Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KINH tế PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP ở TỈNH CHĂM PA sắc GIAI đoạn từ NAY đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.06 KB, 90 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING TP. HỒ CHÍ MINH

BOUNYADETH THONGSAVANH

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KINH TẾ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH CHĂM PA SẮC
GIAI ĐOẠN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING TP. HỒ CHÍ MINH

BOUNYADETH THONGSAVANH

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KINH TẾ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH CHĂM PA SẮC
GIAI ĐOẠN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60340102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Trường

TP. HỒ CHÍ MINH , NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN




Tôi tên Thong Sa Vắn Bun Nha Đết - là tác giả Luận văn Thạc sỹ chuyên
ngành quản trị kinh doanh với đề tài “hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển
nông nghiệp ở tỉnh Chăm Pa Sắc giai đoạn từ nay đến năm 2020”. Tôi xin
cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những số liệu, dữ liệu, thông tin trung thực; các trích dẫn, tham chiếu
đúng nguồn. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong Luận văn này chưa từng
được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả thực hiện luận văn

Thong Sa Vắn Bun Nha Đết

LỜI CẢM ƠN


Tôi xin chân thành cám ơn các Thầy Cô của trường Đại học Tài chính Marketing TPHCM đã truyền đạt cho tôi kiến thức trong suốt những năm học
thạc sỹ ở trường.
Với tư cách là một học viên Lào, thành quả hôm nay mà tôi có ngoài sự nỗ
lực của riêng tôi còn có sự giúp đỡ vô cùng to lớn về vật chất cũng như tinh thần
của Đảng, Chính phủ Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tôi xin trân thành cảm ơn TS. Nguyễn Xuân Trường đã tận tình hướng
dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn này.

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


CNH, HĐH
CHDCND
XHCN

NDCM
CHXHCN
TBKHCN
CS
KNV
UBND
TW
TPKT
HTX

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cộng hòa dân chủ nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
Nhân dân cách mạng
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Tiến bộ khoa học-công nghệ
Chính sách
Khuyến nông vùng
Ủy ban nhân dân
Trung ương
Thành phần kinh tế
Hợp tác xã


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
STT
Tên bảng, biểu đồ
Trang
1 Hình 1.1: Quá trình hoạch định, tổ chức thực hiện và điều chỉnh 21
chính sách kinh tế nông nghiệp

2 Bảng 2.1: Kết quả khảo sát về những vấn đề tồn tại hạn chế của 41
chính sách đất đai trong phát triển kinh tế nông nghiệp tỉnh Chăm
Pa Sắc
3 Bảng 2.2: Số liệu khảo sát về tồn tại hạn chế của chính sách 50
chuyển giao tiến bộ khoa học-công nghệ tỉnh Chăm Pa Sắc
4 Bảng 2.3: Số liệu khảo sát về những tồn tại của chính sách đầu tư 54
vốn trong nông nghiệp tỉnh Chăm Pa Sắc
5 Bảng 2.4: Số liệu khảo sát về những tồn tại của chính sách thị 57
trường trong phát triển nông nghiệp của tỉnh Chăm Pa Sắc
6 Bảng 2.5: Số liệu khảo sát về những tồn tại của chính sách phát 61
triển quan hệ sản xuất nông nghiệp tỉnh Chăm Pa Sắc
7 Bảng 3.1: Số liệu khảo sát về kiến nghị sửa đổi bổ sung chính sách 73
chuyển giao khoa học-công nghệ trong nông nghiệp tỉnh Chăm Pa
Sắc
8 Bảng 3.2: Số liệu khảo sát về kiến nghị sửa đổi bổ sung chính sách 76
đầu tư vốn trong nông nghiệp tỉnh Chăm Pa Sắc
9 Bảng 3.3: Số liệu khảo sát về kiến nghị sửa đổi bổ sung chính sách 79
thị trường trong nông nghiệp tỉnh Chăm Pa Sắc
10 Bảng 3.4: Số liệu khảo sát kiến nghị đổi mới và phát triển quan hệ 81
sản xuất trong nông nghiệp tỉnh Chăm Pa Sắc


MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước Lào đã có rất nhiều nghị quyết nhằm không
ngừng xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp. Trong thực tế những
chính sách này đang khơi dậy và phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển kinh tế
nông nghiệp của đất nước. Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, những năm
qua chính sách kinh tế trong phát triển nông nghiệp của tỉnh Chăm Pa Sắc đã đưa đến
nhiều thành quả quan trọng. Về cơ bản đã giải quyết được nhu cầu lương thực, thực

phẩm của người dân trong tỉnh, đáp ứng một phần quan trọng nguyên liệu cho ngành
công nghiệp chế biến và đang phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa tập trung.
So với trước đây, Chăm Pa Sắc đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế, tuy
nhiên, nông nghiệp Chăm Pa Sắc đang gặp phải những khó khăn trở ngại. Tỷ trọng cơ
cấu nông nghiệp trong nền kinh tế còn cao, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm nông nghiệp còn yếu. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp chưa
tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng những yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp. Theo tác giả có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này, song trước hết phải kể đến hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông
nghiệp của Chăm Pa Sắc chưa đồng bộ, thiếu phù hợp, chưa thực sự trở thành động
lực cho sự phát triển kinh tế của địa phương.
Để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 3 (khóa IX) về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, thời kỳ 20112015, nhằm đưa kinh tế nông nghiệp Chăm Pa Sắc bước sang một giai đoạn phát triển
mới, cần phải thực hiện đồng bộ một hệ thống các giải pháp, trong đó việc hoàn thiện
các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp.
Từ những vấn đề như đã phân tích trên, tác giả cho rằng để tài: " Hoàn thiện
chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Chăm Pa Sắc trong giai đoạn từ
nay đến năm 2020" là có tính cấp thiết cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.

1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều tác giả trong nước và nước ngoài có công trình nghiên cứu hoặc
viết bài về các chính sách kinh tế thúc đẩy phát triển nông nghiệp ở Lào. Chỉ tính riêng
trong những năm đầu của thế kỷ XXI có khá nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu
được công bố như: "Ảnh hưởng của chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của PGS.TS Ngô Đức Cát, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân; "Về một số chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta
trong thời kỳ mới" của PGS.TS Đặng Văn Thanh, Bộ Tài chính; "Hoàn thiện các chính

1



sách đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa" của ThS. Vũ Thị Thảo, Trường Đại học Kinh tế quốc dân; Luận án Tiến sĩ
kinh tế của tác giả Nguyễn Tiến Dĩnh, năm 2003: "Hoàn thiện các chính sách kinh tế
phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa"; Luận văn thạc sĩ của tác giả Phon Xay năm 2011: “Thúc đẩy hàng nông
sản của tỉnh Sa La Văn nước CHDCND Lào đến năm 2020” ...
Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào phân tích vai trò của hệ thống
chính sách trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở hai
khía cạnh lý luận và thực tiễn, trên phạm vi quốc gia và địa phương. Đồng thời, đưa ra
các kiến nghị, giải pháp nhằm không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển
kinh tế nông nghiệp ở Lào và ở một số địa phương cụ thể. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu này chưa có điều kiện đi sâu tính đặc thù, điều kiện xuất phát thấp, tính đa
dạng và phức tạp... trong phát triển kinh tế nông nghiệp của một địa phương như ở
Chăm Pa Sắc.
Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiên cứu về vấn đề hoàn thiện chính sách phát triển
kinh tế nông nghiệp là cần thiết, có cơ sở khoa học và thực tiễn.

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thực tiễn cho thấy luôn có một hệ thống các chính sách đồng thời tác động đến
kinh tế nông nghiệp, với phạm vi rất rộng gồm nhiều loại, tuy nhiên trong khuôn khổ
của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu sáu chính sách kinh tế chủ yếu trong
phát triển nông nghiệp đó là: Chính sách sử dụng đất đai; chính sách đầu tư vốn; chính
sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chính sách ứng dụng khoa học - công nghệ trong
trồng trọt và chăn nuôi; chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính
sách phát triển các thành phần kinh tế.
Luận văn được nghiên cứu tập trung trong phạm vi chính sách phát triển nông
nghiệp ở các huyện, đô thị của tỉnh Chăm Pa Sắc.

1.4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

1.4.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện các chính sách kinh tế nông nghiệp,
đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện một số chính sách kinh tế chủ yếu thúc đẩy phát
triển nông nghiệp tỉnh Chăm Pa Sắc trong những năm tới theo hướng nông nghiệp
hàng hóa và CNH, HĐH đúng với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

2


1.4.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách kinh tế nông nghiệp,
ở ba cấp độ: thế giới, quốc gia và địa phương.
- Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện một số chính sách kinh tế trong
nông nghiệp của tỉnh Chăm Pa Sắc trong thời gian qua, những vấn đề đặt ra nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện một số chính sách kinh tế thúc đẩy
phát triển nông nghiệp ở tỉnh Chăm Pa Sắc trong những năm tới.

1.5. Phương pháp nghiên cứu
Các quan điểm và sự phân tích của luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng Nhân dân
cách mạng Lào về phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, luận văn
còn vận dụng các học thuyết kinh tế hiện đại, gắn với đặc thù của địa phương theo quan
điểm toàn diện, lịch sử và cụ thể.
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết
hợp giữa lôgic và lịch sử, toàn diện và cụ thể để hệ thống hóa quá trình và các quan
điểm, lý thuyết trong phát triển kinh tế nông nghiệp. Cũng như kết hợp với thực tiễn,
kinh nghiệm phát triển kinh tế nông nghiệp ở trong nước và các nước trên thế giới. Từ

đó tiến hành phân tích, đánh giá, chọn lọc rút ra những nhận xét, kết luận và những đề
xuất cụ thể cho việc hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp của tỉnh.
Luận văn đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học về kinh tế: Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu, chuyên
gia và hệ thống hóa để từ thực tiễn rút ra những vấn đề lý luận và các chính sách cụ thể
chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

1.6. Đóng góp của luận văn
Kết quả của luận văn sẽ đóng góp những vấn đề sau:
- Tiếp tục hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách kinh tế phát
triển nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế trong nông
nghiệp Chăm Pa Sắc, đồng thời đưa ra những vấn đề cần phải tiếp tục hoàn thiện.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện các chính sách kinh tế chủ yếu phát triển nông
nghiệp Chăm Pa Sắc trong những năm tới.

3


- Luận văn sẽ góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập và chỉ đạo thực tiễn về lĩnh vực chính sách
kinh tế phát triển nông nghiệp.

1.7. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và nhứng danh mục tài liệu tham khảo
còn bao gồm 3 nội dung chính sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về chính sách nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp tỉnh Chăm Pa
Sắc trong những năm qua.
Chương 3: Định hướng mục tiêu và giải pháp hoàn thiện các chính sách kinh tế

phát triển nông nghiệp tỉnh Chăm Pa Sắc giai đoạn từ nay đến năm 2020.

4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP
1.1 Những quan điểm cơ bản về phát triển nông nghiệp trong phát triển
kinh tế - xã hội
1.1.1 Một số học thuyết kinh tế bàn về vai trò của nông nghiệp
Trong lịch sử phát triển tri thức khoa học kinh tế của nhân loại đã xuất hiện
nhiều lý thuyết kinh tế đề cập tới vai trò của kinh tế nông nghiệp trong toàn bộ quá
trình phát triển kinh tế-xã hội. Các lý thuyết đó có ảnh hưởng quan trọng tới việc xây
dựng phát triển các mô hình kinh tế nông nghiệp của các quốc gia và khu vực trong
những thời kỳ lịch sử nhất định. Trong quá trình khảo cứu tác giả nhận thấy nội dung
của các lý thuyết bàn về phát triển nông nghiệp là rất phong phú, tuy nhiên có một vấn
đề hết sức quan trọng và liên quan đến chuyên đề nghiên cứu của tác giả chính là, sự
khẳng định và nhấn mạnh vai trò của phát triển kinh tế nông nghiệp ở các nước đang
phát triển. Đẩy mạng phát triển kinh tế nông nghiệp chính là yếu tố then chốt để tăng
trưởng kinh tế cho các nước đang phát triển, đồng thời góp phần tạo ra những tiền đề
ban đầu để tiến hành CNH, HĐH. Sau đây tác giả xin giới thiệu một số lý thuyết kinh
tế cơ bản bàn đến vai trò của kinh tế nông nghiệp.
1.1.1.1. Kinh tế học cổ điển
Trường phái trọng thương: Trường phái này ra đời ở Tây Âu trong điều kiện
chủ nghĩa tư bản tích lũy nguyên thủy, cho rằng nông nghiệp chỉ là một nghề "trung
gian" giữa hoạt động tích cực và tiêu cực, vì nông nghiệp không tăng thêm nhưng cũng
không tiêu hao của cải. Còn nguồn gốc của cải nằm trong ngoại thương và trong lợi
nhuận do chuyển nhượng. Do đó, quan điểm bao trùm của phái trọng thương là coi
ngoại thương là nguồn gốc duy nhất và không thể thay thế để tạo ra của cải quốc dân.
Như vậy, lý thuyết này có đề cập đến kinh tế nông nghiệp, tuy nhiên lại chưa thực sự

đánh giá hết vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trường phái trọng nông: Cùng tồn tại với trường phái trọng thương ở Tây Âu
thế kỷ XVIII còn xuất hiện trường phái trọng nông. Trường phái này phát triển và có
ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước Pháp thời bấy giờ. Lúc đó nền kinh tế nông nghiệp của
nước Pháp ở giữa thế kỷ XVIII đang lâm vào tình trạng trì trệ, giảm sút nghiêm trọng,
để thoát khỏi tình trạng đó giải pháp được thực hiện là phát triển kinh tế nông nghiệp.
Gần như đối lập và chống lại phái trọng thương, phái trọng nông lại coi nông nghiệp là
ngành duy nhất tạo ra sản phẩm cho xã hội và chỉ có lao động nông nghiệp mới là lao
động sản xuất. Đại biểu lớn nhất của trường trọng phái nông là Ph.Quyêc-nê. Ông cho
rằng chỉ có nông nghiệp mới làm tăng sự giàu có cho xã hội. Còn các ngành kinh tế

5


khác như công nghiệp, thương mại... chỉ làm thay đổi hình thái của của cải và chúng
không tạo thêm giá trị cho của cải. Nhưng không phải bất kỳ nền nông nghiệp nào
cũng tạo ra sản phẩm ròng, mà chỉ có nền nông nghiệp tổ chức theo kiểu đồn điền tư
bản chủ nghĩa mới tạo ra sản phẩm ròng, vì như vậy mới đảm bảo được chi phí lao
động ở mức thấp nhất. Quan điểm trường phái này đã nhấn mạnh: trong một xã hội
nông nghiệp là nền tảng, tất yếu phải chú trọng tới sản xuất nông nghiệp, vì nó là điểm
xuất phát cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Và con đường của sự phát triển nông
nghiệp là làm tan rã nông nghiệp truyền thống, tạo ra một nền nông nghiệp sản phẩm
ròng, tức là một nền nông nghiệp thương phẩm. Nền nông nghiệp mà chủ nghĩa trọng
nông hướng tới là một nền nông nghiệp kinh doanh theo phương thức tư bản chủ
nghĩa, với mục tiêu theo đuổi các giá trị mới. Họ khẳng định, nông nghiệp là nơi tạo ra
tích lũy vốn ban đầu cho sự phát triển. Hạn chế của trường phái này là tuyệt đối hóa
vai trò của xã hội công nghiệp phát triển, còn phát triển nông nghiệp chỉ là giai đoạn
tất yếu, cơ bản và phải bị vượt qua trong quá trình phát triển.
Trường phái của David Ricado: Khi bàn đến phát triển kinh tế nông nghiệp,
nhà kinh tế học cổ điển người Anh là David Ricado cho rằng: Phát triển nông nghiệp

không có lợi vì đất đai có giới hạn, do đó khi dân cư tăng lên phải canh tác cả trên
những đất đai xấu, dẫn đến tình trạng lợi nhuận nông nghiệp giảm, ảnh hưởng đến tích
lũy của cải, tăng tư bản, do đó nông nghiệp là giới hạn của sự tăng trưởng. "Trong
"Nguyên lý kinh tế chính trị học và thuế", Ricardo đã cho rằng hạn chế tăng trưởng
nông nghiệp sẽ tạo ra giới hạn cận trên cho khu vực phi nông nghiệp và sự hình thành
vốn để mở rộng kinh tế"".
Ricacdo còn cho rằng, khi dân số tăng lên, nhu cầu về nông sản ngày càng
nhiều, buộc người ta phải tính đến những mảnh đất ít màu mỡ hơn để canh tác và như
vậy làm cho hiệu quả đầu tư vốn trong nông nghiệp bị giảm dần. Theo ông sự phát
triển của nông nghiệp cũng là động lực để phát triển các ngành kinh tế khác.
1.1.1.2. Kinh tế học Mác - Lênin
Có thể chia kinh tế học Mác - Lênin thành hai giai đoạn phát triển, giai đoạn
Mác - Ăngghen và giai đoạn Lênin.
Kinh tế học Mác - Lênin giai đoạn C.Mác - Ph. Ăngghen ra đời trong điều kiện
chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ đầu của sự phát triển. Các ông cho rằng sự phát triển
của nông nghiệp là cơ sở cho sự phát triển của xã hội; năng suất lao động nông nghiệp
vượt quá mức nhu cầu cá nhân của người lao động là cơ sở của mọi xã hội và trước hết
là cơ sở của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, trong quan điểm bàn về phát triển
kinh tế Mác và Ăng-ghen đã rất coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nó là điểm xuất
phát trong tiến trình phát triển. Nhưng nông nghiệp phát triển theo con đường nào? Đó

6


là vấn đề mà các ông còn quan tâm hơn. Mác và Ăngghen đã đưa ra khái quát rằng cần
thiết phải giao đất cho những người lao động nông nghiệp đã được liên hợp lại. Các
ông cũng đã chỉ ra tính chất nhiều vẻ của nông nghiệp trong những điều kiện khác
nhau, sự khác nhau đó xuất phát không chỉ về vị trí và chất lượng của đất đai mà còn
là do sự khác nhau về qui mô đầu tư vào tư bản ruộng đất, bao gồm thay đổi về kỹ
thuật, tiến hành thâm canh và chế độ canh tác hợp lý...

Kinh tế học Mác - Lênin giai đoạn Lênin được xây dựng trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội (XHCN) đang được xác lập
ở nước Nga. Lênin là người đã kế tục xuất sắc các quan điểm của Mác - Ăngghen về
kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng. Ông cho rằng việc xuất hiện chủ
nghĩa tư bản trong nông nghiệp, tức là hình thành một nông nghiệp thương phẩm, xét
về mặt lịch sử là một bước tiến bộ. Chủ nghĩa tư bản đã xã hội hóa sản xuất nông
nghiệp, đã biến nông nghiệp trở thành một lĩnh vực kinh doanh như những lĩnh vực
khác. Lênin đã khẳng định công lao của chủ nghĩa tư bản trong phát triển kinh tế nông
nghiệp, chính chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Ngay từ lúc đó
Lênin đã khái quát và chỉ ra hai con đường phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông
nghiệp là con đương kiểu Phổ (những đại điền trang được duy trì) và con đường kiểu
Mỹ (cách mạng xóa bỏ chế độ chiếm hữu đất đai của địa chủ).
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, khi chính quyền đã về tay những người cộng
sản và nhân dân lao động, Lênin có điều kiện để áp dụng tư tưởng kinh tế của mình
vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện chiến tranh ông đã tiến
hành thực hiện chính sách kinh tế "Cộng sản thời chiến". Sau khi hòa bình lập lại trên
đất nước Lênin sớm nhận ra sự lạc hậu, không phù hợp của mô hình chính sách kinh tế
này trong điều kiện mới. Do vây, ông đã nhanh chóng thực hiện mô hình "Chính sách
kinh tế mới" (NEP). Trong nội dung của (NEP) Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề
phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước Nga lúc bấy giờ. Chẳng hạn, dưới sự lãnh đạo
của ông hàng loạt các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp đã được thực hiện,
như: chính sách thuế lương thực; chính sách xóa bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa;
chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp thông qua trao
đổi sản phẩm giữa nông nghiệp với công nghiệp... Thực tế đã chứng minh tính đúng
đắn của Lênin trong thực hiện các chính sách kinh tế nông nghiệp thời kỳ hòa bình và
xây dựng của nước Nga.
Từ quan điểm về chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của Lênin đã thể
hiện sự khẳng định vai trò to lớn của phát triển kinh nông nghiệp trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Ông cho rằng, trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa, phát


7


triển kinh tế nông nghiệp là giải pháp đầu tiên trước khi tiến hành công nghiệp hóa đất
nước.
1.1.1.3. Kinh tế học hiện đại
Lịch sử phát triển tri thức khoa học về kinh tế của thế giới trong thế
kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI đã ghi nhận sự cạnh tranh, thay thế nhau của
các học thuyết kinh tế. Do thực tiễn không ngừng vận động biến đổi và phát triển, cho
nên các lý thuyết kinh tế trên thế giới cũng không ngừng vận động, nhằm giải quyết
các vấn đề của nền kinh tế thị trường hiện đại. Kinh tế học hiện đại rất phong phú,
nghiên cứu nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế và xuất hiện nhiều quan điểm, trường
phái khác nhau. Tuy nhiên, về phát triển nông nghiệp, quan điểm của các lý thuyết
kinh tế thường tập trung nhấn mạnh vào một số luận điểm như sau:
Một là, con đường phát triển tất yếu đối với mọi quốc gia để chuyển từ nền kinh tế
tự nhiên sang nền kinh tế phát triển là nền kinh tế thị trường. Trong tiến trình đó, nông
nghiệp phải được coi là xuất phát điểm cho sự phát triển.
Hai là, nông nghiệp phải được giải phóng khỏi những quan hệ phong kiến, lệ
thuộc - trở lực cho sự phát triển sức sản xuất và phải trở thành nền nông nghiệp thương
phẩm, một lĩnh vực kinh doanh, một bộ phận trong cơ cấu chung của nền kinh tế thì
mới phát triển.
Ba là, dù bước đi và nội dung có những đặc điểm riêng, nhưng cũng giống như
những ngành khác, nông nghiệp cũng phải được từng bước CNH, HĐH.
Bốn là, kinh tế hộ gia đình và hình thức phát triển của nó theo yêu cầu của nông
nghiệp hàng hóa - trang trại gia đình - là hình thức kinh tế có sức sống mãnh liệt và có
tính thích ứng cao đối với mọi chế độ xã hội.
Năm là, muốn phát triển lĩnh vực kinh tế nông nghiệp các quốc gia, vùng kinh
tế phải lựa chọn lợi thế so sánh của sản phẩm, nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi
thế cạnh tranh.
Sáu là, kinh tế nông nghiệp phụ thuộc lớn vào thể chế, chính sách trong tiến

trình phát triển của các quốc gia.
Bảy là, từng ngành sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử có khác nhau, nhưng nhìn
chung nông nghiệp luôn chiếm vị trí trọng yếu ban đầu, sau đó giảm dần trong quá
trình phát triển, nhưng vai trò lại không giảm, nhất là có tác động của kinh tế thị
trường và công nghiệp hóa.

8


1.1.2 Quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về phát triển
kinh tế nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước
Trải qua hai thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, cơ cấu kinh tế của đất nước
Lào đã có những chuyển biến tích cực.
Tính đến thời điểm hiện tại, nông nghiệp chiếm khoảng 30,4% GDP, 23,4%
tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho 76,6% lao động xã hội, và liên quan đến thu
nhập, đời sống của khoảng 80% dân số nước Lào. Vì thế, nông nghiệp Lào chiếm vai
trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở của sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội.
Ngành kinh tế nông nghiệp của Lào hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu lương
thực, thực phẩm cho nhân dân, đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước mà còn cung
cấp một lượng lớn những nguyên liệu phục vụ cho các ngành công nghiệp, dịch vụ,
đặc biệt là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản,.. Đồng thời, nông nghiệp là nơi
cung cấp nguồn lao động dồi dào cho các ngành kinh tế khác trong xã hội.
Phát triển kinh tế nông nghiệp tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
theo hướng tích cực. Phát triển nông nghiệp sẽ góp phần giải quyết việc làm, tăng thu
nhập, nâng cao đời sống của lao động nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời làm tăng sức mua
và thúc đẩy các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển.
Phát triển kinh tế nông nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa, mà
sản phẩm nông nghiệp còn tham gia xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới. Các sản

phẩm từ nông nghiệp xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 5,69 tỷ USD, chiếm khoảng
23.4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chính nguồn thu nhập này đã góp phần quan trọng
vào nguồn thu ngân sách và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho phát triển nền kinh tế
của đất nước.
Phát triển kinh tế nông nghiệp còn là mục tiêu để bảo vệ và làm giàu môi
trường sinh thái, phục vụ đời sống xã hội thông qua việc bảo vệ và phát triển rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ và rừng kinh tế, phát triển các cụm cây xanh và mặt nước, kết hợp
giữa kinh tế và môi trường. Phát triển kinh tế nông nghiệp phải ứng dụng công nghệ cao,
công nghệ sạch, đảm bảo phát triển bền vững, giữ cho tài nguyên đất, tài nguyên nước
không bị ô nhiễm. Đồng thời, phát triển nông nghiệp là cơ sở cho sự phát triển bền vững
của môi trường sinh thái.
Phát triển nông nghiệp còn là điều kiện lưu giữ, giữ gìn các loại hình văn hóa
mang đậm bản sắc dân tộc Lào, phát huy truyền thống của dân tộc, phát triển du lịch,
đó là những giá trị văn hóa làng xã, những phi vật thể, những làng cổ, làng nghề...tạo
nên diện mạo đặc trưng của văn hóa dân tộc Lào.

9


Như vậy, phát triển kinh tế nông nghiệp ở Lào có vai trò to lớn trên nhiều
phương diện khác nhau. Và không chỉ bây giờ vai trò của lĩnh vực kinh tế nông nghiệp
mới được chúng ta khẳng định, mà ngay từ khi mới thành lập Đảng cho đến công cuộc
đổi mới hiện nay, Đảng NDCM Lào luôn khẳng định vai trò quan trọng của nông dân,
nông nghiệp trong tiến trình đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước Lào. Khi hòa
bình lập lại 1975 đã chỉ rõ đặc điểm lớn nhất của nước Lào trong thời kỳ quá độ là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên XHCN không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa để làm cơ sở xây dựng đường lối chiến lược và các mục tiêu kinh tế - xã
hội của Đảng. Đây là một nhận định hết sức đúng đắn và có tầm chiến lược của Đảng
NDCM Lào trong chỉ đạo về phát triển kinh tế - xã hội. Sau này các kỳ Đại hội của
Đảng đã không ngừng khẳng định và từng bước làm rõ thêm đặc điểm này, lấy đó làm

cơ sở để xây dựng đường lối chiến lược và mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
Tại Đại hội Đảng IV (1986), vận dụng học thuyết Mác - Lênin về thời kỳ quá
độ và xuất phát từ đặc điểm của đất nước, Đại hội đã chỉ rõ:
Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến cách mạng về
mọi mặt nhằm đưa đất nước từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá nhân và sở hữu
tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa... Từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, cá thể tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ chủ nghĩa tư bản, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tạo ra cơ
cấu công - nông nghiệp hiện đại, thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nhẹ phát triển.
Nhưng, muốn phát triển công nghiệp và tiến hành công nghiệp hóa XHCN phải
có điều kiện tiên quyết như lương thực, thực phẩm, lao động..., do vậy phải phát triển
kinh tế nông nghiệp. Đảng NDCM Lào đã chỉ rõ: công nghiệp và nông nghiệp là hai
bộ phận chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, có quan hệ mật thiết lẫn nhau cần được
phát triển và khẳng định: "Xây dựng một nền kinh tế chủ nghĩa xã hội cân đối và hiện
đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Tiếp theo Đại hội, các Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa IV đã đề ra những
chủ trương và chính sách lớn nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Do đó, cơ sở vật
chất kỹ thuật của nông nghiệp thời kỳ này đã được tăng cường đáng kể, sản xuất nông
nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng tự hào.
Sau khi đó, Đảng đã tiếp tục khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hóa là nhiệm vụ
trọng tâm của cả thời kỳ quá độ và xác định lấy nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ làm cơ sở ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Đại hội
cũng chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm là: "Tập trung cao độ lực lượng của cả

10


nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp...

nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần
hàng tiêu dùng thông thường...".
Sau hơn 38 năm xây dựng, Đảng NDCM Lào càng nhận thức rõ vai trò và vị trí
quan trọng của nông nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Trong điều kiện
nền kinh tế nông nghiệp của đất nước còn ở trong tình trạng lạc hậu, tự cung tự cấp với
năng suất thấp, Đảng NDCM Lào thấy rõ vấn đề bức thiết phải tập trung phát triển
mạnh nông nghiệp, làm cho nông nghiệp vươn lên đáp ứng những nhu cầu đời sống
nhân dân, tạo nguồn tích lũy vốn cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Đại hội
V của Đảng đã xác định mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát và những chính sách lớn.
Trong 5 năm 1990-1995 và những năm 90 cần tập trung sức phát triển mạnh nông
nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất
lớn; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hợp lý. Đó là những nội dung chính của công
nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Trên quan điểm đó, Đảng NDCM Lào đã chỉ
đạo bố trí lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, qui định vị trí, nội dung và mức độ phát
triển các ngành kinh tế, kết hợp đúng đắn ngay từ đầu công nghiệp và nông nghiệp
trong một cơ cấu hợp lý. Do đó, nền kinh tế nước Lào đã có những chuyển biến và tiến
bộ quan trọng, nhất là trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt lớn trong đổi
mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp. Đại hội đã đề ra những quan
điểm và chính sách đổi mới, trước hết là đổi mới về kinh tế, thực hiện ba chương trình
kinh tế lớn, nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nông nghiệp trong việc đáp ứng những
yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu; phấn đấu đưa nông nghiệp trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa
XHCN. Đại hội đã chỉ rõ: "Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước
mắt là trong kế hoạch 5 năm 1996-2000, phải thực sự tập trung sức người, sức của vào
việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu".
Từ kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phân tích những vấn đề mới có
bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển, Đại hội VII (2001) của Đảng đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên XHCN và chiến lược ổn định phát

triển kinh tế - xã hội đến năm 2005. Đại hội đã khẳng định: "Phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông nghiệp và xây
dựng nông nghiệp mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã hội". Đồng thời cương lĩnh xây dựng đất nước XHCN cũng đã chỉ rõ:

11


Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và thực tiễn cuộc sống Đảng đã
tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp, đã xác định một hệ thống
quan điểm nhằm tiếp tục phát triển nông nghiệp. Trong đó, xác định quá trình CNH,
HĐH đất nước, đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu. Thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp theo định hướng XHCN;
huy động tối đa kinh tế hộ xã viên, cá thể, tư nhân và kinh tế hợp tác, liên doanh với
nước ngoài; gắn sản xuất với thị trường, quá trình phát triển sản xuất đi đôi với mở
rộng thị trường tiêu thụ nông sản; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nhất
là công nghệ sinh học để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng
cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh; tăng sức mua của thị trường nội địa; đẩy
mạnh xuất khẩu; có chính sách khuyến khích và bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước.
Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, cải thiện môi trường sinh thái,
xây dựng nông nghiệp mới... Đồng thời, đề ra giải pháp đổi mới các chính sách vĩ mô,
như chính sách thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, chính sách đầu tư và chính sách
tín dụng, chính sách thuế sử dụng đất và thủy lợi phí, đẩy mạnh công tác khuyến nông,
chính sách khoa học và công nghệ và chính sách xã hội nông nghiệp...
Năm 2006, Đại hội VIII của Đảng đã quyết định chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Xác định CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành

phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Đại hội cũng đã chỉ rõ đặc biệt coi
trọng CNH, HĐH nông nghiệp; coi CNH, HĐH nông nghiệp là nội dung cơ bản của
những năm còn lại của thế kỷ XX.
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp; hình thành các vùng tập trung
chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về
số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo về an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng
được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước. Thực
hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa, gắn với nguồn nguyên liệu
và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Phát triển các làng nghề truyền thống và các
ngành nghề mới bao gồm: tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước hình thành nông
nghiệp mới văn minh, hiện đại .

12


Tiếp theo, Bộ Chính trị khóa VIII ra Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 10/07/2006
về một số vấn đề phát triển nông nghiệp; xác định coi trọng thực hiện CNH, HĐH
trong phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng cả trước mắt và lâu dài; là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội, củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với
thị trường. Gắn phát triển nông nghiệp gắn công nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa
và nâng cao dân trí. Phát huy lợi thế của từng vùng, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học,
công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng mạnh vào xuất khẩu.
Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng, hợp tác và
hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng luật... Từ những quan điểm trên, Nghị

quyết cũng đã đề ra những chủ trương và chính sách lớn, trong đó có chính sách về các
thành phần kinh tế; chính sách đất đai; chính sách về khoa học công nghệ; chính sách
đầu tư, tín dụng và thị trường và một số chính sách xã hội để phát triển nông nghiệp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để đạt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước Lào cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, Đại hội lần thứ IX (năm 2011) của Đảng đã chủ trương
ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất cho phù hợp
theo định hướng XHCN, tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để
đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp. Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, ngày
24/6/2011, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra
Nghị quyết số 7-NQ/TW về "Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
thời kỳ 2010-2015". Nghị quyết đã xác định rõ nội dung tổng quát CNH, HĐH nông
nghiệp:
Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí
hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ
sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông
nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản
hàng hóa trên thị trường.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các
ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp;

13


xây dựng kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông nghiệp, bảo vệ
môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây
dựng nông nghiệp dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân.

Như vậy, có thể nói trải qua một quá trình phát triển tư duy lý luận, Đảng
NDCM Lào đã không ngừng hoàn thiện quan điểm đường lối của mình về phát triển kinh
tế nông nghiệp. Điều đó nói lên tầm quan trọng của phát triển kinh tế nông nghiệp trong
toàn bộ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1.2 Chính sách kinh tế nông nghiệp và một số vấn đề của chính sách kinh tế
nông nghiệp
1.2.1 Khái niệm chính sách
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về "chính sách". Thực tế đang
tồn tại nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về chính sách. Song, quan điểm của F.Ellis
được nhiều người tán thành, ông quan niệm, chính sách như là sự kết hợp của đường
lối, mục tiêu và phương pháp mà chính phủ lựa chọn đối với lĩnh vực kinh tế, kể cả
các mục tiêu mà chính phủ tìm kiếm và sự lựa chọn các phương pháp để theo đuổi các
mục tiêu đó. Như vậy, F.Ellis coi chính sách như là sự kết hợp của đường lối, mục tiêu
và các phương pháp mà chính phủ lựa chọn để tạo ra tăng trưởng.
Tổng hợp một số quan điểm trên thế giới và CHDCND Lào chúng tôi cho rằng,
chính sách như là cách thức và hành động mà nhà nước lựa chọn nhằm tác động vào
sự phân bổ các lợi ích của chủ thể hoạt động trong xã hội hay một lĩnh vực nhất định
nào đó (kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh...).
Đối với Lào, chính sách là hệ thống các chiến lược, phương pháp, cách thức, biện
pháp của Nhà nước cụ thể hóa đường lối của Đảng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội nhằm đạt được các mục tiêu trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Với cách hiểu chính sách như trên có thể nêu một định nghĩa khái quát như sau:
chính sách kinh tế là hệ thống các quan điểm, biện pháp, phương pháp can thiệp của
nhà nước vào lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt các mục tiêu đã lựa chọn,
trong một thời gian nhất định.
Kế thừa và tổng kết một số quan niệm về chính sách kinh tế nông nghiệp, tác
giả cho rằng, chính sách kinh tế trong nông nghiệp là tổng thể các biện pháp tác động
của nhà nước có liên quan đến nông nghiệp và các ngành có liên quan, nhằm tác động
vào nông nghiệp theo những mục tiêu nhất định, trong một thời hạn nhất định. Như

vậy, tùy theo định hướng mục tiêu lâu dài hay trước mắt mà nhà nước có những biện

14


pháp thích hợp để tác động vào nông nghiệp coi đó như là công cụ để quản lý, điều tiết
sự phát triển của kinh tế nông nghiệp.

1.2.2 Phân loại chính sách kinh tế nông nghiệp
Trong thực tế đang tồn tại nhiều cách phân loại chính sách kinh tế đối với nông
nghiệp.
Phân loại theo địa chỉ tác động của chính sách, có các nhóm chính sách phát
triển kinh tế nông nghiệp như sau:
+ Chính sách hỗ trợ đầu vào của sản xuất nông nghiệp. Đó là các chính sách về
trợ giá giống mới cây trồng vật nuôi, trợ giá phân bón, thuốc bảo vệ động thực vật,
chính sách hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp; chính sách miễn giảm thuế sử
dụng đất nông nghiệp...
+ Chính sách điều chỉnh đầu ra của sản xuất nông nghiệp. Bao gồm chính sách
về bảo hiểm nông sản, chính sách bảo hộ nông sản, chính sách miễn giảm thuế nông sản,
chính sách miễn giảm thuế buôn bán nông sản, chính sách khuyến khích mở rộng thị
trường tiêu thụ nông sản...
Phân loại theo mức độ quan trọng của mục tiêu cần đạt tới của chính sách:
+ Chính sách phục vụ mục tiêu cơ bản, như chính sách đất đai, chính sách hỗ
trợ xuất khẩu, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế...
+ Chính sách phục vụ mục tiêu thứ yếu.
+ Chính sách phục vụ mục tiêu tổng hợp, như chính sách khuyến nông, chính
sách cho người nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi...
Phân loại theo thời gian của mục tiêu:
+ Nhóm chính sách có tác động dài hạn, như: chính sách đất đai; chính sách bảo
hiểm nông sản...

+ Nhóm chính sách có tác động trung hạn, như: chính sách khuyến nông hỗ trợ
sản phẩm mới, chính sách tín dụng thực hiện các chương trình phát triển nông nghiệp
theo mục tiêu và có thời hạn xác định.
+ Nhóm chính sách có tác động ngắn hạn, như: chính sách miễn giảm thuế hay
hỗ trợ nông nghiệp khi thiên tai, dịch bệnh, chính sách hỗ trợ giống nuôi trồng mới,
chính sách bảo trợ nông sản....
Phân loại tổng hợp
Nhóm một: Bao gồm các chính sách có vai trò tác động trực tiếp vào người sản
xuất, làm thay đổi (điều chỉnh) qui mô cũng như phương hướng sản xuất - kinh doanh
trong những điều kiện cụ thể và thời gian nhất định. Các chính sách cụ thể thuộc nhóm
này là:
• Chính sách trợ giá trực tiếp đối với sản phẩm đầu ra tại nơi sản xuất.

15


• Chính sách tín dụng có mục tiêu đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất.
• Chính sách trợ cấp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và các điều kiện môi
trường cần thiết cho sản xuất.
• Chính sách giao nộp lương thực và một số nông sản khác với những điều
kiện xác định do Chính phủ đề ra.
• Chính sách chuyển hướng sử dụng đất, cải tạo ruộng đất.
• Chính sách khuyến nông và triển khai nông nghiệp.
Nhóm hai: Bao gồm các chính sách vĩ mô tác động trong phạm vi kinh tế nội
địa; có tác dụng điều chỉnh một hoạt động hoặc một tập hợp các hoạt động kinh tế nhất
định. Các chính sách thuộc nhóm này là:
• Chính sách định giá nội địa độc quyền.
• Chính sách can thiệp mua nông sản theo giá bảo trợ - lập kho dự trữ nhà
nước.
• Chính sách trợ cấp giá lương thực và một số mặt hàng thực phẩm cho người

tiêu dùng.
• Chính sách đánh giá sản phẩm thô hoặc qua chế biến.
• Chính sách trợ cấp cho ngành công nghiệp có liên quan tới sản xuất nông
nghiệp hoặc sử dụng những ưu đãi riêng về thuế tương đương trợ cấp.
• Chính sách đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu khoa học cho nông nghiệp.
Nhóm ba: Bao gồm các chính sách tác động hiệu chỉnh mối quan hệ kinh tế nội
địa với kinh tế bên ngoài (quốc tế). Đó là:
• Chính sách thuế nhập khẩu: Chính phủ thường dùng các loại thuế và nghĩa
vụ đối với hàng nhập khẩu dưới nhiều dạng khác nhau nhằm hạn chế hoặc khuyến
khích nhập khẩu một loại sản phẩm, vật tư nào đó.
• Chính sách trợ cấp hoặc đánh thuế xuất khẩu: Chính phủ thường điều tiết
khối lượng sản phẩm xuất khẩu thông qua chính sách trợ cấp qua giá (khi muốn
khuyến khích xuất khẩu) và chính sách đánh thuế cao (khi muốn hạn chế xuất khẩu).
• Chính sách hạn ngạch (quota) nhập khẩu: Chính sách này có tác dụng tương tự
chính sách đánh thuế nhập khẩu với mục đích hạn chế nhập khẩu.
• Sử dụng hàng rào phi thuế quan bằng nhiều văn bản chính sách có tác dụng
gây trở ngại cho nhập khẩu, chẳng hạn các qui định ngặt nghèo về tiêu chuẩn y tế, chất
lượng sản phẩm, mẫu mã bao bì, đặc biệt là những đòi hỏi về tiêu chuẩn kỹ thuật của
mặt hàng nhập khẩu...Những qui định này thường thay đổi trong thời gian rất ngắn và
có tác dụng điều tiết lượng hàng nhập khẩu tương đối hiệu quả.

16


• Chính sách tỷ giá: Để điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu nói chung giữa các
nhóm hàng tham gia xuất nhập khẩu.

1.2.3 Đặc điểm của chính sách kinh tế nông nghiệp
Nông nghiệp là một lĩnh vực rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp đối với các
quốc gia đang phát triển. Vì khu vực này thường trải rộng trên nhiều địa bàn khác nhau

với tính đa dạng, phong phú, đặc thù của mỗi địa phương, vùng miền. Dân cư nông
thôn chủ yếu gắn liền với sản xuất nông nghiệp, với môi trường tự nhiên và thường
gặp nhiều rủi ro. Người nông dân vừa là người chủ gia đình vừa là người chủ sản xuất,
họ sản xuất để nuôi sống chính bản thân và gia đình, nếu có dư thừa thì mới mang ra
thị trường. Tính đa dạng, không đồng đều của nông nghiệp là một đặc điểm có ảnh
hưởng đến việc xây dựng hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp. Do đó chính
sách nông nghiệp của các quốc gia, khu vực, vùng miền đều mang những nét đặc thù
với màu sắc riêng. Chính sách nông nghiệp thường bao hàm cả chính sách kinh tế và
chính sách phi kinh tế. Ngày nay nông nghiệp không chỉ là nơi sản xuất ra của cải vật
chất mà còn là địa bàn có số lượng dân cư rất đông. Nông nghiệp là nơi tàng trữ các
giá trị văn hóa tinh thần của xã hội, là nơi thực hiện các quá trình bảo vệ môi trường,
bảo vệ tài nguyên quốc gia. Nông nghiệp không chỉ sản xuất ra của cải cho xã hội mà
còn là là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cho phát triển bền vững. Vì vậy,
chính sách phát triển của các quốc gia đều mang những đặc trưng riêng. Các chính
sách này không chỉ nhằm phát triển kinh tế mà còn phải góp phần giải quyết hàng loạt
vấn đề liên quan đến văn hóa, xã hội, truyền thống. Đảm bảo cho nông nghiệp phát
triển bền vững chính là đảm bảo sự cân bằng của xã hội. Trên thực tế nông dân luôn là
lực lượng bị thiệt thòi nhất trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đất đai
bị thu hẹp, do năng suất lao động thấp, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên... cho nên thu nhập của người nông dân thường thấp trong xã hội. Các
chính sách phát triển nông nghiệp ngoài mục đích kinh tế còn phải hướng vào xóa đói
giảm nghèo, nâng cao dân trí, lưu giữ và bảo vệ các giá trị văn hóa tinh thần...

1.2.4 Những nhân tố cơ bản tác động đến chính sách kinh tế nông
nghiệp
Chính sách nói chung, chính sách kinh tế nông nghiệp nói riêng luôn chịu sự tác
động, chi phối của nhiều nhân tố sau:
Một là, nhân tố quan trọng và chi phối trước tiên đến chính sách kinh tế nông
nghiệp là thể chế chính trị xã hội của mỗi quốc gia. Đó chính là chế độ chính trị - xã
hội của các quốc gia được hiến pháp qui định với bản chất và hình thức tổ chức của

nhà nước. Mỗi chế độ chính trị - xã hội khác nhau có bản chất và hình thức tổ chức

17


nhà nước khác nhau và cũng có những khác biệt nhất định khi xây dựng và thực thi hệ
thống chính sách kinh tế - xã hội, trong đó có chính sách phát triển nông nghiệp.
Hai là, chính sách kinh tế nông nghiệp chịu sự tác động và chi phối của việc
định hướng, chiến lược phát triển của nhà nước. Nhà nước, thể chế hóa đường lối,
chiến lược phát triển của Đảng thành những chính sách cụ thể nhằm thực hiện thành
công chủ trương lớn đó.
Ba là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế tác động mạnh đến chính sách
phát triển nông nghiệp. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế nói
chung và khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng của các quốc gia không thể không hòa
nhập vào khu vực và toàn cầu, các sản phẩm từ nông nghiệp đang được toàn cầu hóa.
Nó chi phối mạnh mẽ các chính sách nông nghiệp; chẳng hạn như chính sách nhằm
nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nông sản... Do vậy,
trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế nông nghiệp Lào không thể không hòa
nhập vào nền kinh tế nông nghiệp thế giới.
Bốn là, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đến chính sách kinh
tế nông nghiệp. Quá trình hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế nông nghiệp chịu
tác động của những thành tựu khoa học, công nghệ của quốc gia đó và của thế giới.
Khoa học kỹ thuật ngày nay đã thực sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, trở
thành động lực cho sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Chính mức độ và quy mô
áp dụng trình độ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp của một quốc gia sẽ
quy định việc xây dựng và thực hiện chính sách nông nghiệp. Khoa học kỹ thuật phát
triển sẽ tạo ra động lực và mục tiêu cho việc xây dựng và thực hiện chính sách kinh tế
nông nghiệp cho mỗi quốc gia.
Năm là, điều kiện tự nhiên bao gồm khí hậu, thời tiết, môi trường, địa hình, thổ
nhưỡng, nguồn nước... có ảnh hưởng rất quan trọng đến chính sách kinh tế nông

nghiệp. Chính sách kinh tế nông nghiệp ở một quốc gia mà hội tụ các điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp sẽ khác với các nước có điều kiện tự nhiên
không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Sáu là, quy mô, tốc độ gia tăng dân số có tác động đến việc xây dựng và thực
hiện chính sách nông nghiệp của một quốc gia. Một quốc gia mà có quy mô dân số
lớn, có tốc độ gia tăng dân số nhanh thì nhu cầu về lương thực, thực phẩm là rất lớn,
do đó sẽ có cách quan tâm tương đối đặc thù so với một quốc gia quy mô dân số nhỏ,
tốc độ gia tăng chậm.
Bảy là, chính sách nông nghiệp còn chịu sự tác động của điều kiện thực hiện
bản thân chính sách. Chính sách nông nghiệp được xây dựng phải dựa trên điều kiện
kinh tế, trình độ phát triển của một quốc gia cụ thể. Các mục tiêu và giải pháp của

18


chính sách nông nghiệp không thể vượt quá các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
và từng khu vực, vùng miền. Nếu thoát ly điều kiện thực thi chính sách nông nghiệp sẽ
khó có cơ hội thành công.

1.2.5 Vai trò của chính sách nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội
Chính sách kinh tế là công cụ, phương tiện không thể thiếu được của nhà nước
quản lý điều hành nền kinh tế. Thông qua những chính sách kinh tế cụ thể sẽ truyền
các tác động quản lý kinh tế của nhà nước đến các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Chính sách kinh tế là cách thức, biện pháp để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, kế
hoạch và chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Thực tiễn vận hành nền kinh tế
của đất nước, nhất là trong 25 năm đổi mới vừa qua, chúng ta có thể nhận thấy trong
cơ chế quản lý kinh tế, các chính sách kinh tế là yếu tố năng động nhất, có tính nhạy
cảm rất lớn trước những biến động của đời sống kinh tế - xã hội của Lào. Chính tính
năng động, sự nhạy cảm này đã tạo ra nhu cầu không ngừng hoàn thiện hệ thống chính

sách nhằm giải quyết những vấn đề mà đời sống kinh tế của đất nước đặt ra. Một bài
học thấy rõ trong thời kỳ đổi mới đất nước là khi nào mà Nhà nước, các địa phương,
các ngành kịp thời xây dựng và thực hiện các chính sách phù hợp thì sẽ mang lại kết
quả cao, và ngược lại khi nào Nhà nước, các địa phương, các ngành chậm xây dựng và
thực hiện các chính sách không phù hợp thì kết quả rất thấp.
Công cuộc đổi mới đất nước, mà trọng tâm và trước hết là đổi mới về kinh tế đã
khẳng định vai trò to lớn của các chính sách kinh tế. Một hệ thống chính sách kinh tế
đồng bộ và phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử sẽ
là nhân tố đóng vai trò quyết định đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển của toàn
bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, quá trình đổi mới cũng cho chúng ta không ít bài học về
việc xây dựng và thực thi chính sách kinh tế không thích hợp đã có tác động xấu đến
tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Chính sách kinh tế nông nghiệp là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính
sách phát triển kinh tế. Vai trò của chính sách kinh tế nông nghiệp được thể hiện trên
các phương diện sau đây:
Một là, chính sách kinh tế nông nghiệp tạo lập môi trường thuận lợi, phát huy
quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình, tổ chức, cá nhân, góp
phần quan trọng trong việc giải phóng mọi năng lực sản xuất. Nó huy động và thúc
đẩy việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực như vốn, đất đai, khoa học công nghệ, sức
lao động... để thúc đẩy kinh tế, nông nghiệp phát triển.
Hai là, chính sách kinh tế nông nghiệp có tác động thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH.

19


×