Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

TÁI cơ cấu hệ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG mại VIỆT NAM TRONG bối CẢNH tái cơ cấu nền KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.58 KB, 45 trang )

TÁI CƠ CẤU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ
TS. Đặng Ngọc Đức, TS. Nguyễn Đức Hiển
Và nhóm nghiên cứu Trường Đại học Kinh tế Quốc dân77

Tóm tắt
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính và định lượng để
đánh giá kết quả tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng Thương mại (NHTM)
Việt Nam theo Đề án 254. Kết quả cho thấy, hệ thống NHTM Việt Nam
vẫn giữ được sự ổn định trong quá trình tái cơ cấu, đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên các kết quả của quá trình tái cơ cấu là khá hạn
chế và thiếu tính dài hạn, nhiều mục tiêu tái cơ cấu không đạt như xử
lý triệt để nợ xấu, sở hữu chéo, cải thiện quản trị và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các NHTM. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu nhất làm quá
trình tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam còn chậm và chưa đạt kết
quả như kỳ vọng là do còn thiếu một cách tiếp cận tổng hợp xử lý tổng
thể các vấn đề của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt
là còn thiếu một khung khổ pháp lý mang tính hệ thống cho thực hiện
quá trình tái cơ cấu trong bối cảnh tái cơ cầu kinh tế.
Từ khóa: tái cấu trúc ngân hàng Việt Nam, ngân hàng thương mại
Việt Nam, Đề án 254.

nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài:“Khuôn khổ pháp lý cho tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng thương mại trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế”, do Trường Đại học
KTQD chủ trì, GS.TS. Trần Thọ Đạt làm chủ nhiệm với sự tham gia viết và đóng góp ý kiến
của các chuyên gia từ NHNN Việt Nam: ThS. Nguyễn Hữu Nghĩa (Cơ quan Thanh tra Giám sát
Ngân hàng), TS. Nguyễn Đức Trung (Vụ Dự báo, Thống kê tiền tệ) và các giảng viên của Viện
Ngân hàng - Tài chính, Trường Đại học KTQD: TS. Đặng Ngọc Đức, TS. Nguyễn Đức Hiển,
ThS. Đào Lê Trang Anh, TS. Hà Quỳnh Hoa, ThS. Trần Phi Long, ThS. Trần Trọng Phong, ThS.
Nguyễn Hương Giang, CN. Nguyễn Thị Quỳnh Loan.


77Bài

335


I. Kết quả thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2012-2014
1.1. Những thành công
Thứ nhất, về cơ bản đã kiểm soát được tình hình của các NHTM
cổ phần yếu kém. Khả năng chi trả của các ngân hàng này đã được cải
thiện đáng kể, tài sản của Nhà nước và quyền lợi của người gửi tiền
được bảo đảm, an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng được kiểm
soát, an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; không
để xảy ra các đợt rút tiền hàng loạt ngoài tầm kiểm soát, đặc biệt ở một
số NHTM cổ phần yếu kém phải cơ cấu lại.
Thứ hai, từng bước giảm bớt số lượng các NHTM thông qua cơ
cấu lại. Trong số 9 NHTMCP yếu kém được xác định từ năm 2012,
NHNN đã phê duyệt 8 phương án cơ cấu lại. Trong thời gian tới, NHNN
sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phương án cơ cấu lại đối với 1 ngân hàng
còn lại. Hiện nay, các ngân hàng này đang tích cực triển khai các giải
pháp cơ cấu lại theo đúng phương án được duyệt. Một số NHTM cổ
phần yếu kém được xác định trong năm 2013 đang được NHNN áp
dụng các biện pháp giám sát chặt chẽ và chỉ đạo xây dựng phương án
tái cơ cấu. Đến nay, số lượng NHTMCP giảm bớt 5 ngân hàng qua hoạt
động sáp nhập, hợp nhất (Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Nhà Hà Nội, Phương
Tây, Đại Á).
Thứ ba, chất lượng hoạt động của các NHTM đã được cơ cấu lại
có một số chuyển biến tích cực. Cho đến nay, tất cả các phương án cơ
cấu lại NHTM cổ phần yếu kém, kể cả sáp nhập, hợp nhất đều được tiến
hành trên nguyên tắc tự nguyện. NHNN chưa phải áp dụng biện pháp

can thiệp bắt buộc đối với trường hợp nào theo quy định của pháp luật.
Sau khi sáp nhập, hợp nhất hoặc phương án cơ cấu lại được NHNN
chấp thuận, các ngân hàng đã và đang tích cực triển khai các giải pháp
cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị và khắc phục các
sai phạm dưới sự giám sát của NHNN. Đối với các ngân hàng không
thuộc diện yếu kém bắt buộc phải tái cơ cấu đã triển khai các giải pháp
336


cơ cấu lại, xử lý nợ xấu; tập trung củng cố, chấn chỉnh những tồn tại,
hạn chế và tăng cường năng lực tài chính, quản trị, hoạt động và năng
lực cạnh tranh. Một số ngân hàng đang thực hiện sáp nhập, mua lại tổ
chức tín dụng (TCTD) khác để tăng quy mô và khả năng cạnh tranh.
Thứ tư, đã bước đầu thực hiện sắp xếp lại các TCTD phi ngân
hàng và Quỹ Tín dụng Nhân dân. NHNN đã chỉ đạo xây dựng và trình
NHNN phương án cơ cấu lại, đồng thời đề nghị các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước thực hiện cơ cấu lại các TCTD này. Hiện nay, đa số
các TCTD phi ngân hàng đã trình hoặc đang hoàn thiện phương án để
trình NHNN phê duyệt. Năm 2013, có 2 công ty tài chính đã được hợp
nhất, mua lại với 2 NHTM, giải thể, rút giấy phép 1 công ty cho thuê
tài chính và 1 công ty tài chính đã được NHNN ủng hộ chủ trương bán
lại cho tổ chức khác. Một số TCTD phi ngân hàng quá yếu kém, chi
phí cơ cấu lại quá lớn so với lợi ích đem lại từ việc duy trì hoạt động,
NHNN đang rà soát, đánh giá và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét
xử lý thông qua giải thể, phá sản. Một số tập đoàn và tổng công ty nhà
nước đang trong quá trình đàm phán bán lại công ty tài chính cho nhà
đầu tư khác. Những TCTD phi ngân hàng hoạt động bình thường cũng
đang triển khai cơ cấu lại theo Quyết định số 254/QĐ-TTg để nâng cao
mức độ an toàn, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Đối với
quỹ tín dụng nhân dân, Qũy tín dụng nhân dân (QTDND) Trung ương

đã hoàn thành việc chuyển mô hình hoạt động thành Ngân hàng Hợp
tác xã nhằm thực hiện tốt mục tiêu liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính và
điều hòa vốn trong hệ thống các QTDND, góp phần giúp các QTDND
cơ sở hoạt động hiệu quả theo nguyên tắc hợp tác xã.
Thứ năm, tăng cường năng lực tài chính đối với các TCTD. Năng
lực tài chính của hệ thống từng bước được lành mạnh thông qua tăng
vốn điều lệ và xử lý nợ xấu. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng các
TCTD vẫn nỗ lực cải thiện năng lực tài chính và tăng vốn điều lệ để tạo
điều kiện mở rộng hoạt động và nâng cao khả năng đối phó với các rủi
ro trong hoạt động. Năm 2012, vốn điều lệ toàn hệ thống tăng 11,29%
337


và đến cuối năm 2013 vốn điều lệ của toàn hệ thống là 423,98 nghìn tỷ
đồng, tăng 31,8 nghìn tỷ đồng (8,12%) so với cuối năm 2012.
Bên cạnh đó, ngày 31/5/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 843/QĐ-TTg phê duyệt 2 đề án thành lập Công ty Quản lý tài
sản Việt Nam (VAMC). Ngoài ra, để triển khai đồng bộ, hiệu quả các
giải pháp xử lý nợ xấu quy định tại Quyết định số 843, gắn với các giải
pháp tổng thể cơ cấu lại hệ thống các TCTD theo Đề án 254, NHNN đã
trình và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 363/QĐ-TTg
ngày 11/3/2014 về việc thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành triển khai Đề
án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và Đề án “Xử
lý nợ xấu của hệ thống các TCTD”.
Đến nay, các NHTM đã ban hành và gửi NHNN kế hoạch xử lý nợ
xấu đến 2015; đồng thời, các TCTD đã và đang tích cực triển khai đồng
bộ các giải pháp xử lý nợ xấu trong khả năng tài chính của mình, song
song với việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh của
các khách hàng. Về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC, mặc dù
mới được thành lập và đi vào hoạt động với nhiều khó khăn, còn thiếu

thốn về điều kiện cơ sở vật chất nhưng kết quả đạt được bước đầu của
VAMC có vai trò quan trọng và tạo nền tảng cho việc đẩy nhanh việc xử
lý nợ xấu trong thời gian tới, đặc biệt là tạo được niềm tin về tính khả
thi của một công cụ xử lý nợ xấu rất đặc thù. Tính đến hết tháng 8/2014,
VAMC báo cáo đã mua được 59.511 tỷ đồng nợ xấu từ 35 TCTD, cùng
với các NHTM báo cáo đã tự xử lý thêm được 20.000 tỷ đồng so với
tháng 12/2013, nâng tổng số nợ xấu được xử lý khoảng 105.000 tỷ
đồng. Kết quả bước đầu đạt được là nợ xấu đã được kiềm chế và có xu
hướng giảm; các giải pháp xử lý nợ xấu phát huy tác dụng ngay trong
thời gian qua chủ yếu xuất phát là từ sự nỗ lực, quyết liệt của ngành
Ngân hàng, trong khi nhiều Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quan
tâm triển khai các giải pháp xử lý xử lý nợ xấu được giao trong phạm vi
quản lý của ngành, địa phương. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên
ngành Ngân hàng đã quyết tâm triển khai có kết quả các giải pháp xử
338


lý nợ xấu theo phân công tại Quyết định số 843 trong khi vẫn bảo đảm
tiếp tục tái cơ cấu, tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế, hạ mặt bằng lãi
suất, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và góp phần ổn
định hệ thống ngân hàng, kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ sáu, từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và
ngân hàng, nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà được, chỉ đạo,
điều hành của NHNN trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, hỗ trợ cơ cấu
lại các TCTD: Ngoài các văn bản liên quan tới hoạt động của VAMC,
để hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại các TCTD và bảo đảm cho các TCTD
hoạt động an toàn, lành mạnh, Chính phủ và NHNN đã ban hành các
văn bản như: Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng
tiền mặt; Nghị định số 01/2013/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài
mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam; Quyết định số 48/2013/

QĐ-TTg ngày 1/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc
góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD được kiểm soát đặc biệt;
các Thông tư của NHNN bao gồm các quy định về phân loại nợ, trích
lập và sử dụng dự phòng rủi ro (Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày
21/1/2013); kiểm soát, toán độc lập, cấp phép; quản lý mạng lưới; niêm
yết cổ phiếu của các TCTD trên thị trường chứng khoán; ngân hàng hợp
tác xã; mua, bán nợ xấu; kiểm soát đặc biệt TCTD, v.v...
Ngoài ra, NHNN đang khẩn trương hoàn thiện để trình cấp có thẩm
quyền ban hành các văn bản pháp lý về thanh tra, giám sát; xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; quy định về các tỷ
lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng; ủy thác, nhận ủy thác,
quy định về quản lý rủi ro của các TCTD.
1.2. Phân tích định tính kết quả tái cơ cấu
Tính đến ngày 30/6/2014, hệ thống ngân hàng Việt Nam có 1
NHTM nhà nước (Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam), 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 5 ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 1 ngân hàng chính sách và 1 ngân hàng
hợp tác xã. Với tổng số lượng là 38 ngân hàng, các NHTM đang đóng
339


vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và là đối tượng chính
của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015. Do
vậy, phần nghiên cứu đánh giá kết quả của hệ thống ngân hàng trước và
sau tái cấu trúc cũng sẽ tập trung vào các NHTM nói trên.
1.1.1. Tác động của tái cơ cấu đến sự phát triển tài chính
Một trong những mục tiêu chính của tái cấu trúc hệ thống NHTM
là phát triển hệ thống tài chính quốc gia. Ngoài ra, việc tái cấu trúc cũng
giúp đẩy mạnh tính cạnh tranh giữa các ngân hàng và cải thiện khả năng
sinh lợi của các ngân hàng đó. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ xem xét sự

phát triển tài chính toàn diện trên những khía cạnh: (i) Tăng trưởng tài
chính; (ii) Sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng; và (iii) Khả năng sinh
lợi của ngành ngân hàng.
• Tăng trưởng tài chính (financial deepening):
Khi đánh giá tăng trưởng tài chính, Shaw (1973) lần lượt quan sát
các góc độ: quy mô ngành ngân hàng, huy động tiết kiệm, sự kích thích
cho tiết kiệm dài hạn, sự cải thiện trong lưu chuyển tiền tệ đối với hệ
thống ngân hàng. Đối với trường hợp của Việt Nam, nhóm nghiên cứu
áp dụng các chỉ tiêu sau đây để phân tích những thay đổi của hệ thống
ngân hàng:
(1) Các tỷ lệ M2/GDP, tín dụng cá nhân/GDP đại diện cho quy mô
của ngành ngân hàng
(2) Tỷ lệ M1/M2 được sử dụng như một phương pháp đo lường
truyền thống của huy động tiết kiệm.
Trong đó: M1:  bằng tổng lượng tiền mặt (M0) và tiền mà các
NHTM gửi tại ngân hàng trung ương; M2: bằng M1 cộng với tiền gửi
tiết kiệm có kỳ hạn.
- Quy mô ngành ngân hàng
Tăng trưởng về quy mô của ngành ngân hàng Việt Nam từ năm
2008 đến 2013 không ổn định theo thời gian. Trong giai đoạn từ năm
2008 đến 2010, quy mô ngành ngân hàng liên tục tăng. Cụ thể, năm
340


2008, chỉ số M2/GDP và tín dụng cá nhân/GDP năm 2008 lần lượt là
0,86 và 1,08. Sang năm 2010, M2 và tín dụng cá nhân đã gấp 1,16 và
1,27 lần GDP. Tuy nhiên bắt đầu từ năm 2011, quy mô ngành ngân hàng
có dấu hiệu suy giảm. Đặc biệt, đến cuối năm 2012, tỷ lệ M2/GDP và
tín dụng cá nhân/GDP chỉ còn 0,95 và 1,13, cao hơn năm 2008 nhưng
thấp hơn 2009. Năm 2013, quy mô ngành ngân hàng đã tăng trưởng trở

lại, M2/GDP đạt 0,97 lần và tín dụng cá nhân/GDP đạt 1,21 lần.
Như vậy, sau một thời gian phát triển bùng nổ của hệ thống ngân
hàng những năm 2008 - 2010, từ năm 2011, hệ thống ngân hàng bắt đầu
thu hẹp quy mô cùng với những thương vụ mua bán, sáp nhập của quá
trình tái cơ cấu, tập trung chủ yếu vào năm 2012. Đến cuối năm 2013,
hệ thống ngân hàng dần đi vào ổn định và quy mô tăng trưởng trở lại.
- Huy động tiết kiệm
Các dữ liệu thống kê ngành ngân hàng cho thấy tỷ lệ huy động tiết
kiệm giảm dần qua các năm. Sự suy giảm tỷ lệ huy động tiết kiệm cũng
không đồng nhất qua các năm. Đặc biệt, trong hai năm 2009 và 2010,
tỷ lệ huy động tiết kiệm giảm mạnh, chỉ số M1/M2 năm 2008 là 1,01 đã
giảm xuống còn 0,27 vào cuối năm 2010. Nguyên nhân của thực trạng
này là do trong giai đoạn 2009 - 2010, lãi suất cơ bản liên tục được giảm
xuống, các ngân hàng chú trọng nhiều hơn đến tăng trưởng tín dụng
thay vì tăng trưởng huy động tiết kiệm.
Tuy nhiên, bắt đầu từ 2011, với chính sách ổn định kinh tế cùng các
biện pháp tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tỷ lệ huy động tiết kiệm M1/
M2 đã không suy giảm tiếp mà duy trì ở mức 0,25 năm 2011 và 0,24
năm 2012.
• Cạnh tranh trong ngành ngân hàng
Cạnh tranh là một trong những động lực quan trọng nhất để nền
kinh tế phát triển. Nhóm nghiên cứu tiến hành so sánh cạnh tranh của
ngân hàng trước và sau quá trình tái cấu trúc qua thước đo “mức độ tập
trung tài sản” (tiền gửi). Mức độ tập trung tài sản là tỷ lệ nắm giữ tổng
tiền gửi của nhóm 5 ngân hàng đứng đầu (Barth, Caprio, Levine, 2001)
341


qua các năm. Nếu tỷ lệ này ngày càng giảm đi chứng tỏ sự cạnh tranh
trong ngành ngân hàng ngày càng gia tăng và ngược lại.

Để đo lường sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng, nghiên cứu thu
thập dữ liệu 5 ngân hàng TMCP không bị mua bán, sáp nhập giai đoạn
2011-2013 và luôn nằm trong tốp các ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất
là: ACB, BIDV, Vietinbank, MBBank và Vietcombank. Tỷ lệ nắm giữ
tiền gửi của 5 NHTM này so với tổng tiền gửi của toàn bộ hệ thống các
NHTM như sau:
Bảng 1.1. Tỷ lệ nắm giữ tiền gửi của 5 NHTM lớn nhất so với tổng tiền gửi của hệ
thống các NHTM giai đoạn 2008 - 2013
Năm
2008 2009 2010 2011 2012 2013
% tổng tiền gửi của 5 NHTM cổ phần lớn
46.06% 42.84% 42.64% 43.96% 40.82% 40.13%
nhất / Tổng tiền gửi của tất cả các NHTM
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Có thể thấy là mặc dù trong 6 năm từ 2008 đến 2013, tổng tiền gửi
tại toàn bộ hệ thống các NHTM và tổng tiền gửi tại 5 ngân hàng TMCP
lớn nhất đều liên tục tăng trưởng, tuy nhiên, xét trên khía cạnh mức độ
cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, có thể nhận thấy mức độ này đang
ngày càng tăng lên, đặc biệt trong hai năm 2012 và 2013. Cụ thể, tỷ lệ
nắm giữ tiền gửi của 5 ngân hàng TMCP lớn nhất so với cả hệ thống
các NHTM từ 46,6% năm 2008 xuống chỉ còn 42,64% năm 2010 và
đạt 40,13% năm 2013. Đây là dấu hiệu tốt để nền kinh tế nói chung và
hệ thống ngân hàng nói riêng ngày càng phát triển trên cơ sở gia tăng
cạnh tranh.
• Khả năng sinh lợi của ngành ngân hàng
Các chỉ số của khả năng sinh lợi, bao gồm ROA, ROE là những
chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng cải thiện sau tái cấu trúc của hệ
thống ngân hàng (Xiaoqing và Shelagh Heffernan, 2005). Kết quả ROA
và ROE cho thấy khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng đạt mức

cao nhất vào năm 2009, khi hệ thống NHTM bùng nổ, tăng trưởng tín
dụng đạt mức cao. Tỷ lệ ROA và ROE giữ ổn định trong hai năm tiếp
342


theo là 2010 và 2011. Mặc dù vậy, sang đến năm 2012, khả năng sinh
lợi của hệ thống NHTM sụt giảm nghiêm trọng. ROE từ 12,87% năm
2011 chỉ còn 6,55% năm 2012 (giảm 49%). Tương tự, ROA năm 2012
cũng giảm gần một nửa so với năm 2011. Kết quả này phản ánh chính
xác thực tế là kể từ năm 2011, ngành ngân hàng bước vào suy thoái và
khủng hoảng, tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Sang năm 2013, nhờ kết quả bước
đầu của quá trình tái cơ cấu với những biện pháp cứng rắn làm lành
mạnh hóa hệ thống ngân hàng cùng những thương vụ mua bán, sáp
nhập xử lý những ngân hàng yếu kém, khả năng sinh lợi của ngành ngân
hàng đã có những chuyển biến tích cực.
1.2.2. Tác động của tái cấu trúc đến kết quả hoạt động của các
NHTM
Trong phần này, nghiên cứu phân tích các chỉ số dựa trên nền tảng
các tiêu chí của CAMEL (Capital adequacy, Assets quality, Management
efficiency, Earnings performances, Liquidity) cho từng nhóm trong hệ
thống ngân hàng của Việt Nam. Trong các tiêu chí của CAMEL, các
chỉ số được lựa chọn như sau: Để đánh giá Độ an toàn vốn (Capital
Adequacy) của các ngân hàng, nghiên cứu sử dụng tỷ lệ CAR được xác
định như trong Basel II. Với chất lượng tài sản (Assets quality), tỷ lệ
phần trăm của nợ xấu là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá chỉ tiêu này.
Đối với hiệu quả quản lý (Management efficiency), tỷ lệ được sử dụng
cho từng nhóm ngân hàng để so sánh qua các năm là tỷ lệ chi tiêu/thu
nhập. Kết quả hoạt động (Earnings performance) được đo lường thông
qua các chỉ số ROA, ROE và NIE (Net interest earnings - thu nhập ròng
từ lãi suất cho vay). Cuối cùng, tính thanh khoản (Liquidity) được xác

định bởi tỷ lệ các tài sản có tính thanh khoản cao/các khoản tiền gửi của
nhóm ngân hàng được đánh giá.
Nghiên cứu tiến hành đánh giá hai nhóm ngân hàng chính sau: (i)
Nhóm 5 ngân hàng TMCP có tổng tài sản lớn nhất hệ thống ngân hàng
343


TMCP Việt Nam và không bị mua bán, sáp nhập giai đoạn 2011-2013
; và (ii) Nhóm các ngân hàng bị mua bán, sáp nhập hoặc tự tái cấu trúc
giai đoạn 2011-2013.
• Nhóm 5 ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất (theo tổng
tài sản)
Như đã đề cập ở phần xác định tính cạnh tranh của hệ thống ngân
hàng, 5 ngân hàng TMCP có tổng tài sản lớn nhất gồm: ACB, BIDV,
Vietinbank, MBBank và Vietcombank.
Trước hết, về độ an toàn vốn, hệ số CAR của 5 ngân hàng trên tăng
dần trong giai đoạn 2009-2011, suy giảm ở năm 2012 và tăng nhẹ trong
năm 2013. So với giai đoạn trước quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng,
độ an toàn vốn của nhóm ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất đã tăng lên
đáng kể. Thực tế, hệ số CAR của nhóm ngân hàng này được nâng lên sau
khi thông tư 13/2010/TT-NHNN được ban hành ngày 20/8/2010 thay thế
Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Một trong những thay đổi đáng chú
ý trong Thông tư 13 là tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ 8% lên 9%. Mặc
dù trước đó, hệ số CAR bình quân của nhóm ngân hàng này xấp xỉ 10%,
các ngân hàng vẫn tăng hệ số CAR lên mức an toàn.
Bảng 1.2. Hệ số CAR bình quân của nhóm 5 ngân hàng TMCP lớn nhất (theo tổng
tài sản) giai đoạn 2009 - 2013
Năm


2009

2010

2011

2012

2013

CAR

9.94%

9.91%

12.74%

11.29%

11.73%

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Tiếp theo, về chất lượng tài sản được xác định bởi tỷ lệ nợ xấu, số
liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính của các NHTM cho thấy tỷ lệ nợ
xấu giảm xuống trong giai đoạn 2008-2010 và tăng lên trong ba năm
tiếp theo.

344



Bảng 1.3. Tỷ lệ nợ xấu bình quân của nhóm 5 ngân hàng TMCP lớn nhất
(theo tổng tài sản) giai đoạn 2008-2013
Năm

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Tỷ lệ nợ xấu

2.54%

1.79%

1.71%

1.75%

2.05%


2.18%

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Trong ba năm 2008-2010, ngành ngân hàng phát triển mạnh mẽ
cùng sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Đây là giai đoạn các doanh
nghiệp hoạt động tốt, khiến các khoản vay nhanh chóng được thu hồi
và làm giảm tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng. Tuy nhiên, kể từ năm
2011, nền kinh tế suy thoái đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp khiến
các doanh nghiệp này không trả được nợ, tạo ra nhiều nợ xấu cho ngân
hàng. Đồng thời, trong giai đoạn 2009-2010, các ngân hàng giảm lãi
suất tối đa, cho vay ồ ạt cũng là một lý do khiến tỷ lệ nợ xấu tăng cao
trong những năm tiếp theo.
Thứ ba, về hiệu quả quản lý, tỷ lệ chi tiêu/thu nhập tăng dần trong
giai đoạn 2008-2012 và giảm nhẹ năm 2013. Như vậy, trong 5 năm liên
tiếp, hiệu quả quản lý của 5 ngân hàng TMCP có tổng tài sản lớn nhất
liên tục bị suy giảm, với chi phí tăng nhiều hơn so với thu nhập đạt
được. Sang năm 2013, hiệu quả quản lý đã có dấu hiệu được cải thiện,
tuy nhiên tỷ lệ chi tiêu/thu nhập vẫn ở mức cao.
Bảng 1.4. Tỷ lệ chi tiêu/thu nhập bình quân của nhóm 5 ngân hàng TMCP lớn nhất
(theo tổng tài sản) giai đoạn 2008-2013
Năm

2008

2009

2010

2011


2012

2013

Chi tiêu/Thu nhập

0.400

0.417

0.413

0.414

0.459

0.454

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Thứ tư, về kết quả hoạt động, các chỉ số ROA và ROE của 5 ngân
hàng TMCP có tổng tài sản lớn nhất giảm dần từ 2008 đến 2013, đặc
biệt giảm mạnh trong 2012 và 2013. Đối với thu nhập thuần từ lãi vay,
chỉ tiêu NIE tăng mạnh trong giai đoạn 2008-2011 và giảm dần trong
hai năm 2012 và 2013. Các kết quả này phản ánh khá rõ những khó
345


khăn chung của ngành ngân hàng và của nền kinh tế, khi trong hai năm

2012 và 2013, nền kinh tế suy thoái dẫn đến các doanh nghiệp đều gặp
khó khăn trong hoạt động kinh doanh, không trả được nợ cho ngân
hàng khiến các ngân hàng phải tăng dự phòng rủi ro và giảm đáng kể
lợi nhuận.
Bảng 1.5. Hệ số sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) bình quân, hệ số sinh lợi trên vốn
CSH (ROE) bình quân và thu nhập thuần từ lãi vay (NIE) bình quân của nhóm 5
ngân hàng TMCP lớn nhất (theo tổng tài sản) giai đoạn 2008-2013
Năm

2008

2009

2010

2011

2012

2013

ROE

0.1842

0.1952

0.1897

0.1972


0.1307

0.1104

ROA

0.0131

0.0129

0.0121

0.0119

0.0094

0.0089

NIE (tỷ VND)

4,839.63

5,209.57

7,431.73

11,387.73

11,208.27


10,704.11

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Cuối cùng, tính thanh khoản của các ngân hàng trong nhóm 5 ngân
hàng TMCP có tổng tài sản lớn nhất hệ thống ngân hàng TMCP cũng
giảm dần theo thời gian. Cụ thể, tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản cao/
tổng tiền gửi từ 5% năm 2008 chỉ còn 2,1% năm 2013, có nghĩa là tỷ lệ
này đã giảm hơn một nửa trong vòng 6 năm.
Bảng 1.6. Chỉ số thanh khoản bình quân của nhóm 5 ngân hàng TMCP lớn nhất
(theo tổng tài sản) giai đoạn 2008-2013
Năm
Tài sản có tính thanh
khoản cao/Tổng tiền gửi

2008

2009

2010

2011

2012

2013

0.050


0.036

0.043

0.031

0.027

0.021

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Nhìn chung, xét theo các tiêu chí của CAMEL, 5 ngân hàng
TMCP có tổng tài sản lớn nhất trong hệ thống các ngân hàng TMCP
Việt Nam không nhận được những sự thay đổi khả quan từ quá trình
tái cơ cấu. Trên các khía cạnh: chất lượng tài sản, hiệu quả quản lý,
kết quả hoạt động và tính thanh khoản, 5 ngân hàng này đều có kết
quả giảm sút so với giai đoạn trước tái cơ cấu (2008-2010). Nguyên
346


nhân dẫn đến thực trạng này là do những khó khăn của nền kinh tế nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng bắt đầu từ năm 2011 đã kéo
theo những khó khăn cho các ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất hệ
thống ngân hàng TMCP này.
• Nhóm các ngân hàng TMCP thực hiện mua bán, sáp nhập và
tự tái cấu trúc giai đoạn 2011-2013
Trong giai đoạn 2011-2013, các NHTM yếu kém đã bị khoanh vùng
và lần lượt được tiến hành các thương vụ mua bán, sáp nhập hoặc được
NHNN phê duyệt cho tự tái cấu trúc. Trong phần này, nhóm nghiên cứu

phân tích các chỉ số CAMEL của nhóm các ngân hàng được mua bán,
sáp nhập hoặc tự tái cơ cấu sau: HDBank, LienVietpostbank, Navibank,
PVcombank, SCB, SHB và Tienphongbank.
Đầu tiên, về độ an toàn vốn, hệ số CAR trung bình của 7 ngân
hàng trong nhóm được tái cấu trúc tăng lên trong giai đoạn 2009-2012
và giảm mạnh năm 2013. Nguyên nhân của hiện tượng này là do quá
trình sáp nhập của một số ngân hàng khỏe vào các ngân hàng yếu kém
(ba ngân hàng yếu kém là ngân hàng TMCP SCB, ngân hàng TMCP Đệ
Nhất và ngân hàng TMCP Tín Nghĩa sáp nhập với nhau thành SCB cuối
năm 2011, Habubank sáp nhập vào SHB cuối năm 2012, DaiA Bank
sáp nhập vào HDBank cuối năm 2013), khiến mức tăng của tài sản đã
điều chỉnh rủi ro cao hơn so với mức tăng của vốn cấp 1 và vốn cấp 2,
từ đó dẫn đến giá trị hệ số CAR giảm sút dù vẫn ở mức bảo đảm.
Bảng 1.7. Hệ số CAR bình quân của của nhóm các ngân hàng TMCP được tái cấu
trúc giai đoạn 2008-2013
Năm

2009

2010

2011

2012

2013

CAR

14.2%


12.7%

17.9%

19.5%

14.0%

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Thứ hai, chất lượng tài sản được thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu bình
quân của 7 ngân hàng được phân tích tăng lên vào năm 2012 và giảm
xuống trong năm 2013. So với 2011, tỷ lệ nợ xấu của 7 ngân hàng trong
347


nhóm được tái cơ cấu tăng lên gấp đối trong năm 2012. Trước khi tái cơ
cấu, các ngân hàng được sáp nhập vào SHB và SCB đều là những ngân
hàng có tỷ lệ nợ xấu ở mức báo động. Do vậy sau khi diễn ra các thương
vụ mua bán, sáp nhập vào cuối năm 2011 và 2012, tỷ lệ nợ xấu của SHB
và SCB tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, sang năm 2013, các ngân hàng hậu
sáp nhập đã cơ cấu lại tổ chức, xử lý nợ xấu thành công, khiến tỷ lệ nợ
xấu trung bình của bảy ngân hàng này giảm xuống chỉ còn 3,48%, tức
là giảm 1,19% so với năm 2012.
Bảng 1.8. Tỷ lệ nợ xấu bình quân của nhóm các ngân hàng TMCP được tái cấu trúc
giai đoạn 2008 - 2013
Năm

2008


2009

2010

2011

2012

2013

Tỷ lệ nợ xấu

1.63%

1.54%

3.04%

2.34%

4.67%

3.48%

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Xét trên khía cạnh hiệu quả quản lý, tỷ lệ chi tiêu/thu nhập của
7 ngân hàng được tái cấu trúc tăng lên đột ngột trong 2 năm liên tiếp
2011-2012 và giảm mạnh vào năm 2013. Trên thực tế, cả chi phí hoạt

động và thu nhập hoạt động của 7 ngân hàng này giảm dần qua các
năm. Tuy nhiên, tốc độ giảm của thu nhập nhanh hơn tốc độ giảm của
các khoản chi, từ đó dẫn đến sự gia tăng của tỷ lệ chi tiêu/thu nhập
giai đoạn 2009-2012, đặc biệt là năm 2012 khi chi tiêu đã vượt quá thu
nhập. Sang năm 2013, do những thành công bước đầu của quá trình tái
cấu trúc ngân hàng, chi tiêu bình quân của 7 ngân hàng này đã giảm
xuống đáng kể, khiến cho tốc độ giảm của chi tiêu lớn hơn tốc độ giảm
của thu nhập.
Bảng 1.9. Tỷ lệ chi tiêu/thu nhập bình quân của nhóm các ngân hàng TMCP được
tái cấu trúc giai đoạn 2008-2013
Năm
Chi tiêu/Thu nhập

2008

2009

2010

2011

2012

2013

45.10%

37.61%

45.47%


76.29%

107.83%

69.23%

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

348


Thứ tư, về kết quả hoạt động, các chỉ số ROE và ROA đều đạt mức
cao nhất năm 2009, sau đó giảm dần qua các năm 2010, 2011 và 2012.
Đặc biệt, ROE và ROA bình quân của 7 ngân hàng năm 2012 chỉ lần
lượt bằng 26% và 23% so với ROE và ROA của năm 2009. Đối với số
liệu về thu nhập thuẩn từ lãi suất, mặc dù các con số liên tục tăng trưởng
nhưng tốc độ tăng đã chậm lại trong hai năm 2012 và 2013. Như vậy,
các chỉ số trên đã phản ánh chính xác những tác động của suy thoái kinh
tế cùng với quá trình mua bán, sáp nhập và tự tái cơ cấu năm 2011 và
2012 đến kết quả hoạt động của các ngân hàng. Sang đến năm 2013,
hoạt động tái cấu trúc của các ngân hàng đã dần đi vào ổn định, khiến
kết quả hoạt động của các ngân hàng này dần được hồi phục, ROE và
ROA năm 2013 đều đạt gấp đôi số liệu năm 2012.
Bảng 1.10. Hệ số sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) bình quân, hệ số sinh lợi trên vốn
CSH (ROE) bình quân và thu nhập thuần từ lãi vay (NIE) bình quân của nhóm các
ngân hàng TMCP được tái cấu trúc giai đoạn 2008-2013
Năm

2008


2009

2010

2011

2012

2013

ROE

0.0740

0.1054

0.0935

0.0740

0.0277

0.0425

ROA

0.0168

0.0124


0.0092

0.0072

0.0029

0.0040

NIE (tỷ VND)

379.90

412.97

610.21

990.14

1,155.51

1,310.03

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

Tiêu chí cuối cùng của CAMEL đánh giá tính thanh khoản của
nhóm các ngân hàng tái cấu trúc được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.11. Chỉ số thanh khoản bình quân của nhóm các ngân hàng TMCP được tái
cấu trúc giai đoạn 2008-2013
Năm

Tài sản có tính thanh khoản
cao/Tổng tiền gửi

2008

2009

2010

2011

2012

2013

0.105

0.053

0.049

0.031

0.023

0.014

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính.

So với những thay đổi tích cực các tiêu chí khác, tiêu chí tính thanh

khoản chưa có sự cải thiện sau quá trình tái cấu trúc. Giá trị bình quân
349


của tỷ lệ giữa tài sản có tính thanh khoản cao và tổng tiền gửi của 7 ngân
hàng trong nhóm tái cấu trúc giảm dần qua các năm. Trong vòng 6 năm,
tỷ lệ này đã giảm 7,5 lần (10,5% năm 2008 và 1,4% năm 2013).
Tóm lại, kể từ năm 2011 đến nay, hoạt động của các ngân hàng
TMCP trong nhóm được tái cơ cấu đã có những biến chuyển tích cực
như giảm tỷ lệ nợ xấu, hiệu quả quản lý và kết quả hoạt động bước đầu
đã được cải thiện. Trong khi đó, các ngân hàng này vẫn cần rất nhiều
nỗ lực để duy trì tỷ lệ an toàn vốn và đưa tính thanh khoản lên mức
cao hơn.
Từ hai nhóm ngân hàng được nghiên cứu: nhóm 5 ngân hàng có
tổng tài sản lớn nhất và không trải qua mua bán, sáp nhập hay tự tái cơ
cấu; và nhóm 7 ngân hàng bị mua bán, sáp nhập hoặc tự tái cấu trúc giai
đoạn 2011-2013, các kết quả cho thấy quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng có tác động khác nhau đến những nhóm ngân hàng khác nhau. Cụ
thể, quá trình tái cấu trúc không có ảnh hưởng rõ rệt đối với các ngân
hàng có quy mô lớn, đang chiếm lĩnh thị trường và không bị tái cơ cấu,
trong khi các ngân hàng vừa trải qua tái cơ cấu trực tiếp lại có được
những kết quả tích cực trong năm 2013.
1.3. Phân tích định lượng kết quả tái cơ cấu
Trong báo cáo này, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp phân
tích bao dữ liệu phi tham số DEA để tính toán hiệu quả về lợi nhuận
và hiệu quả sản xuất của 7 ngân hàng trước khi tái cấu trúc hoặc tự tái
cấu trúc (năm 2011) và sau khi thực hiện tái cấu trúc (năm 2013), từ đó
rút ra nhận xét về kết quả bước đầu của quá trình tái cấu trúc tại những
ngân hàng này. Bảy ngân hàng được phân tích gồm có: NHTMCP phát
triển nhà TP Hồ Chí Minh (HDBank), NHTMCP LienVietPostBank,

NHTMCP Nam Việt (NaviBank), NHTMCP Đại Chúng Việt Nam
(PVcombank), NHTMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB), NHTMCP Tiên
Phong (TPBank) và NHTMCP Công thương Việt Nam (VietinBank).
Bảy ngân hàng này chính là bảy thực thể ra quyết định (DMUs) trong
mô hình. Đối với hiệu quả về lợi nhuận, các chỉ tiêu đầu vào là chi phí
350


từ lãi vay và chi phí hoạt động, các chỉ tiêu đầu ra lần lượt là thu nhập
từ lãi vay và thu nhập hoạt động (số liệu chi tiết xem phần phụ lục). Đối
với hiệu quả sản xuất, chỉ tiêu đầu vào là tiền thanh toán cho nhân viên
và nhà cung cấp, các chỉ tiêu đầu ra được sử dụng để phân tích là tiền
gửi của khách hàng và cho vay khách hàng.
Sử dụng phần mềm MaxDEA 6.2 chạy mô hình phân tích bao dữ
liệu phi tham số DEA, nhóm nghiên cứu thu được các kết quả đánh giá
hiệu quả về lợi nhuận và hiệu quả sản xuất của 7 ngân hàng như sau:
a. Hiệu quả về lợi nhuận (profit efficiency)
Bảng 1.12. Kết quả mô hình DEA đánh giá hiệu quả về lợi nhuận của ngân hàng
trước và sau tái cấu trúc
STT

Ngân hàng

Hiệu quả về lợi nhuận 2011

Hiệu quả về lợi nhuận 2013

1

HDBank


1.00000

0.93978

2

Lienvietpostbank

1.00000

1.00000

3

Navibank

0.95397

0.81332

4

PVcombank

0.67122

n/a

5


SHB Bank

0.93006

0.95855

6

TPBank

0.63192

0.99266

7

Vietinbank

1.00000

1.00000

Như vậy, kết quả chạy mô hình DEA đã cho thấy sự thay đổi hiệu
quả về lợi nhuận của các ngân hàng liên quan đến mua bán, sáp nhập và
tự tái cấu trúc giai đoạn 2011-2013.
Đầu tiên, đối với ngân hàng HDBank, hiệu quả lợi nhuận sụt giảm
sau khi tiến hành sáp nhập DaiABank. Sự thay đổi này có thể được
giải thích như sau: Trước M&A, HDBank là ngân hàng có tình hình
tài chính lành mạnh và không bị xét vào nhóm ngân hàng yếu kém.

Ngược lại, DaiABank lại là ngân hàng có quy mô nhỏ và hoạt động
mang tính chất địa phương với tỷ lệ nợ xấu liên tục tăng. Do vậy, sau
khi DaiABank sáp nhập, HDBank phải gánh tỷ lệ nợ xấu khá lớn (hơn
5%) của DaiABank, khiến cho mức độ hiệu quả lợi nhuận của HDB bị
giảm từ 1 điểm năm 2011 xuống 0,93 điểm năm 2013.
351


Ngoài HDBank, ngân hàng thứ hai cũng bị suy giảm hiệu quả lợi
nhuận sau tái cơ cấu là Navibank. Khác với HDBank, Navibank được
Ngân hàng Nhà nước chấp thuận tự tái cấu trúc. Tuy nhiên, kết quả mô
hình DEA cho thấy quá trình tự tái cấu trúc của Navibank đã không tạo
được chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Ngược lại, so với năm
2011, hiệu quả lợi nhuận của Navibank năm 2013 đã bị giảm tới 0,14
điểm. Kết quả này khá tương đồng với kết quả thu thập được từ báo cáo
tài chính của Navibank, khi đến 31/12/2013 trong cơ cấu tài sản có của
Navibank có tới hơn 3.100 tỷ đồng các khoản phải thu, các khoản lãi và
phí phải thu, trong đó các khoản lãi và phí phải thu tăng mạnh từ 1.325
tỷ đồng đầu năm 2013 lên tới hơn 2.231 tỷ đồng cuối 2013.
Đối với Ngân hàng LienVietPostBank và Vietinbank, cả trước và
sau quá trình mua bán, sáp nhập, hai ngân hàng này đều đạt mức hiệu
quả lợi nhuận bằng 1. Thực tế, LienVietPostBank được sáp nhập từ
2 tổ chức tín dụng có tình hình tài chính lành mạnh. Tương tự, trước
khi bán cổ phần cho Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ, VietinBank cũng
không nằm trong nhóm các ngân hàng bị khoanh vùng yếu kém. Chính
vì vậy, cho dù có sự thay đổi về sở hữu, hai ngân hàng LienVietpostbank
và Vietinbank đều không gặp khó khăn trong việc duy trì hiệu quả về
lợi nhuận.
Cuối cùng, kết quả mô hình DEA cho thấy sự chuyển biến tích cực
về hiệu quả lợi nhuận của PVcombank, SHB và TPBank sau tái cấu

trúc. Sau khi hợp nhất PVFC và Westernbank, hiệu quả về lợi nhuận
của PVcombank có sự thay đổi nhẹ, tăng 0,06 điểm. Đối với SHB, từ
hiệu quả lợi nhuận đạt 0,93 điểm năm 2011, sang năm 2013, hiệu quả
về lợi nhuận đã đạt 0,96 điểm. Điều này thể hiện rằng quá trình sáp
nhập Habubank vào SHB bước đầu đã thành công tốt đẹp. Tương tự
như SHB, TPBank từ mức hiệu quả lợi nhuận chỉ đạt 0,63 điểm năm
2011 đã tăng lên đến 0,99 điểm năm 2013. Kết quả này có được là do
TPBank đã tự tái cấu trúc thành công với việc tận dụng thế mạnh của cổ
đông chiến lược là Tập đoàn vàng bạc đá quý DOJI. Theo như số liệu
352


từ các báo cáo tài chính, sau 2 năm thực hiện tái cơ cấu, vốn điều lệ của
ngân hàng đã tăng từ 3.000 tỷ đồng lên tới 5.500 tỷ đồng, vốn huy động
dân cư tăng 2 lần, tăng trưởng tín dụng tăng gấp đôi, nợ xấu giảm 6,4%
xuống còn 2,7%, số lượng khách hàng tăng 3 lần.
b. Hiệu quả sản xuất (production efficiency)
Bảng 1.13: Kết quả mô hình DEA đánh giá hiệu quả sản xuất của ngân hàng trước
và sau tái cấu trúc
STT

Ngân hàng

Hiệu quả sản xuất 2011

Hiệu quả sản xuất 2013

1

HDBank


0.61362

1.00000

2

Lienvietpostbank

0.62392

0.75447

3

Navibank

1.00000

0.46902

4

PVcombank

1.00000

n/a

5


SHB Bank

0.57565

1.00000

6

TPBank

0.18166

0.65768

7

Vietinbank

0.68691

0.84887

Với đầu vào là chi phí thanh toán cho nhân viên và nhà cung cấp,
đầu ra là cho vay khách hàng và tiền gửi của khách hàng, những thay
đổi về hiệu quả sản xuất của 7 ngân hàng trước và sau tái cấu trúc có
một số điểm khác biệt so với sự thay đổi của hiệu quả về lợi nhuận.
Ngân hàng duy nhất bị suy giảm về hiệu quả sản xuất là Navibank.
Đối với Navibank, hiệu quả sản xuất của Navibank thay đổi theo chiều
hướng tiêu cực trong giai đoạn 2011-2013 do quá trình tự tái cấu trúc

chưa đạt được thành công rõ rệt.
Về PVcombank, sau khi hợp nhất PVFC và Westernbank vào
tháng 9/2013 và đổi tên thành PVcombank, PVcombank chưa công bố
báo cáo tài chính vào cuối năm 2013 để đưa ra được những nhận định
ban đầu.
Cuối cùng, cả 5 ngân hàng còn lại là HDBank, LienVietpostbank,
SHB, Tienphongbank và Vietinbank đều có các chỉ số hiệu quả sản xuất
tăng theo thời gian. Đối với HDBank, do sáp nhập DaiABank vào cuối
353


năm 2013 nên hiệu quả sản xuất của HDBank chưa thể hiện sự suy
giảm. Ngoài ra, trong khi LienVietpostbank và SHB chứng tỏ những
thành công hậu mua bán sáp nhập thì Tienphongbank lại thể hiện ngân
hàng này đang đi đúng hướng trong quá trình tự tái cơ cấu giai đoạn vừa
qua. Vietinbank sau khi bán 20% cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài
chiến lược là Bank of Tokyo đã có những sự chuyển biến đáng kể về
hiệu quả sản xuất.
Tóm lại, kết quả đánh giá 7 ngân hàng đã thực hiện mua bán, sáp
nhập và tái cấu trúc trong giai đoạn vừa qua cho thấy các ngân hàng
có sự chuyển biến về hiệu quả lợi nhuận và hiệu quả sản xuất rất khác
nhau. Vì vậy, việc lựa chọn phương án tái cấu trúc phù hợp và thực hiện
tái cấu trúc một cách triệt để là điều rất quan trọng. Mỗi ngân hàng có
đặc điểm, điều kiện và nguồn lực khác nhau, khiến quá trình tái cấu trúc
đòi hỏi sự linh hoạt nhất định của nhà quản lý. Trong giai đoạn 20142015, các ngân hàng cần đẩy mạnh tiến độ tái cấu trúc của mình để đạt
được các mục tiêu đã đề ra và góp phần làm lành mạnh hóa hệ thống
ngân hàng Việt Nam.
1.4. Những hạn chế của quá trình tái cơ cấu và các nguyên nhân
chủ yếu
Quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam theo Đề án 254 đã

đi được 2/3 chặng đường. Bên cạnh các thành công đã chỉ ra tại phần
trên, đối chiếu với các mục tiêu đề ra của Đề án, quá trình tái cơ cấu giai
đoạn 2011-6/2014 vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, cụ thể như sau:
Một là, quá trình cơ cấu lại tài chính của các ngân hàng bị chậm
trễ và không đạt mục tiêu đề ra.
Một nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2014 của Đề án 254 là hoàn
thành căn bản cơ cấu lại tài chính của các tổ chức tín dụng hướng đến
mục tiêu tăng cường năng lực và lành mạnh tài chính. Trong đó, nhiệm
vụ quan trọng của giai đoạn 2011-2013 là giải quyết nợ xấu của các
TCTD. Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu của các NHTM hiện nay đang rơi
vào tình trạng bế tắc vì VAMC không thể bán hoặc xử lý được nợ xấu
354


đã mua. Thời gian qua, ngành ngân hàng mới chỉ giải quyết được việc
“dọn dẹp” phần lớn nợ xấu về một đầu mối VAMC với vai trò như một
“kho” lưu giữ nợ xấu của các TCTD. Theo báo cáo của VAMC, tính đến
hết tháng 8/2014, công ty đã mua được 59.511 tỷ đồng nợ gốc từ 35 tổ
chức tín dụng. Tuy vậy, cho đến nay VAMC chưa bán được một khoản
nợ xấu nào. Với cơ chế như hiện nay, sau khi mua lại nợ xấu từ các
TCTD, VAMC thực hiện ủy quyền thu hồi nợ xấu cho các TCTD. Như
vậy, có thể khẳng định việc cơ cấu tài chính của các TCTD thông qua
xử lý thu hồi nợ xấu vẫn đang trong tình trạng bế tắc trong khi áp lực gia
tăng nợ xấu đối với các TCTD ngày càng lớn. Theo số liệu NHNN vừa
cập nhật, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống sau khi giảm xuống mức 3,5%
vào tháng 12/2013 đã bắt đầu tăng trở lại trong 6 tháng đầu năm 2014,
đạt mức 4,84% vào cuối tháng 6/2014.
Hai là, xử lý sở hữu chéo trong các TCTD còn lúng túng và không
đạt hiệu quả. Hiện nay, xử lý sở hữu chéo đang là một trong hai vấn
đề nổi cộm và nan giải nhất của quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM

Việt Nam bên cạnh việc xử lý nợ xấu. Hệ thống các TCTD Việt Nam
hiện đang tồn tại 6 nhóm sở hữu chéo khác nhau: Nhóm 1 là sở hữu của
các ngân hàng trong nước và nước ngoài tại các ngân hàng liên doanh;
Nhóm 2 là cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM trong nước;
Nhóm 3 là cổ đông tại các ngân hàng là các công ty quản lý quỹ; Nhóm
4 là sở hữu của các NHTMNN tại các NHTMCP; Nhóm 5 là sở hữu lẫn
nhau giữa các NHTMCP và Nhóm 6 là sở hữu ngân hàng cổ phần bởi
các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân.
Cho tới nay, sở hữu chéo đã có xu hướng diễn biến phức tạp và
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nhận thức được tác động tiêu cực của sở hữu chéo
đối với an toàn hoạt động của từng TCTD nói riêng, an toàn của hệ
thống TCTD nói chung, và đặc biệt là những cản trở của sở hữu chéo
đối với quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD, NHNN Việt Nam đã
triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm xử lý sở hữu chéo, gắn với quá
trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD. Nhìn về mặt tổng thể của quá trình
355


xử lý sở hữu chéo được triển khai từ năm 2011 cho tới nay, các biện
pháp được NHNN Việt Nam triển khai theo một hệ thống gồm 3 nhóm
đan xen, hỗ trợ lẫn nhau: Nhóm 1: Đánh giá tình trạng sở hữu chéo tại
hệ thống TCTD; Nhóm 2: Xây dựng khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính
sách và triển khai các biện pháp giám sát, ngăn ngừa sở hữu chéo gia
tăng và Nhóm 3: Triển khai các biện pháp xử lý toàn diện và dứt điểm
tình trạng sở hữu chéo. Trong số 45 giải pháp thực hiện tái cơ cấu trong
Đề án 254, có đến 24 giải pháp có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
xử lý sở hữu chéo trong hệ thống các TCTD.
Một trong những giải pháp cơ bản và hiệu quả nhất được NHNN
kỳ vọng để xử lý triệt để sở hữu chéo là yêu cầu các TCTD trong liên
minh tiến hành sáp nhập hoặc hợp nhất. Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2013

mới chỉ có 2 trường hợp sáp nhập và hợp nhất do quan hệ sở hữu chéo
đó là trường hợp NHTMCP Sài Gòn được hợp nhất từ 3 ngân hàng
gồm NHTMCP Sài Gòn, NHTMCP Đệ Nhất, NHTMCP Việt Nam Tín
Nghĩa và trường hợp thứ hai là giữa Sacombank và Eximbank. Giải
pháp được kỳ vọng thứ hai để xử lý sở hữu chéo được đề cập trong Đề
án 254 là yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước thoái vốn trong
các TCTD với mục tiêu hoàn thành trước 31/12/2015. Nghị định 15/
NĐ-CP ngày 6/3/2014 về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp quy định 4 cách thức thoái vốn Nhà
nước tại các NHTM78 song thực tế triển khai cả 4 cách thức này đều
đang gặp nhiều khó khăn làm cho thời hạn hoàn thành thoái vốn Nhà
nước tại các TCTD trước ngày 31/12/2015 có thể không đạt mục tiêu đề
ra. Việc giải quyết sở hữu chéo trong các TCTD chậm trễ là một trong
những cản trở lớn nhất đến quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của
Việt Nam hiện nay. Một số ý kiến cho rằng, giải pháp dựa vào thị trường
để tái cấu trúc các ngân hàng yếu kém làm tăng tính nghiêm trọng và
phức tạp của tình trạng sở hữu chéo. Theo nguyên tắc “tuyệt đối không
784 giải pháp là: (1) Chào bán ra công chúng số cổ phần mà DNNN đã đầu tư tại các công ty đại
chúng; (2)Giao các NHTM NN mua lại hoặc (3) Chuyển NHNN Việt Nam làm đại diện chủ sở
hữu; (4) Giao Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) xem xét, mua lại.

356


dùng tiền của nhà nước để tái cấu trúc mà cần tiền thực của khu vực tư
nhân”, nhưng nếu tiền thực của khu vưc tư nhân không có, mà vẫn phải
thực hiện mua bán, hợp nhất hay sáp nhập trên hình thức thì tiền ảo của
khu vực tư nhân phải được sử dụng. Điều đó có nghĩa là tái cơ cấu các
ngân hàng yếu kém sẽ làm gia tăng tính nghiêm trọng và phức tạp của
tình trạng sở hữu chéo hiện nay hay nói cách khác chúng ta đối mặt với

thực tế đang dùng sở hữu chéo để tái cấu trúc ngân hàng.
Nghị định 01/2014 về sở hữu nước ngoài tại các tổ chức tín dụng
Việt Nam cho phép các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính
được sở hữu vượt quá 30% vốn điều lệ của một NHTM theo quyết định
của Thủ tướng nhằm bơm được một lượng tiền thực vào ngân hàng gặp
khó khăn qua đó giải quyết thanh khoản. Tuy nhiên, nếu nguồn tài chính
không được minh bạch thì nguy cơ chính là tình trạng sở hữu chéo hiện
nay lại là cơ sở để các nhóm liên kết tăng cường sở hữu chéo dựa vào
các đề án tái cấu trúc được thiết kế lỏng lẻo. Tóm lại, việc cho phép nhà
đầu tư mới tham gia nhưng lại không dựa trên nguyên tắc giảm sở hữu
chi phối hay giảm sở hữu chéo thì sẽ không thể xử lý được một cách bền
vững những nút thắt trên.
Ba là, quá trình cơ cấu lại hoạt động và quản trị của các NHTM còn
chậm, chưa đạt yêu cầu của mục tiêu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Mục tiêu cơ bản và lâu dài của quá trình tái cơ cấu ngân hàng là
tạo dựng được các NHTM lành mạnh, hoạt động an toàn và hiệu quả
và có năng lực quản trị tiên tiến. Đề án 254 đã đề ra 7 giải pháp cơ
cấu lại hoạt động và 13 giải pháp cơ cấu lại quản trị của các TCTD.
Tuy vậy, sau gần 3 năm, kết quả cơ cấu lại hoạt động và quản trị của
các NHTM còn khá khiêm tốn, hệ thống quản trị của các NHTM vẫn
chưa có những thay đổi rõ nét. Nhiều vụ việc sai phạm điển hình của
ngành ngân hàng như vụ Nguyễn Đức Kiên làm thất thoát 1400 tỷ đồng,
Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo 4000 tỷ đồng của 3 ngân hàng, 9 tổ chức
và 3 cá nhân đều xảy ra tại các NHTM được đánh giá cao về năng lực
quản trị và chất lượng dịch vụ như Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB),
357


Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam(VietinBank). Cho đến nay,
NHNN mới chỉ có dự thảo Thông tư quy định về hệ thống quản trị rủi

ro tối thiểu làm cơ sở cho các TCTD xây dựng xây dựng hệ thống quản
lý rủi ro, các quy định nội bộ theo quy định của Luật các TCTD. Chậm
nhất đến ngày 1/6/2016, TCTD, chi nhánh NH nước ngoài phải hoàn
thiện hệ thống quản lý rủi ro theo quy định tại Thông tư này để phù hợp
với lộ trình cơ cấu lại hệ thống TCTD theo Đề án 254/QĐ-TTg và lộ
trình thực hiện Basel II tại Việt Nam. Tuy nhiên, các văn bản luật này
mới dừng lại chủ yếu đối với rủi ro tín dụng còn các loại rủi ro còn lại
chưa được quan tâm nhiều hoặc chưa được đề cập chính thức trên một
văn bản nào.
Bốn là, quá trình sáp nhập, hợp nhất và mua lại các TCTD còn
chậm trễ và không đạt mục tiêu đề ra.
Năm 1991, số lượng NHTM tại Việt Nam chỉ có 9 ngân hàng
thương mại song đến năm 2011 (thời điểm trước khi ban hành Đề án tái
cơ cấu các TCTD), hệ thống các TCTD đã có 5 ngân hàng thương mại
nhà nước (NHTMNN) và NHTM có cổ phần chi phối của Nhà nước, 33
ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), 1 ngân hàng hợp tác xã, 44
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
4 ngân hàng liên doanh, 29 công ty tài chính và cho thuê tài chính, 02
tổ chức tài chính vi mô và nhiều quỹ tín dụng nhân dân; trong đó hệ
thống các NHTM đã có mạng lưới bao phủ đến tất cả các tỉnh, thành
phố trong cả nước. Đặc biệt có NHTM đã xây dựng hệ thống các chi
nhánh bao phủ đến tận huyện, thậm chí là tới các xã, liên xã; mạng lưới
của hệ thống NHTM trải rộng khắp đến các vùng, miền của đất nước.
Như vậy hệ thống các TCTD của Việt Nam là khá lớn về số lượng, song
về năng lực tài chính của các TCTD còn rất hạn chế và hiệu quả kinh
doanh thấp; mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam hết sức
yếu và dễ đổ vỡ trước tác động bất lợi từ môi trường kinh doanh. Hiện
nay, NHTM của Việt Nam có mức vốn điều lệ thấp hơn rất nhiều so với
các NHTM của các nước trong khu vực. Khả năng sinh lời của các hệ
thống TCTD ở mức khá thấp so với mức độ rủi ro cũng như các ngân

358


hàng trong khu vực và trên thế giới. Tính đến ngày 30.12.2010, theo
Ngân hàng Nhà nước, tổng tài sản trong hệ thống đã lên tới gần 3,5
triệu tỉ đồng (175 tỉ USD) và dư nợ cho vay ở mức 125 tỉ USD, tương
đương với 120% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế (Thái
Lan là 100%, Hàn Quốc 80%). Với tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh
hơn rất nhiều so với tăng trưởng GDP (30% năm trong 3 năm từ 2008
đến 2010), các ngân hàng đã tạo ra một lượng cung tiền cực kỳ lớn và
hậu quả là lạm phát cao. Các doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn
rẻ trước đó đã đầu tư tràn lan kém hiệu quả và nợ xấu đang là vấn đề
nóng bỏng nhất củangành ngân hàng.Trước thực trạng trên, một trong
những biện pháp quan trọng nhất được NHNN Việt Nam thực hiện để
tái cơ cấu hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 là thực hiện mua lại
và sáp nhập (M&A) các TCTD yếu kém với nhau hoặc giữa các TCTD
yếu kém với các TCTD mạnh hơn. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2017, hệ
thống NHTM còn lại khoảng 15 ngân hàng, trong đó đến cuối năm 2015
phấn đấu có 1-2 ngân hàng có quy mô và trình độ tương đương với các
ngân hàng trong khu vực.
Từ năm 2011 cho đến nay, đã có 5 vụ sáp nhập và hợp nhất các
TCTD, bao gồm: hợp nhất giữa Ngân hàng Liên Việt và Công ty dịch
vụ tiết kiệm Bưu điện vào năm 2011; NHTMCP Sài Gòn (SCB) hợp
nhất từ 3 ngân hàng SCB, Đệ Nhất và Tín nghĩa vào tháng 12/2011;
HabuBank sáp nhập với SHB vào năm 2012; Western bank hợp nhất
với PVFC thành Ngân hàng Đại chúng PvcomBank vào năm 2013;
cuối cùng, vào tháng 11 năm 2013, DaiABank cũng chính thức được
sáp nhập vào Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh
(HDBank). Như vậy, giai đoạn 2011-2013, sau quá trình sáp nhập và
hợp nhất các TCTD đã có 5 NHTM yếu kém “biến mất” ra khỏi danh

sách các NHTM của Việt Nam. Con số này so với số lượng các NHTM
cũng trong tình trạng yếu kém mới chỉ chiếm tỷ lệ quá nhỏ. Năm 2014,
mục tiêu đặt ra của NHNN là tiếp tục sáp nhập và hợp nhất 6-7 NHTM
song cho đến nay vẫn chưa chính thức có vụ sáp nhập, hợp nhất nào
359


×