Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
PHỤ LỤC
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
1
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
BẢNG
HÌNH
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
2
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp
LỜI CẢM ƠN
Trong kỳ học vừa qua, em là Nguyễn Thị Lệ, sinh viên năm cuối Khoa Kinh tế
Kế hoạch _ trường Đại học Kinh tế quốc dân đã có kỳ thực tập lý thú, bổ ích và hoàn
thiện được báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Để đạt được kết quả đó, em xin
chân thành cảm ơn thầy giáo _ PGSTS. Nguyễn Tiến Dũng đã tận tình chỉ bảo và sửa
chữa bài chuyên đề thực tập, giúp em xây dựng được chuyên đề tốt nghiệp một cách
hoàn chỉnh nhất. Em xin cảm ơn bác Bùi Thế Chuyên – Trưởng ban Kế Hoạch thuộc
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em được tiếp
cận các thông tin, tài liệu chuyên ngành cũng như đã đưa ra các phân tích nhận xét
giúp hoàn thiện báo cáo chuyên đề của em. Em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ của các
bác, các cô chú, các anh chị trong ban Kế Hoạch đã tạo điều kiện để em có được kỳ
thực tập lý thú và bổ ích này.
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
3
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
LỜI CAM ĐOAN
Qua khoảng thời gian thực tập vừa qua, với sự chỉ bảo giúp đỡ của thầy giáo _
PGSTS. Nguyễn Tiến Dũng và bác Bùi Thế Chuyên thuộc Tập đoàn Hóa chất Việt
Nam và với sự nỗ lực của bản thân em đã hoàn thành bài báo cáo chuyên đề thực tập
của mình.
Em xin cam đoan đây là bài báo cáo do tự em viết có tham khảo thêm các sách
báo tạp chí đã được chú giải như trong chuyên đề, ngoài ra không hề sao chép bất kì
tài liệu hay bất kì các bài luận văn, chuyên đề nào khác.
Hà Nội, Ngày tháng năm 2010
Chữ ký của sinh viên
Nguyễn Thị Lệ
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
4
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là một ngành sản xuất quan trọng của Việt Nam, hiện tại nông
nghiệp vẫn chiếm 70% lực lượng lao động của toàn xã hội và khoảng 14% GDP của
cả nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra
mục tiêu chiến lược về CNH-HĐH đất nước là: từ nay (1996) đến năm 2020 phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Vì vậy trong cơ cấu kinh tế,
công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong GNP và trong lao động xã hội.
Mặc dù vậy sản xuất nông nghiệp vẫn có một vị trí hết sức quan trọng trong nhiều
năm nữa. Việc tự do hóa sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa gạo, đã giúp
Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Những nông sản quan trọng
khác là cà phê, sợi bông, đậu phộng, cao su, đường, và trà.
Trong sản xuất nông nghiệp, có nhiều yếu tố tác động đến năng suất và sản
lượng các loài cây trồng như: đất đai, thời tiết, khí hậu, các thiết bị kỹ thuật, giống,
phân bón ...v.v. Song phân bón bao giờ cũng là yếu tố có tính quyết định thường
xuyên. Bởi vậy, ở Việt Nam phân bón được xếp vào loại mặt hàng chiến lược hết sức
quan trọng.
Là một nước nông nghiệp, nên nhu cầu về phân bón của Việt Nam rất lớn
(bình quân mỗi năm 8-9 triệu tấn). Tuy nhiên công nghiệp phân bón của Việt Nam
đang còn quá nhỏ bé và lạc hậu, hiện tại mới sản xuất và cung ứng được khoảng trên
5 triệu tấn, số còn lại phải dựa vào nhập khẩu từ bên ngoài.
Nông nghiệp luôn cần phân, song do nhiều lý do khách quan và chủ quan tác
động (tài chính, tổ chức quản lý, cơ chế chính sách...) nên việc nhập khẩu phân bón
của Việt Nam vừa qua diễn ra không được thuận lợi. Điều này đã làm cho Cung-
Cầu, giá cả phân bón ở Việt Nam diễn ra không ổn định: lúc sốt nóng, lúc sốt lạnh
gây không ít khó khăn cho nông dân và cho sản xuất nông nghiệp.
Nhân cơ hội thực tập tại Tập đoàn Hóa chất Việt Nam tôi đã chọn đề tài “
chiến lược phát triển ngành phân bón của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam ” để tìm ra
các yếu tố cơ bản của thị trường phân bón như: cung, cầu, giá cả phân bón trên thị
trường và các chính sách điều tiết của nhà nước nhằm tìm ra những giải pháp cơ bản
ổn định vấn đề phân bón, thị trường phân bón ở Việt Nam và thị trường nhập khẩu
phân bón của Việt Nam.
Nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp là đi sâu nghiên cứu thực trạng
thực hiện chiến lược phát triển ngành phân bón của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
5
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
trong giai đoạn hiện nay, đông thời đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng
chiến lược phát triển ngành phân bón của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chiến lược phát triển ngành.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chiến lược ngành phân bón của Tập đoàn
Hóa chất Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng chiến lược phát triển
ngành phân bón của Tập đoàn hóa chất Việt Nam.
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
6
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH.
I. Khái niệm và nội dung chiến lược phát triển ngành.
1. Khái niệm chiến lược phát triển.
Trước khi đi sâu nghiên cứu chiến lược phát triển ngành nói riêng, chúng ta sẽ
đi nghiên cứu vê chiến lược phát triển nói chung.
Trên thực tế, khái niệm chiến lược đã có từ rất lâu đời. Từ khoảng thế kỷ thứ 7
trước Công nguyên tại Trung Quốc, khi vạch ra kế hoạch và chỉ huy chiến tranh
người ta sử dụng các khái niệm “mưu toán” với ý nghĩa là chiến lược.
(1)
Còn ở phương Tây, từ chiến lược được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ
“Strategem” hoặc “Strateges”. Sau này nhiều nước sử dụng từ chiến lược lý giải về ý
nghĩa chung là “nghệ thuật thống soái”, về sau mới có nội dung của từ chiến lược
ngày nay, và nó khác với chiến thuật và chiến dịch.
(2)
Trong cuốn “lý luận chung về chiến thuật” do một người Pháp tên là Gilbert
viết năm 1772 có nêu ra hai khái niệm “đại chiến thuật” và “tiểu chiến thuật”. Khái
niệm “đại chiến thuật” có ý nghĩa tương đương với chiến lược ngày nay, còn “tiểu
chiến thuật” có ý nghĩa là chiến thuật như ngày nay.
(3)
Như vậy cũng đã tồn tại cách
hiểu rằng chiến lược có nghĩa là “nghệ thuật của tướng lĩnh” để tìm ra con đường
đúng đắn nhất giành chiến thắng.
Trong một thời gian dài, từ chiến lược chỉ được dùng như một thuật ngữ quân
sự. Trong cuốn “Vấn đề chiến lược trong chiến tranh cách mạng Trung Quốc”, Mao
Trạch Đông đã khái quát một cách khoa học khái niệm về chiến lược “Vấn đề chiến
lược là vấn đề nghiên cứu quy luật toàn cục của chiến tranh”, “phàm là mang tính
chất của các phương diện và các giai đoạn, tất cả đều là toàn cục của chiến tranh”.
(4)
Với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội ở thời kỳ cận đại, từ chiến lược
đã dần được sử dụng vào lĩnh vực chính trị, do vậy các khái niệm chiến lược cách
mạng, chiến lược chính trị lần lượt được ra đời. Với khái niệm chính trị, chiến lược
có ý nghĩa bao quát hơn sách lược. Stalin đã viết: “chiến lược và sách lược là khoa
học chỉ đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản”, “chiến lược chính là quy định hướng
tấn công chủ yếu của giai cấp vô sản trong một giai đoạn nhất định của cách mạng, là
(
1,2,3) trang 5 Giáo trình chiến lược phát triển kinh tế xã hội
(
(
4,5) trang 6 Giáo trình chiến lược phát triển kinh tế xã hội
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
7
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
vạch kế hoạch bố trí tương ứng các lực lượng cách mạng (lực lượng hậu bị chủ yếu
và thứ yếu), là đấu tranh thực hiện kế hoạch ấy trong suốt quá trình của giai đoạn
cách mạng đó”.
(5)
Về mặt lĩnh vực kinh doanh, lập kế hoạch chiến lược cho doanh nghiệp phổ
biến vào những năm 1960 đối với các doanh nghiệp lớn khi mà hoạt động của chúng
trở nên phức tạp hơn, cạnh tranh gay gắt, đa dạng hơn trong khi các tiến bộ về khoa
học công nghệ trở nên tăng tốc hơn, đòi hỏi phải có những kế hoạch dự trù cho việc
hoạt động đạt được hiệu quả cao nhất.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ở phương Tây đã lưu hành khái niệm
chiến lược Quốc gia. Chiến lược Quốc gia là chiến lược ở tầm vĩ mô, là chiến lược
cao nhất ở tầm quốc gia. Chiến lược này là đại chiến lược.
Trong giai đoạn hoà bình, chúng ta có khái niệm chiến lược phát triển kinh tế
và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, “chiến lược là những mưu tính và quyết sách đối với những vấn đề
trọng đại có tính chất toàn cục và lâu dài. Khoa học nghiên cứu những vấn đề lý
luận và phương pháp đưa ra các quyết sách những vấn đề trọng đại và lâu dài gọi
là chiến lược học”.
(6)
2. Khái niệm về chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Nếu chiến lược được nhìn từ góc độ quản lý thì đó là quyết sách toàn cục của
một phạm vi không gian rộng lớn trong một thời gian dài. Và là sự trù tính của chủ
thể đối với toàn cục phát triển của sự vật.
Ta có, chiến lược phát triển KTXH của mỗi Quốc gia sẽ là sản phẩm của Nhà
nước đó. Nhà nước trên cơ sở nhận thức các quy luật phát triển kinh tế xã hội khách
quan, các mối quan hệ nội tại trong quá trình phát triển, dựa vào điều kiện hoàn cảnh
bên trong của đất nước và điều kiện quốc tế ở mỗi thời kỳ nhất định để đưa ra những
kế sách chung, có tính toàn cục về sự phát triển kinh tế xã hội trong một thời gian
tương đối dài. Thời gian của chiến lược có thể là 10 , 15, 20 năm hoặc lâu hơn.
(7)
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các mục tiêu phát triển cả lĩnh
vực kinh tế và lĩnh vực xã hội, được đặt trong cùng mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau cũng như dựa vào đó để đưa ra giải pháp thực hiện đồng bộ và có hiệu quả cao
nhất những mục tiêu kinh tế và xã hội đã đặt ra.
(
(6)
Trang 7: Giáo trình chiến lược phát triển kinh tế xã hội
(7)
Trang 8: Giáo trình chiến lược phát triển kinh tế xã hội
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
8
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội về cơ bản được xem là một hệ thống các
phân tích đánh giá và lựa chọn về căn cứ của chiến lược, các quan điểm cơ bản (tư
tưởng chỉ đạo và chủ đạo), các mục tiêu tổng quát và mục tiêu chủ yếu, các định
hướng phát triển chủ yếu trong các lĩnh vực của đời sống đất nước, các giải pháp cơ
bản, chủ yếu là chính sách về cơ cấu và cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội,
các chính sách về bồi dưỡng, khai thác,huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực phát triển, các biện pháp về tổ chức thực hiện chiến lược
(8)
.
3. Khái niệm và nội dung của chiến lược phát triển ngành.
3.1. Khái niệm chiến lược phát triển ngành.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội bao gồm cả chiến lược phát triển
ngành, do vậy chiến lược phát triển ngành là một bộ phận của chiến lược phát triển
kinh tế xã hội (xét theo cấp độ quản lý). Chiến lược phát triển ngành phải phục tùng
chiến lược Quốc gia.
Chiến lược phát triển ngành là một hệ thống các mục tiêu và các biện pháp
thực hiện của ngành đặt ra.
Như vậy, chiến lược phát triển ngành là hệ thống các phân tích đánh giá và lựa
chọn về căn cứ định hướng của chiến lược phát triển, các quan điểm cơ bản (tư tưởng
chủ đạo và chỉ đạo), các mục tiêu tổng quát và mục tiêu chủ yếu, các định hướng
phát triển chủ yếu, các giải pháp cơ bản (chủ yếu thông qua các chính sách, quy
hoạch phát triển, bồi dưỡng, khai thác, huy động và phân bổ, sử dụng các nguồn lực
phát triển, biện pháp về tổ chức thực hiện chiến lược dựa trên chiến lược phát triển
kinh tế xã hội chung của cả đất nước).
3.2. Các đặc trưng của chiến lược phát triển ngành.
Đặc trưng của chiến lược phát triển ngành cũng giống chiến lược, nó bao gồm
những đặc trưng sau đây:
- Chiến lược phát triển ngành có tính lâu dài của chiến lược:
Thời gian của việc thực hiện một chiến lược phát triển ngành là từ 10 năm, 15
năm, 20 năm hoặc lâu hơn.
Chiến lược phát triển ngành có tính lâu dài vì nó định hướng các mục tiêu có tính
tổng quát cho toàn ngành, nó xác định các mục tiêu cần đạt đến của ngành trong một
khoảng thời gian dài. Những mục tiêu tổng quát đó sẽ được thực hiện gắn liền với những
thay đổi lớn về khoa học và công nghệ, làm chuyển biến căn bản về lực lượng sản xuất,
(8)
Trang 14: Giáo trình chiến lược phát triển kinh tế xã hội
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
9
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
các mối quan hệ sản xuất. Hay có thể hiểu mục tiêu tổng quát sẽ được đề ra trên cơ sở
các dự báo dài hạn về sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Chiến lược phát triển ngành có tính lâu dài vì nó phải mang tính định hướng,
phản ánh xu thế vận động đi lên của toàn ngành cũng như sự phát triển của toàn
ngành trong sự phát triển chung của toàn nền kinh tế.
Ngoài ra, chiến lược phát triển ngành có tính lâu dài vì cần phải có thời gian
lâu dài mới có được những biến đổi căn bản trong việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng, các
quan hệ sản xuất mới, các nguồn lực khác…
- Chiến lược phát triển ngành có tính toàn diện:
Cũng giống như chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển ngành
cũng phải phản ánh mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Muốn đạt được những mục tiêu
tổng quát đã đặt ra thì trước hết phải đạt được các mục tiêu bộ phận và như vậy cần phải
phán ánh được các mục tiêu bộ phận đó.
- Chiến lược phát triển ngành có tính hệ thống: Chiến lược phát triển phải bao
gồm nhiều chiến lược bộ phận tuỳ theo cách tiếp cận. Việc thực hiện thành công
mục tiêu chiến lược phải bao gồm việc thực hiện thành công các mục tiêu bộ phận.
Tính hệ thống được biểu hiện trong tất cả các nội dung của chiến lược.Tính hệ thống
thể hiện tính thống nhất, toàn diện, cân đối trong toàn bộ quá trình phát triển.
- Chiến lược phát triển ngành có tính hiệu quả:
Đây chính là hiệu quả kinh tế xã hội. Cần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội vì
đây là vấn đề có tính quy luật phổ biến, là quy luật mà bất cứ thời kỳ nào cũng phải
đặt ra. Do vậy việc lựa chọn các bước thực hiện hiện chiến lược, các chính sách, giải
pháp huy động nguồn mực nhằm mục tiêu tổng quát đều phải được thực hiện trên
nguyên tắc hiệu quả.
- Chiến lược phát triển ngành có tính chủ thể Nhà nước:
Nhà nước có hai chức năng là chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Vai trò
quản lý kinh tế thuộc chức năng xã hội trong đó hoạch định và tổ chức thực hiện
chiến lược phát triển là một nội dung quan trọng.
3.3. Nội dung của chiến lược phát triển ngành.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội bao gồm những nội dung sau:
- Các căn cứ của chiến lược phát triển ngành :
Để xây dựng chiến lược phát triển ngành nói riêng cũng như chiến lược phát
triển nói chung, ta đều phải dựa trên kinh nghiệm cũng như lịch sử phát triển của
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
10
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
chính quốc gia và các nước khác, dựa trên các số liệu, tài liệu thu thập được trong
một khoảng thời gian gần nhất (khoảng 10 năm trước thời kỳ chiến lược).
Cần phải xác định được điểm xuất phát, ta đang ở giai đoạn nào của quá trình
phát triển, cơ sở tiển đề cho sự phát triển đấy là gì,…
Cần thực hiện được các đánh giá, dự báo nguồn lực, các lợi thế so sánh và môi
trường trong nước, quốc tế, các tác động từ bên ngoài đến ngành trong thời kỳ chiến
lược (địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn,…).
- Các quan điểm cơ bản của chiến lược phát triển ngành:
Quan điểm cơ bản của chiến lược là những tư tưởng chủ đạo và chỉ đạo thể
hiện tính định hướng của chiến lược. Nó sẽ quyết định con đường và phương hướng
cho các giải pháp lớn. Việc xác định các quan điểm cơ bản có ý nghĩa quan trọng
trong việc tìm ra các bước ngoặt của con đường phát triển, tạo động lực cơ bản xuyên
suốt quá trình phát triển.
Các quan điểm cơ bản tạo nên một hệ quan điểm, nó sẽ là bộ khung cho việc
xác định các mục tiêu phát triển cũng như các giải pháp lớn để đạt được mục tiêu đó
trong một thời kỳ nhất định.
Như vậy hệ quan điểm chiến lược có ý nghĩa chủ đạo trong việc xây dựng
chiến lược, nó là linh hồn, là tư tưởng của bản chiến lược mà trong từng phần nội
dung của chiến lược phải thực hiện được. Nó sẽ thể hiện những nét khái quát đặc
trưng nhất, có tính nguyên tắc về mô hình và con đường phát triển nhằm hướng đến
mục tiêu dài hạn.
- Các mục tiêu phát triển ngành:
Mục tiêu phát triển là mức phấn đấu cần phải đạt được qua một thời kỳ nhất
định. Mục tiêu bao gồm cả phần định tính và phần định lượng, phản ánh một cách
toàn diện những biến đổi quan trọng của nền kinh tế. Nó phải phản ánh được sự thay
đổi về chất của nền kinh tế xã hội.
Việc xác định muc tiêu phát triển phải xuất phát từ khả năng thực tế, đòi hỏi
của cuộc sống, yêu cầu của thị trường sao cho phù hợp với bối cảnh trong và ngoài
nước, nhằm đạt được sự phát triển bền vững, đạt hiệu quả kinh tế xã hội và tạo được
động lực cho sự phát triển của riêng ngành cũng như tác động cơ bản tới các ngành,
lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
Việc xác định các mục tiêu phải trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ
bản đã đặt ra. Mục tiêu phải được lựa chọn trên nhiều phương án sao cho đảm bảo
tính hiện thực, tích cực, vững chắc nhưng cũng vừa đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo.
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
11
Chuyªn §Ò Thùc TËp Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS NguyÔn TiÕn Dòng
Mục tiêu chiến lược phát triển ngành phải vừa hàm chứa cả mục tiêu tổng quát và
mục tiêu cụ thể, vừa có mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội, vừa có mục tiêu dài hạn,
vừa có mục tiêu tình thế.
- Các biện pháp và chính sách để thực hiện chiến lược phát triển ngành:
Các biện pháp và chính sách là hướng dẫn cụ thể về cách thức thực hiện nhằm
đảm bảo hoàn thành các mục tiêu chiến lược đã đề ra. Và để đạt được các mục tiêu
đấy, chúng ta cần xác định được các khâu chủ đạo và chính yếu trong toàn bộ quá
trình phát triển nhằm tạo ra động lực đột phá, thực hiện tốt nhất các nguồn lực phát
triển.
Chính sách và biện pháp gồm nhiều loại, cần tuỳ thuộc vào tính chất cũng như
đặc điểm của từng ngành, lĩnh vực mà chúng ta sẽ tiếp cận theo từng nội dung khác
nhau.
Các chính sách và biện pháp thể hiện sự hướng dẫn về cách thức thực hiện các
mục tiêu đề ra. Nó bao gồm các chính sách và biện pháp về cơ cấu và cơ chế vận
hành hệ thống kinh tế xã hội của toàn ngành, các chính sách về khai thác, bồi dưỡng,
huy động, phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực phát triển.
II. Mối tương quan giữa quy hoạch phát triển và chiến lược phát triển
Quy hoạch phát triển là một hoạt động tổng hợp với sự tham gia của nhiều
ngành và nhiều lĩnh vực, do đó cũng có sự khác nhau về cách nhìn nhận. Vì vậy, khái
niệm quy hoạch phát triển có thể tiếp cận theo các quan điểm khác nhau.
Theo cách hiểu cũ về quy hoạch Le Corbusiter nhà quy hoạch người Pháp cho
rằng quy hoạch phát triển là một sự sắp xếp trên mặt đất những cơ sở hoạt động của
con người bao gồm những công trình sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, mạng lưới
giao thong, rừng cây, khoảng trống nhà ở và các công trình phục vụ sinh hoạt khác
nhau nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu và mong muốn của con người.
Cùng với quan điểm đó thì Pertxit thì cho rằng, quy hoạch hoạt động lý luận
và thực tiễn về phân bố hợp lý đất trên lãnh thổ các cơ sở sản xuất, phục vụ sản xuất,
các điểm dân cư có tính toán, tổng hợp những vấn đề địa lý, kinh tế xã hội, kiến trúc,
được xây dựng dựa trên kết quả dự đoán chiến lược và kinh tế xã hội phát triển kinh
tế tổng thể.
Điều trước hết được quan tâm là khái niệm về quy hoạch phát triển phải được
thống nhất – Quy hoạch phát triển là gì – nó còn là vấn đề mới mẻ chưa được xác
định thống nhất một cách rõ rang mà còn chứa đựng nhiều ý tứ nước đôi mập mờ gây
không ít khó khăn với những ai bước đầu làm quen với môn học. Quy hoạch phát
SV: NguyÔn ThÞ LÖ Líp: KÕ Ho¹ch 49B
12