. Điều đó giúp cho việc xác định nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong
giá thành cũng như lượng giá trị các yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản
phẩm xây lắp hoàn thành.
Giá thành sản phẩm xây lắp là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
kết quả sử dụng tài sản - nguồn vốn của doanh nghiệp xây lắp. Do đó công
tác tính giá thành sản phẩm xây lắp phải luôn gắn chặt với công tác tổng hợp
chi phí sản xuất. Việc quản lý tốt các khoản mục chi phí phát sinh sẽ giúp cho
doanh nghiệp có được những giải pháp về kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao
năng suất lao động, giúp cho việc tiết kiệm và tránh thất thoát, lãng phí. Bên

cạnh đó việc tập hợp và đánh giá chi phí một cách đầy đủ và chính xác sẽ
giúp doanh nghiệp xây lắp kiểm tra được các chi phí thực tế phát sinh trong
kỳ. Từ đó doanh nghiệp có thể so sánh với định mức của ngành, dự toán, kế
hoạch để có biện pháp kịp thời nhằm phát hiện các trường hợp lãng phí và
giúp cho việc hạ giá thành sản phẩm.
1.1.4 Vai trò và ý nghĩa của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Việc tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp có ý nghĩa quan trọng và là yêu
cầu cấp bách trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, nó giúp cho
nhà quản lý xác định được kết quả của sản phẩm để từ đó đề ra các nhiệm vụ,
mục tiêu phù hợp với tình hình của doanh nghiệp.
Hạch toán kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp là vấn đề trung tâm của công tác hạch toán trong xây lắp, có các
nhiệm vụ sau:
- Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành nhằm cung cấp cho người
quản lý tình hình sử dụng lao động, vật tư, vốn là tiết kiệm hay lãng phí để từ
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
5
Luận văn tốt nghiệp
đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định phù hợp với hoạt động
sản xuất kinh của doanh nghiệp.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, chi phí nhân
công, chi phí sử dụng máy thi công và các chi phí dự toán khác, phát hiện kịp
thời các khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch,
các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng trong sản xuất kinh doanh để đề xuất
những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
- Tính toán hợp lý giá thành công tác xây lắp, các loại sản phẩm lao vụ
hoàn thành của doanh nghiệp.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp theo từng

công trình, hạng mục công trình từng loại sản phẩm lao vụ, vạch ra khả năng
và các biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý và có hiệu quả.
- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác
xây dựng đã hoàn thành. Định kỳ kiểm kê và đánh giá khối lượng thi công dở
dang theo nguyên tắc quy định.
- Đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở từng công
trình hạng mục công trình, từng bộ phận thi công tổ đội sản xuất… trong từng
thời kỳ nhất định, kịp thời lập báo cáo về chi phí sản xuất, tính giá thành công
trình xây lắp, cung cấp chính xác kịp thời các thông tin hữu dụng về chi phí sản
xuất và giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãn h đạo doanh nghiệp.
1.2 Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
1.2.1 Chi phí sản xuất
1.2.1.1 Khái niệm chi phí sản xuất
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải huy động, sử
dụng các nguồn tài lực, vật lực (lao động, vật tư, tiền vốn…) để thực hiện việc
sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện các công việc lao vụ, thu mua dự trữ
hàng hoá, luân chuyển lưu thông sản phẩm… Kể cả chi cho công tác quản lý
chung của doanh nghiệp. Như vậy doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi phí
về lao động sống và lao động vật hoá cho quá trình hoạt động của mình. Để
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
6
Luận văn tốt nghiệp
đo lượng hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong từng thời kỳ trực tiếp phục
vụ cho hoạt động sản xuất cuối cùng người ta đều dùng thước đo tiền tệ.
Có thể nói chi phí sản xuất doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi
ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất
định. Đối với hoạt động xây dựng cơ bản, chi phí sản xuất của doanh nghiệp
xây lắp là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh
trong quá trình xây dựng và cấu thành nên giá thành sản phẩm xây dựng.

1.2.1.2 Phân loại chi phí sản xuất
Việc quản lý chi phí sản xuất không chỉ dựa vào các số liệu tổng hợp về
chi phí mà còn căn cứ cụ thể vào từng loại chi phí theo từng công trình, hạng
mục công trình, theo từng thời điểm nhất định. Do vậy việc phân loại chi phí
sản xuất là yêu cầu tất yếu trong công tác quản lý cũng như trong công tác kế
toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp một cách
chính xác.
Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý, đối tượng phục vụ, mục đích và góc độ
xem xét khác nhau mà các loại chi phí được sắp xếp, phân loại theo những
cách thức khác nhau.
a. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
Theo cách phân loại này, các chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế
được xếp chung vào một yếu tố, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở đâu,
trong lĩnh vực nào. Cách phân loại này tạo điều kiện cho việc xây dựng và
phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập và phân tích dự toán.
Toàn bộ chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp theo cách phân loại này
bao gồm các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: Là toàn bộ chi phí nguyên vật liệu được sử
dụng trực tiếp trong quá trình sản xuất để chế tạo sản phẩm, lao vụ dịch vụ.
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
7
Luận văn tốt nghiệp
- Chi phí nhân công: Bao gồm tiền lương, phụ cấp, BHXH, BHYT,
KPCĐ, BHTN và các khoản phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp, công
nhân điều khiển máy thi công, nhân viên quản lý ở các tổ, đội.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: Là toàn bộ số tiền trích khấu hao trong kỳ của
toàn bộ TSCĐ trong doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: Gồm các khoản chi trả về các dịch vụ mua
ngoài, thuê ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất, thi công công trình như:
chi phí điện, điện thoại, nước, chi phí thuê máy thi công…

- Chi phí khác bằng tiền: Là toàn bộ các chi phí bằng tiền khác ngoài
bốn yếu tố kể trên để phục vụ cho sản xuất, thi công và quản lý ở các tổ, đội.
Việc phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của
chúng giúp thấy được kết cấu, tỷ trọng của từng loại chi phí đã phát sinh,
đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng định mức, dự toán chi phí sản xuất từ đó
lập và theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí trong doanh
nghiệp.
b. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng kinh tế của
chi phí sản xuất, toàn bộ chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp được
chia thành các khoản mục như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Là toàn bộ chi phí về vật liệu chính
(kể cả nửa thành phẩm mua ngoài, cát, sỏi, sắt, thép…); vật liệu phụ (sơn,
ve…); cấu kiện bê tông, hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia
cấu thành thực thể sản phẩm xây lắp và giúp cho việc thực hiện và hoàn thành
khối lượng xây lắp.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Là toàn bộ các khoản chi phí về tiền
lương, tiền công, các khoản phụ cấp… của công nhân trực tiếp thi công xây
lắp. Không tính vào khoản mục chi phí này các khoản mục BHXH, BHYT,
KPCĐ, BHTN của công nhân trực tiếp xây lắp.
- Chi phí sử dụng máy thi công: Là toàn bộ chi phí liên quan đến hoạt
động của máy thi công. Khoản chi phí này bao gồm tiền lương và các khoản
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
8
Luận văn tốt nghiệp
phải trả cho công nhân điều khiển máy thi công: chi phí nhiên liệu, vật liệu
phục vụ xe, máy thi công; chi phí khấu hao xe, máy thi công; chi phí dịch vụ
mua ngoài và chi phí bằng phục vụ cho hoạt động của máy thi công.
Không tính vào khoản mục này các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ,
BHTN của công nhân điều khiển xe, máy thi công.

- Chi phí sản xuất chung: Là toàn bộ các khoản chi phí dùng vào việc
quản lý và phục vụ sản xuất chung ở tổ, đội sản xuất trong doanh nghiệp xây
lắp. Bao gồm: tiền lương, phụ cấp… của nhân viên quản lý tổ, đội; khoản trích
BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân điều
khiển máy thi công, nhânviên quản lý tổ, đội, công trường xây dựng.
Cách phân loại này có tác dụng phục vụ cho việc quản lý chi phí theo
định mức, là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, định mức
chi phí sản xuất cho kỳ sau. Đồng thời, đây cũng là cách phân loại chi phí sản
xuất chủ yếu được sử dụng trong doanh nghiệp xây lắp.
c. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối
lượng hoạt động
Với cách phân loại này, chi phí được phân loại dựa trên việc xem xét sự
biến động của chi phí khi mức hoạt động thay đổi. Bằng cách phân loại này,
doanh nghiệp có thể kiểm tra chi phí, xác định được điểm hoà vốn, nó là cơ sở
giúp doanh nghiệp lập kế hoạch, phân tích tình hình nhằm tiết kiệm chi phí,
nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó các nhà quản lý có thể tìm ra phương
hướng nhằm hạ giá thành sản phẩm.
Biến phí: Là những khoản chi phí phát sinh tỷ lệ thuận với khối lượng
công việc. Biến phí thường bao gồm: chi phí nguyên vật liệu, chi phí về nhân
công trực tiếp… Biến phí tính trên một đơn vị sản phẩm luôn có tính ổn định.
Định phí: Là nhưng khoản chi phí không đổi dù khối lượng công việc
hoàn thành thay đổi. Định phí thường bao gồm: chi phí khấu hao TSCĐ sử
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
9
Luận văn tốt nghiệp
dụng chung, chi phí thuê mặt bằng, lương cán bộ quản lý… Tuy nhiên, một
lưu ý đối với định phí là định phí nếu tính trên một đơn vị sản phẩm lại biến đổi.
Hỗn hợp phí: Là loại chi phí mà bản thân nó bao gồm cả các yếu tố
biến phí và định phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện

các đặc điểm của định phí. Trong những trường hợp định phí quá mức thì nó
lại thể hiện đặc tính của biến phí. Hỗn hợp phí thường bao gồm: chi phí sản
xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp…
Tóm lại, mỗi cách phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây
lắp có ý nghĩa riêng phục vụ cho từng yêu cầu quản lý và đối tượng cung cấp
thông tin cụ thể nhưng chúng luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý có hiệu
quả nhất chi phí sản xuất phát sinh trong doanh nghiệp, trong từng thời kỳ
nhất định.
1.2.2 Giá thành sản phẩm xây lắp
1.2.2.1 Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp
Gía thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã chi
ra để hoàn thành một khối lượng sản phẩm xây lắp theo quy định. Chi phí ở
đây chính là giá trị của nhưng hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã
thực sự chi ra cho sản xuất. Như vậy, giá thành là một bộ phận của giá trị sản
phẩm xây lắp, là một trong các chi tiêu kinh tế của doanh nghiệp xây dựng.
Do vậy mà chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị
thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất và các khoản chi tiêu
khác có liên quan đến việc bù đắp hao phí lao động sống.
Sản phẩm xây lắp có thể là các công trình, hạng mục công trình, khối
lượng xây lắp hoàn thành. Do đó giá thành hạng mục công trình hoặc công
trình hoàn thành toàn bộ là giá thành sản phẩm cuối cùng của sản phẩm xây
lắp. Tuy nhiên do sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc nên mỗi sản phẩm
xây lắp đều có giá thành khác nhau.
Với hai chức năng chính của giá thành là bù đắp chi phí và lập giá. Giá
thành là một căn cứ quan trọng để các doanh nghiệp định giá bán và xác định
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
10
Luận văn tốt nghiệp
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, việc quản lý và hạch toán
công tác giá thành sao cho hợp lý, chính xác có vai trò vô cùng quan trọng, từ

đó giúp cho doanh nghiệp có thể vạch ra phương hướng nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm và hạ giá thành.
1.2.2.2 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
a. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp theo căn cứ và thời điểm tính giá thành
Theo cách phân loại này thì giá thành sản phẩm xây lắp được chia thành
giá thành dự toán, giá thành kế hoạch, giá thành thực tế.
- Giá dự toán: (Zdt)
Là toàn bộ chi phí dự toán để hoàn thành một khối lượng công tác xây lắp,
giá thành dự toán xây lắp được xác định trên cơ sở khối lượng công tác xây
lắp theo thiết kế được duyệt, các định mức dự toán, đơn giá XDCB chi tiết
hiện hành và các chính sách chế độ có liên quan của Nhà nước.
Giá thành dự toán = Giá trị dự toán – Lợi nhuận định mức
Như vậy, giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán xây lắp ở phần lợi
nhuận định mức và thuế. Trong đó, lãi định mức được tính theo tỷ lệ % dựa
trên giá thành xây lắp do Nhà nước quy định đối với từng loại hình xây lắp
khác nhau, từng sản phẩm xây lắp cụ thể.
Giá trị dự toán xây lắp được xác định vào định mức giá của cơ quan có
thẩm quyền và dựa vào mặt bằng giá cả của thị trường. Như vậy, giá thành dự
toán là hạn mức chi phí cao nhất mà đơn vị có thể chi ra để đảm bảo có lãi.
Nó là tiêu chuẩn để đơn vị phấn đấu hạ thấp định mức chi phí thực tế, đồng
thời là căn cứ xây dựng giá nhận thầu.
- Giá thành kế hoạch: (Zkh)
Là loại giá thành được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở
giá thành thực tế kỳ trước, các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch
sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể ở một đơn vị xây lắp, một công trường
trong một thời kỳ kế hoạch nhất định.
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
11
Luận văn tốt nghiệp
Khác với giá thành dự toán, giá thành kế hoạch được lập ra không dựa vào

định mức dự toán của Nhà nước mà dựa vào định mức chi phí của nội bộ đơn
vị. Vì vậy, về nguyên tắc, giá thành kế hoạch không lớn hơn giá thành dự toán
(Zdt > Zkh).
Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán – Mức hạ giá thành dự toán.
- Giá thành thực tế: (Ztt)
Là loại giá thành được tính toán dựa theo các chi phí thực tế phát sinh mà
doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện khối lượng công tác xây lắp được xác
định theo số liệu của kế toán cung cấp.
Giá thành thực tế không chỉ bao gồm những chi phí phát sinh trong định
mức mà còn bao gồm cả những chi phí thực tế phát sinh như: mất mát, hao
hụt vật tư, thiệt hại do phá đi làm lại… Song về nguyên tắc, giá thành thực tế
không lớn hơn giá thành kế hoạch (Zkh > Ztt)
Trong điều kiện đảm bảo tính thống nhất về thời điểm, cách tính và thực
hiện trên cùng một đối tượng thì giữa ba loại giá thành trên có mối quan hệ về
mặt lượng như sau: Zdt > Zkh > Ztt
Trong thực tế việc so sánh ba loại giá thành trên cho phép đánh giá trình
độ và năng lực quản lý sản xuất cụ thể của doanh nghiệp qua từng thời kỳ. So
sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch cho thấy mức độ hạ giá thành kế
hoạch của nghiệp. So sánh giá thành thực tế với giá thành dự toán lại phản
ánh chỉ tiêu tích luỹ của doanh nghiệp để từ đó có thể dự định khả năng của
doanh nghiệp trong năm tới.
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh là giá thành của những công
trình, hạng mục công trình đã hoàn thành đảm bảo đúng chất lượng, thiết kế
được bên chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán. Bên cạnh đó giá
thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước là giá thành khối lượng xây lắp
hoàn thành đến một giai đoạn nhất định và thoả mãn các điều kiện sau:
+ Phải nằm trong thiết kế và đảm bảo chất lượng
+ Phải đạt điểm dừng kỹ thuật hợp lý
b. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp theo phạm vi phát sinh chi phí
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039

12
Luận văn tốt nghiệp
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm xây lắp được phân ra thành
các loại sau đây:
- Giá thành sản xuất theo biến phí: Là loại giá thành trong đó chỉ bao gồm
các biến phí sản xuất xây lắp, kể cả biến phí trực tiếp và biến phí gián tiếp.
Toàn bộ định phí sản xuất xây lắp được tham gia xác định kết quả kinh doanh
xây lắp trong kỳ mà không được tính vào giá thành sản xuất.
- Giá thành xây lắp toàn bộ: Là loại giá thành trong đó gồm toàn bộ chi
phí sản xuất xây lắp (biến phí và định phí) tính cho khối lượng, giai đoạn xây
lắp, hoàn thành hoặc công trình, hạng mục công trình xây lắp hoàn thành.
- Giá thành toàn bộ của sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao: Bao gồm
giá thành sản xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho
sản phẩm đã xác nhận là tiêu thụ. Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ chỉ
xác định và tính toán khi sản phẩm, công việc hoặc lao vụ đã được xác nhận
là tiêu thụ. Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ là căn cứ để tính toán, xác
định mức lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
1.2.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp là hai mặt biểu hiện của
quá trình thi công lắp đặt và chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Về bản
chất, đây là hai khái niệm giống nhau, chúng đều là các hao phí về lao động
sống, lao động vật hoá… được biểu hiện bằng tiền. Tuy nhiên, giữa chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp lại có sự khác nhau về giới hạn, phạm
vi và nội dung.
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp luôn gắn với một thời kỳ
nhất định (tháng, quý, năm…). Còn giá thành sản phẩm xây lắp là giới hạn số
chi phí sản xuất liên quan đến một công trình, hạng mục công trình hay một
khối lượng công tác xây lắp hoàn thành nhất định.
Chi phí sản xuất của một thời kỳ bao gồm những chi phí phát sinh
trong kỳ đó, còn giá thành sản phẩm có thể bao gồm cả một phần chi phí phát

Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
13
Luận văn tốt nghiệp
sinh ở kỳ trước (chi phí trả trước) và phần chi phí phát sinh ở kỳ sau nhưng
được ghi nhận ở kỳ này (chi phí phải trả).
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được thể hiện
qua sơ đồ sau:
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Về mặt lượng: chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng có thể
không thống nhất với nhau, điều này thể hiện ở công thức sau:
Tổng giá thành
sản phẩm hoàn
thành
=
Chi phí sản
xuất dở dang
đầu kỳ
+
CPSX phát
sinh trong kỳ -
Chi phí sản
xuất dở dang
cuối kỳ
Trong giá thành sản phẩm không bao gồm những chi phí sản xuất tính
cho khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ nhưng nó lại bao gồm chi phí sản
xuất tính cho khối lượng sản phẩm dở dang đầu kỳ. Trường hợp đặc biệt,
không có chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ hoặc chi phí sản xuất dở
dang đầu kỳ bằng chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ thì giá thành sản phẩm
bằng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.

Từ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đã phân tích
ở trên, chúng ta thấy rằng bên cạnh việc chú trọng công tác tính giá thành thì
cũng cần chú trọng quản lý công tác tập hợp chi phí sản xuất để đảm bảo cho
việc hạch toán chi phí sản xuất được chính xác và hợp lý, làm cơ sở cho việc
tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
1.3 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp.
1.3.1 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung, doanh nghiệp xây lắp nói
riêng, kế toán tập hợp chi phí sản xuất là khâu vô cùng quan trọng, phục vụ
cho việc kiểm tra phân tích tính chi phí và giá thành sản phẩm. Do đó, để
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
14
Luận văn tốt nghiệp
phục vụ cho công tác kế toán chi phí sản xuất, công việc đầu tiên có tính chất
định hướng là việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
là các loại chi phí được tập hợp, phân loại trong phạm vi giới hạn nhất định
nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Để xác định được đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất cần căn cứ
vào các yếu tố sau:
-Tính chất, loại hình sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất
sản phẩm, đặc điểm của sản xuất sản phẩm.
-Yêu cầu tính giá thành theo các đối tượng tính giá thành.
-Khả năng, trình độ quản lý nói chung và hạch toán nói riêng.
Do đặc tính phức tạp của công nghệ và sản phẩm sản xuất mang tính
đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi công trình hạng mục công trình đều
có dự toán thiết kế thi công riêng. Do vậy dựa vào việc xem xét những nhân
tố trên, đối với ngành xây dựng cơ bản đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
được xác định là từng công trình, hạng mục công trình, từng đơn đặt hàng

hoặc từng đội thi công…
Việc xác định đối tượng tính giá thành cũng phải dựa trên những căn cứ
giống việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Đối tượng tính giá
thành là các hạng mục công trình đã hoàn thành, các giai đoạn công việc đã
hoàn thành, công trình hoàn thành….
1.3.2 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Trên cơ sở đối tượng kế toán chi phí sản xuất, kế toán lựa chọn phương
pháp kế toán chi phí thích ứng với đặc thù của doanh nghiệp mình. Phương
pháp kế toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương
pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi
giới hạn của đối tượng kế toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp kế toán chi
phí sản xuất bao gồm:
Sinh viên: Đỗ Thị Ngân MSV: A12039
15

×