Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Báo cáo thực tập huy động và sử dụng vốn tại doanh nghiệp xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.59 KB, 115 trang )

1

MỤC LỤC
Bảng danh mục ký hiệu và các từ viết tắt …………………………………….......01
LỜI MỞ ĐẦU
………………………………………………………………………………...…..02
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN, HUY ĐỘNG VÀ SỦ
DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG…………………..…..05
1.1 Vấn đề chung về vốn trong doanh nghiệp xây dựng……………………...….05
1.1.1 Khái niệm chung về vốn…………………………………………..…..05
1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp …………………………………………………………………...…..07
1.1.3. Đặc trưng cơ bản của vốn…………………………………………….08
1.1.4. Phân loại vốn trong doanh nghiêp xây dựng……………………..…..11
1.2 Huy động vốn trong doanh nghiệp………………………………………..….14
1.2.1. Sự cần thiết phải huy động vốn…………………………………..…..14
1.2.2. Trình tự huy động vốn……………………………………………..…14
1.2.3.Các hình thức huy động vốn……………………………………..……15
1.2.4. Các căn cứ lựa chọn hình thức huy động vốn………………………...36
1.3. Các chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp…………………………..….36
1.3.1. Chính sách sử dụng vốn an toàn…………………………………..…..37
1.3.2. Chính sách sử dụng vốn vững chắc………………………………..….37
1.3.3. Chính sách sử dụng vốn mạo hiểm………………………………...….38
1.4 Hiệu quả sử dụng vốn và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn…….....39
1.4.1. Hiệu quả sử dụng vốn……………………………………………..…39
1.4.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn……………….40


2

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỐN, HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA


CÔNG TY CỔ PHẦN CẦU 14 …………………………………………………48
2.1. Giới thiệu chung về công ty cổ phần cầu 14 ………………………………...48
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển…………………………………..48
2.1.2. Sơ đồ tổ chức của công ty…………………………………………...50
2.2 Chức năng nhiệm vụ của các phong ban……………………………………...52
2.2.1 Phòng kĩ thuật thi công……………………………………………….52
2.2.2 Phòng máy- thiết bị………………………………………………….53
2.2..3. Phòng kế hoạch kinh doanh………………………………………...54
2.2..4. Phòng vật tư ………………………………………………….……..55
2.2.5 . Phòng kế toán- tài chính ……………………………………………56
2.2.6 .Phòng tổ chức lao động- cán bộ …………………………………….57
2.2.7 .Phòng pháp chế ……………………………………………………..58
2.2.8 Phòng thì nghiệm …………………………………………………...59
2.2.9 Phòng hành chính quản trị …………………………………………..60
2.3. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần cầu 14 qua báo cáo kết quả
kinh doanh………………………………………………………….………61
2.4 Thực trạng vốn của công ty cổ phần cầu 14 ………………………………….65
2.4.1. Về tình hình vốn cố định…………………………………………….67
2.4.2. Về tình hình vốn lưu động…………………………………………...69
2.5. Thực trạng huy động và sử dụng vốn của công ty cổ phần cầu 14 …….…….70
2.5.1. Tình hình huy động vốn của công ty cổ phần cầu 14 …………….…70


3

2.5.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty cổ phần cầu 14 ……….75
2.6. Xác định nhu cầu vốn và lựa chọn hình thức huy động vốn cho năm kế hoạch
…………………………………………………………………………………….89

Bảng danh mục ký hiệu và các từ viết tắt

Ký hiệu
DN

Giải thích

Doanh nghiệp

XDGT

Xây dựng giao thông

DNXDGT Doanh nghiệp xây dựng giao thông
MMTB
TS

Máy móc thiết bị

Tài sản

VCĐ Vốn cố định
VLĐ Vốn lưu động
VCSH

Vốn chủ sở hữu

TSCĐTài sản cố định
TSLĐTài sản lưu động
TSHH

Tài sản hữu hình


TSVH

Tài sản vô hình

TSCĐHH

Tài sản cố định hữu hình

TSCĐVH

Tài sản cố định vô hình

CP

Cổ phần

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

GTVT

Giao thông vận tải

SXXD


Sản xuất xây dựng


4

NVL Nguyên vật liệu
SXKD

Sản xuất kinh doanh

KTXD

Kinh tế xây dựng

LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thì vốn có vai trò rất quan
trọng . Nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và là cơ sở để mở rộng sản xuất kinh
doanh .Bởi vậy bất kì một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều phải
quan tâm đến vấn đề tạo lập vốn và quản lí vốn sao cho có hiệu quả nhằm mang lại
lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc quản lí
tài chính, tín dụng và chấp hành đúng pháp luật của nhà nước.
Trong cơ chế bao cấp trước đây , mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp Nhà nước đều được nhà nước bao cấp dưới hình thức ngân sách cấp
hoặc qua nguồn tín dụng ngân hàng với lãi xuất ưu đãi . Do đó , các doanh nghiệp
ít quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn .Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường ,
có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì nhu cầu về vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng , cho sự vận động và phát triển nền
kinh tế thị trường nói chung ,trở thành vấn đề bức xúc. Hoạt động sản xuất kinh
doanh với qui mô ngày càng lớn của doanh nghiệp đòi hỏi phải có một lượng vốn

ngày càng nhiều. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường
ngày càng gay gắt và mạnh mẽ . Để có thể đứng vững ,tồn tại và phát triển lâu dài
trên thương trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm đến vấn đề tạo lập,
quản lí và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhằm đạt tới mục đích tối đa hoá lợi
nhuận . Để thực hiện điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải huy động cao độ
không những nguồn vốn bên trong mà còn phải tìm cách huy động nguồn vốn bên


5

ngoài và phải sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả nhất nhằm đáp ứng nhu cầu
đầu tư và phát triển.
Vậy tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng cần phải có một lượng vốn tối thiểu nhất định. Vốn là điều kiện tiên quyết, có
ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh, quyết định tới
mức độ tăng trưởng hoặc suy thoái của một doanh nghiệp.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, đời sống
nhân dân chưa cao, mặt khác chúng ta đang trong thời kỳ đổi mới, tích cực hội
nhập với thế giới bên ngoài, do vậy mà nhu cầu vốn phục vụ cho công cuộc xây
dựng đất nước lại càng cấp bách hơn bao giờ hết.
Trong công cuộc xây dựng phát triển kinh tế của đất nước, các doanh nghiệp
xây dựng giao thông đóng một vai trò hết sức quan trọng vì nó tạo nên cơ sở hạ
tầng xã hội. Nhất là khi đất nước ta đang trên đà phát triển thì xây dựng các công
trình giao thông vận tải phục vụ cho nhu cầu giao lưu kinh tế là một yêu cầu không
thể thiếu được. Do đặc điểm của xây dựng giao thông là khối lượng thi công lớn,
thời gian thi công kéo dài, đòi hỏi kỹ thuật công nghệ máy móc thi công hiện đại
nên phải huy động một lượng vốn rất lớn. Đây chính là vấn đề mấu chốt của các
doanh nghiệp xây dựng giao thông hiện nay.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức
mới cho phép các doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài. Việc huy động kịp

thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể nắm bắt được
các cơ hội kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải chủ động lựa chọn các hình thức
huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục và có hiệu quả
với chi phí sử dụng vốn ở mức thấp nhất. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp cũng phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn. Việc
huy động và sử dụng vốn một cách hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy nâng


6

cao năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Huy động và sử dụng vốn trong doanh nghiệp như thế nào để đạt được hiệu
quả cao là có ý nghĩa hết sức quan trọng, là điều kiện để các doanh nghiệp khẳng
định được vị thế của mình trong cơ chế thị trường. Em đã được giao nhiệm vụ thực
hiện đề tài thiết kế tốt nghiệp “Huy động và sử dụng vốn trong doanh nghiệp xây
dựng” với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé của mình qua quá trình
học tập dạy dỗ của các thầy cô và quá trình tìm hiểu thực tế ở công ty cổ phần cầu
14 để phân tích tình hình và đưa ra một vài ý kiến trong việc áp dụng huy động và
sử dụng vốn cho một doanh nghiệp xây dựng giao thông trong cơ chế thị trường
hiện nay.
Đề tài tốt nghiệp của em gồm ba chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về vốn, huy động và sủ dụng vốn trong
doanh nghiệp xây dựng
Chương 2: Thực trạng vốn, huy động và sử dụng vốn ở Công ty cổ phần
cầu14
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp xây
dựng



7

CHƯƠNG 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN, HUY ĐỘNG VÀ SỦ DỤNG VỐN
TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
1.1.Vấn đề chung về vốn trong doanh nghiệp xây dựng giao thông
1.1.1Khái niệm chung về vốn
Trong bất cứ phương thức sản xuất xã hội nào, muốn tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh cần phải có 3 yếu tố sản xuất: sức lao động, đối tượng
lao động và tư liệu lao động. Điều đó đòi hỏi chủ thể kinh doanh phải ứng trước
một số tiền để mua sắm, dự trữ và trang trải các hao phí cần thiết cho quá trình sản
xuất kinh doanh của mình. Toàn bộ số tiền ứng trước đó được gọi là vốn sản xuất
kinh doanh. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định đến các bước tiếp
theo của quá trình kinh doanh.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp dùng vốn để
mua sắm các yếu tố của quá trình kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động
và tư liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua
tư liệu lao động mà sản phẩm hàng hoá dịch vụ được tạo ra và được tiêu thụ trên
thị trường, doanh nghiệp thu hồi được vốn đầu tư ứng trước đó để tiếp tục một chu
kỳ kinh doanh khác. Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, số tiền
thu được sau mỗi chu kỳ kinh doanh phải đảm bảo bù đắp được toàn bộ các chi phí
đã bỏ ra và có lãi. Như vậy, số tiền vốn ứng ra ban đầu không những được bảo toàn
mà còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại.
Trong quá trình kinh doanh, số vốn ứng trước luôn vận động và thay đổi
hình thái, nó được biểu hiện cả dưới hình thái tiền tệ và hình thái giá trị của vật tư
hàng hoá, cả dưới hình thái vật chất cụ thể. Tuy nhiên, về bản chất cũng như hình
thức, nó đều là biểu hiện bằng tiền của các tài sản đầu tư vào kinh doanh để đạt
được các mục đích của doanh nghiệp.



8

Có thể hiểu vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích
sinh lời.
Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt, phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lời cho chủ sở hữu của nó. Vốn kinh
doanh bắt đầu vòng tuần hoàn và kết thúc phải là giá trị – là tiền. Tuy nhiên, không
phải tất cả tiền đều là vốn, tiền chỉ trở thành vốn với ba điều kiện:
Thứ nhất, tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, hay phải được đảm
bảo bằng một lượng tài sản có thực.
Thứ hai, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ sức để đầu
tư cho một dự án kinh doanh.
Thứ ba, khi đã tích tụ đủ số lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh
lời. Cách vận động và phương thức vận động của tiền lại do phương thức đầu tư
kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau:
SLĐ
T – H ...sản xuất ... H’ – T’ : Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất
TLSX

kinh doanh

T – H – T’ : Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại.
T – T’ : Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh.
Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể sử dụng đồng thời cả ba phương thức
đầu tư vốn theo các mô hình trên miễn sao đạt được mục tiêu có mức doanh lợi cao
và nằm trong khuôn khổ của pháp luật.
Những nhận thức trên đây về vốn kinh doanh không chỉ giúp cho việc xác
định giá trị thực của một doanh nghiệp, mà còn giúp cho công tác quản lý vốn có
tầm nhìn rộng để khai thác, sử dụng những tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp phục

vụ cho đầu tư kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.


9

1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì vốn đóng một vai trò hết sức quan
trọng không thể thiếu được, nó là một trong những yếu tố căn bản quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xây dựng giao
thông. Bởi vì đối với doanh nghiệp xây dựng giao thông thì việc ứng dụng khoa học
kỹ thuật, công nghệ thi công tiên tiến và hiện đại là một nhu cầu không thể thiếu
trong cơ chế thị trường hiện nay. Điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu có vốn.
Vốn là điều kiện ban đầu, cần thiết để hình thành doanh nghiệp. Khi doanh
nghiệp mới thành lập thì trước hết phải có vốn ban đầu. Nó là số vốn tối thiểu cần
phải có khi thành lập doanh nghiệp, tuỳ theo đối tượng bỏ vốn mà xác định loại
hình doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được tiến hành một cách liên tục và thuận lợi. Nếu như các doanh nghiệp
xây dựng giao thông không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp nhiều khó
khăn, do đó quá trình sản xuất sẽ bị trở ngại hoặc bị gián đoạn. Như ta đã biết thì
sản phẩn xây dựng Giao thông có khối lượng lớn, thi công dài ngày và trải dài theo
tuyến, quá trình thi công thì lại đòi hỏi trang thiết bị máy móc phức tạp, kỹ thuật
thi công cao. Do vậy nếu thiếu vốn sẽ dẫn đến không đảm bảo vật tư dự trữ cho sản
xuất, làm chậm tiến độ thi công hoặc thậm chí làm cho quá trình thi công bị gián
đoạn; làm cho các doanh nghiệp xây dựng giao thông bị ứ đọng vốn, dẫn đến chiều
dài vòng quay vốn tăng, khả năng thu hồi vốn chậm kéo theo tình trạng chậm thay
đổi trang thiết bị máy móc và công nghệ thi công lạc hậu.
Vốn là điều kiện cần thiết để cho doanh nghiệp chủ động thực hiện các
phương án kinh doanh, thực hiện các dự án.
Vốn là phương tiện để đạt mục đích phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần của người lao động.


10

Do vậy việc huy động, bảo toàn và phát triển vốn là một nhiệm vụ quan
trọng của doanh nghiệp vì nó là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của Doanh
nghiệp.
1.1.3. Đặc trưng cơ bản của vốn
Một là, trong nền kinh tế thị trường, vốn phải được quan niệm là một hàng
hoá (“hàng hoá vốn”).
“Hàng hóa vốn” có hai thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị
của “hàng hoá vốn” là giá trị của bản thân nó, còn giá trị sử dụng của “hàng hoá
vốn” là khi sử dụng sẽ tạo ra được một lượng giá trị lớn hơn. Giá trị sử dụng của
“hàng hóa vốn” chính là khả năng sinh lời của nó. Mặt khác, đã là hàng hoá thì
“hàng hoá vốn” cũng như mọi hàng hoá khác phải được mua bán trên thị trường,
nhưng thị trường ở đây không phải là thị trường hàng hoá thông thường mà là thị
trường vốn bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn trung, dài hạn.
Việc mua bán “hàng hoá vốn” trên thị trường vốn cũng phải thông qua “giá
cả”. Giá cả “hàng hoá vốn” tăng hay giảm tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: yếu tố
chất lượng hàng hoá, yếu tố về môi trường, về thị trường nhưng yếu tố đặc biệt
quan trọng là quan hệ cung cầu vốn. Giá cả “hàng hoá vốn” chính là chi phí sử
dụng vốn. Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sử dụng nhiều nguồn vốn khác
nhau bằng nhiều cách thức huy động khác nhau (vay ngân hàng, phát hành trái
phiếu, cổ phiếu, vốn của chủ sở hữu,...). Để được quyền sử dụng các nguồn vốn
này, doanh nghiệp phải trả cho chủ sở hữu của các nguồn vốn đó một lượng giá trị
nhất định, đó là giá của việc sử dụng các nguồn tài trợ hay còn được gọi là chi phí
sử dụng các nguồn tài trợ (chi phí sử dụng vốn). Khái niệm chi phí sử dụng vốn ở
đây được hiểu dưới góc độ chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Chi phí sử dụng
vốn của doanh nghiệp bao gồm chi phí sử dụng vốn vay và chi phí sử dụng vốn

chủ sở hữu. Chi phí sử dụng vốn vay được hiểu là tỷ suất lợi nhuận tối thiểu phải
thu được do đầu tư bằng nợ vay để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho


11

chủ doanh nghiệp. Chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu chính là doanh lợi vốn chủ sở
hữu tối thiểu mà người đầu tư trù tính sẽ nhận được trên số vốn mà họ đã đầu tư.
Như đã trình bày ở trên, để có đủ vốn đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh
doanh, doanh nghiệp phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn vốn
có chi phí sử dụng vốn khác nhau. Do đó, cần phải xác định chi phí sử dụng vốn
bình quân của các nguồn đó. Chi phí sử dụng vốn bình quân là mức doanh lợi vốn
tối thiểu cần phải đạt được từ việc sử dụng các nguồn vốn đã huy động. Chi phí sử
dụng vốn bình quân phụ thuộc vào hai yếu tố là: chi phí sử dụng của từng nguồn
vốn và tỷ trọng của từng nguồn vốn trong tổng số vốn huy động. Đây là một đặc
trưng hết sức quan trọng đòi hỏi doanh nghiệp phải biết tính toán để lựa chọn nhằm
tìm được nhiều nguồn vốn với chi phí sử dụng vốn thấp nhất đáp ứng yêu cầu của
sản xuất kinh doanh. Bởi đã là hàng hoá thì người bán phải biết bán cho ai, bán lúc
nào, bán với giá bao nhiêu để có lãi. Ngược lại, người mua phải biết mua bao
nhiêu, mua lúc nào, mua của ai để có chi phí rẻ nhất. Đây là quy luật sống còn của
việc trao đổi hàng hoá trong kinh tế thị trường nói chung và điều đó cũng không
ngoại lệ đối với “hàng hoá vốn”.
Hai là, vốn có giá trị về mặt thời gian.
Trong nền kinh tế thị trường, giá trị của một đồng vốn không phải là cố định
(bất biến) mà luôn biến động theo thời gian. Cũng là một đồng vốn nhưng giá trị
của nó tại thời điểm hiện tại khác với tương lai. Một đồng vốn ở thời điểm hiện tại
có giá trị lớn hơn chính nó trong tương lai.
Sở dĩ vốn có giá trị về mặt thời gian vì những lý do sau:
Lý do thứ nhất là, một đồng hôm nay đưa vào kinh doanh đến ngày này năm sau sẽ
có giá trị ngoài tiền gốc còn có tiền lãi do chính nó sinh ra. Ngược lại, một đồng tại

thời điểm này năm sau vẫn là một đồng. Như vậy, ngoài giá trị bản thân nó, khi
đưa vào kinh doanh, đồng vốn có khả năng sinh lời theo thời gian.
Lý do thứ hai là, sức mua của đồng vốn ở các thời điểm khác nhau cũng khác nhau.


12

Lý do thứ ba là, chính sách, cơ chế (thuế, lãi suất, tỷ giá) cũng tạo ra rủi ro cho
đồng vốn khi hoạt động trong tương lai.
Nhận thức đặc trưng này giúp cho doanh nghiệp biết lựa chọn thời điểm vay
vốn và sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất để tránh cho đồng vốn khỏi thất thoát do
ảnh hưởng bởi tính thời gian của vốn.
Ba là, vốn phải gắn với chủ sở hữu.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi đồng vốn phải gắn với một chủ sở hữu
nhất định, nghĩa là không thể có đồng vốn vô chủ. Ở đâu có những đồng vốn vô
chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả.
Nhận thức được đặc trưng này có ý nghĩa rất lớn trong việc phân định quyền
sở hữu và quyền sử dụng vốn, vấn đề có ý nghĩa cấp thiết và bức xúc hiện nay.
Bốn là, vốn phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản.
Điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu
hình và tài sản vô hình. Mặt khác, vốn là một bộ phận của tài sản, nhưng không
phải toàn bộ tài sản là vốn. Tài sản ở trạng thái tĩnh chỉ là vốn tiềm năng, tài sản
hoạt động mới gọi là vốn.
Năm là, vốn phải vận động sinh lời.
Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để
tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được vận động sinh lời.
Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện,
nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị – là
tiền. Đồng tiền phải trở về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn. Đó cũng là nguyên lý
của đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn.

Sáu là, vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy được tác dụng.


13

Để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ, vốn phải được gom lại thành
những món lớn. Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh, dân gian ta đã có câu “Buôn
tài không bằng dài vốn”.
Mỗi đặc trưng của vốn phản ánh một mặt bản chất của vốn. Vì vậy, việc
nhận thức đúng những đặc trưng của vốn là hết sức quan trọng, là cơ sở để xây
dựng cơ chế, chính sách huy động vốn phù hợp, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.4.Phân loại vốn trong doanh nghiêp xây dựng
Vốn của doanh nghiệp dùng vào sản xuất kinh doanh có thể được phân loại
theo nhiều cách thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
1.1.4.1. Phân loại theo chức năng và công dụng kinh tế của vốn
Theo cách phân loại này, vốn được chia làm ba loại sau:
- Vốn cố định:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về
tài sản cố định. Đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng phần qua nhiều chu kỳ
sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn khi tài sản đó hết thời
gian sử dụng. Đặc điểm vận động về hiện vật và giá trị của tài sản cố định sẽ quyết
định đến đặc điểm vận động của vốn cố định. Chính đặc điểm này đòi hỏi doanh
nghiệp phải quan tâm đến toàn bộ quá trình huy động, đầu tư sử dụng vốn cố định.
- Vốn lưu động:
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn bằng tiền được ứng ra để mua sắm
các tài sản lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đặc điểm luân
chuyển của loại vốn này là chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm mới
và luôn thay đổi hình thái biểu hiện.

Việc phân loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp thành vốn cố định và vốn
lưu động nhằm giúp cho việc nhận thức đầy đủ đặc điểm vận động của từng loại
vốn, nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp cho huy động và sử dụng vốn. Trong


14

quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp được quyền sử dụng linh hoạt các loại
vốn, quỹ theo nguyên tắc có hoàn trả, bảo toàn và phát triển vốn.
- Vốn đầu tư tài chính:
Là một bộ phận của vốn kinh doanh doanh của doanh nghiệp được đàu tư ra bên
ngoai nhằm mục đích sinh lợi.

Phân loại vốn trong doanh nghiệp

Vốn ban đầu

Vốn bổ
sung

Vốn chủ sở
hữu

Vốn do nợ
vay

Theo công dụng kinh tế

Vốn cố định


Theo hình thái
biểu hiện

Theo nguồn hình
thành

Theo quá trình
hình thànhvốn

Vốn lưu động

Vốn hữu
hình

Vốn vô
hình

Theo đối tượng đầu tư
.
Vốn đầu tư tài
chính

Đầu tư bên
trong

Đầu tư ra
bên ngoài


15


Tóm lại, vốn của DNXDGT, như đã phân tích ở trên là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ tài sản hữu hình và vô hinh được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích
sinh lợi. Tùy theo tungwfloaij hình doanh nghiệp mà quy mô và cơ cấu vốn cũng
khác nhau. Trong thực tế, cách phân loại theo công dụng kinh tế được sủ dụng khá
phổ biến, biểu hiện tương đối rõ nét. Theo đó, vốn của DNXDGT bao gồm ba
thành phần vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính doanh nghiệp.
1.1.4.2. Phân loại vốn theo hình thức sở hữu
Theo cách này, vốn được chia thành 2 loại:
- Vốn chủ sở hữu:
Đây là nguồn vốn của chủ sở hữu đầu tư ban đầu để hình thành doanh
nghiệp và đầu tư bổ sung hàng năm cho sản xuất kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư ban đầu để hình thành doanh nghiệp
do ngân sách nhà nước cấp và vốn góp dưới hình thức mua cổ phần của các cổ
đông (trường hợp doanh nghiệp nhà nước có huy động vốn bằng phát hành cổ
phiếu).
- Các khoản nợ phải trả:
Đây là loại vốn mà doanh nghiệp tự huy động cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh trong khuôn khổ pháp luật như: vốn vay ngắn hạn, dài hạn của các ngân
hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính, các cá nhân trong và
ngoài nước, vốn huy động từ thị trường chứng khoán thông qua việc phát hành trái
phiếu, vốn liên doanh liên kết là vốn do các đơn vị khác tham gia liên doanh liên
kết với doanh nghiệp để cùng kinh doanh hưởng lợi nhuận.
1.1.4.3. Phân loại vốn theo cách thức huy động
Vốn của doanh nghiệp được huy động theo các cách thức sau:
- Vốn được cấp từ ngân sách nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Vay ngắn hạn, dài hạn từ các ngân hàng thương mại.
- Huy động từ nội bộ doanh nghiệp.



16

- Phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
- Thuê tài chính.
- Các hình thức khác.
Mỗi hình thức có những ưu nhược điểm nhất định. Vì vậy, doanh nghiệp
phải biết cân nhắc, lựa chọn hình thức huy động nào, vào thời gian nào, mức độ
huy động là bao nhiêu để có một cơ cấu vốn tối ưu. Cụ thể các hình thức huy động
vốn sẽ được phân tích kỹ trong chương sau.
1.2 Huy động vốn trong doanh nghiệp
1.2.1.Sự cần thiết phải huy động vốn
Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong
điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay thì doanh nghiệp cần phải thực hiện các
phương thức hoạt động mới, phát huy quyền chủ động kinh doanh của doanh
nghiệp. Quyền chủ động trong điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh bao gồm
hàng loạt các vấn đề như: chủ động lựa chọn phương án kinh doanh, phương án
sản xuất sản phẩm trên cơ sở tiếp cận thị trường, chủ động xây dựng kế hoạch và
điều hành việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm, trong đó quyền
chủ động tạo vốn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường,
mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, không phân
biệt các thành phần kinh tế, là lợi nhuận tối đa. Thực chất của quá trình đạt lợi
nhuận tối đa là chính quá trình sử dụng tối ưu các yếu tố đầu vào, trong đó các quá
trình sử dụng tiết kiệm, nâng cao hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh, khai thác triệt
để các nguồn vốn phục vụ kịp thời cho sản xuất kinh doanh.
Huy động vốn của doanh nghiệp xây dựng giao thông được hiểu là tổng thể các
biện pháp làm tăng vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu cầu vốn
cho doanh nghiệp.
1.2.2. Trình tự huy động vốn
Quá trình huy động vốn được diễn ra trong ba bước:



17

- Xác định nhu cầu vốn: căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh ta sẽ xác
định được nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
- Nghiên cứu lựa chọn hình thức huy động vốn: căn cứ vào nhu cầu vốn,
những chỉ tiêu tài chính và mục đích sử dụng vốn ta sẽ lựa chọn hình thức huy
động vốn cho thích hợp với doanh nghiệp.
- Tiến hành huy động vốn: là công việc diễn ra từ khi tiếp xúc với nhà tài trợ
vốn đến khi nhận được vốn về.
1.2.3.Các hình thức huy động vốn
Tùy theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh
nghiệp có thể có các hình thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện nền kinh
tế thị trường, các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp được đa dạng hóa, giải
phóng các nguồn tài chính trong nền kinh tế, thúc đẩy sự thu hút vốn vào các
doanh nghiệp.
Sau đây là các hình thức huy động vốn mà các doanh nghiệp có thể sử dụng:
1.2.3.1.Các hình thức huy động vốn ngắn hạn
Hình thức huy động vốn ngắn hạn là việc huy động vốn từ các nguồn vốn có
tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà doanh nghiệp có thể tạm thời sử dụng. Việc
huy động vốn ngắn hạn nhằm phục vụ cho việc tài trợ vốn lưu động bị thiếu trong
sản xuất kinh doanh, thông thường bao gồm các hình thức sau:
1.2.3.1.1. Hình thức tín dụng thương mại
Nguồn vốn tín dụng thương mại chiếm một vị trí quan trọng trong nguồn tài
trợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Nó được hình thành khi doanh nghiệp nhận được
tài sản, dịch vụ của người cung cấp song chưa phải trả tiền ngay. Doanh nghiệp có
thể sử dụng các khoản phải trả khi chưa đến kỳ hạn thanh toán với khách hàng như
một nguồn vốn bổ sung để tài trợ cho các nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn của
doanh nghiệp. Điều này cũng có nghĩa như doanh nghiệp được tài trợ thêm vốn.



18

Quy mô nguồn vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vào số lượng hàng hóa,
dịch vụ mua chịu và thời hạn mua chịu của khách hàng. Nếu giá trị hàng hoá, dịch
vụ mua chịu càng lớn, thời hạn mua chịu càng dài thì nguồn vốn tín dụng thương
mại càng lớn. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến thời hạn mua chịu là tình hình tài
chính của cả người mua và người bán, chiết khấu giảm giá hàng bán, tính chất kinh
tế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm được cung cấp.
Khi tham gia tín dụng thương mại sẽ xuất hiện các loại chi phí khác nhau,
trong đó, có hai loại chi phí cần quan tâm: Chi phí thứ nhất là phần chênh lệch giữa
giá mua chịu và giá thanh toán ngay; chi phí thứ hai là chi phí cơ hội khi thanh
toán ngoài thời hạn chiết khấu. Hai loại chi phí này có thể lấy làm cơ sở để so sánh
về chi phí huy động vốn khi lựa chọn các nguồn tài trợ.
Việc sử dụng tín dụng thương mại có nhiều ưu điểm: Nó là hình thức tín
dụng thông thường và giản đơn, tiện lợi trong hoạt động kinh doanh. Nếu doanh
nghiệp bán hàng biết rõ khách hàng của mình thì vẫn có thể đánh giá đúng khả
năng thu nợ hoặc những rủi ro có thể gặp trong việc bán chịu tương đối dễ dàng.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc sử dụng tín dụng thương mại cũng
tiềm ẩn những rủi ro đối với doanh nghiệp. Việc mua chịu sẽ làm tăng hệ số nợ của
doanh nghiệp, điều này cũng làm tăng nguy cơ phá sản đối với doanh nghiệp. Vì
thế mà doanh nghiệp phải tính toán, cân nhắc thận trọng, vừa phải biết sử dụng
việc mua chịu như một hình thức huy động vốn ngắn hạn, đồng thời, phải giảm đến
mức tối thiểu các khoản phải thu của mình đang bị khách hàng chiếm dụng trong
quá trình thanh toán. Việc lạm dụng nguồn vốn tín dụng thương mại có thể gây ra
những hậu quả như làm giảm uy tín của doanh nghiệp, hoặc trong các giao dịch
sau doanh nghiệp sẽ phải chịu các chi phí tín dụng cao hơn, bởi vì các nhà cung
cấp sẽ thắt chặt hơn các điều kiện trong thực hiện hợp đồng như tiền phạt hoặc
thanh toán lãi trả chậm.



19

Nhìn chung đây là cách thức huy động vốn được ưa chuộng và sử dụng phổ
biến cho các doanh nghiệp bởi vì nó rất linh hoạt và có lợi cho cả người cung cấp
cũng như người nhận tín dụng.
1.2.3.1.2. Vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng
Khi nhu cầu vốn lưu động gia tăng, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn
tín dụng ngân hàng như một nguồn tài trợ thêm vốn của mình. Do đặc điểm vốn
lưu động là luân chuyển nhanh, do đó các doanh nghiệp thường sử dụng các khoản
vay ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động thiếu. Các nguyên tắc cơ bản mà
các doanh nghiệp phải tôn trọng khi sử dụng vốn vay là phải sử dụng đúng mục
đích và có hiệu quả; phải có vật tư hàng hoá đảm bảo; phải hoàn trả đầy đủ và
đúng hạn cả vốn lẫn lãi vay.
Tùy theo từng doanh nghiệp đi vay, sau khi kiểm tra các điều kiện vay, nếu
đủ điều kiện, các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng sẽ xác định cụ
thể đối tượng cho vay và thời hạn cho vay. Đối tượng cho vay vốn lưu động thông
thường là vật tư, hàng hoá và những chi phí cần thiết phục vụ trực tiếp cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn thời hạn cho vay thường được
xác định căn cứ vào thời gian quay vòng của vốn vay; khả năng trả nợ ngân hàng
của đơn vị vay; thời gian sử dụng nguồn vốn cho vay của ngân hàng.
Phương pháp cho vay của các ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp
có 2 hình thức chủ yếu là:
a) Các hình thức vay không có đảm bảo
Theo hình thức này thì số lượng vay sẽ bị hạn chế. Hình thức này thường
bao gồm một số loại sau:
Vay theo hạn mức tín dụng:
Đây là một thỏa thuận giữa doanh nghiệp và ngân hàng, theo đó, ngân hàng
tạo sẵn cho doanh nghiệp một khoản tín dụng với một hạn mức nhất định, trong
hạn mức đó doanh nghiệp có thể rút tiền vượt quá khỏi số dư trên tài khoản của



20

mình mà không phải thế chấp. Loại tín dụng này có thời hạn tối đa là một năm và
cuối mỗi năm, ngân hàng sẽ xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp để gia
hạn hay điều chỉnh tổng mức tín dụng cho doanh nghiệp vào năm kế tiếp. Chi phí
sử dụng vốn được tính cho tổng mức tín dụng mà doanh nghiệp đã sử dụng. Hình
thức này có ưu điểm là chi phí thấp nhưng doanh nghiệp phải chủ động về mặt tài
chính vì ngân hàng có thể thu hồi bất kỳ lúc nào hoặc không tiếp tục cho vay nữa.
Tín dụng tuần hoàn:
Đây là hình thức mà các ngân hàng thương mại tạo ra để phục vụ các doanh
nghiệp. Tín dụng tuần hoàn là hình thức cho vay của ngân hàng trên cơ sở tổng
mức tín dụng thỏa thuận hàng năm. Doanh nghiệp có thể sử dụng linh hoạt toàn bộ
hạn mức vào bất cứ thời điểm nào và phải trả chi phí cho toàn bộ hạn mức dù có sử
dụng hay không.
Hình thức cho vay theo hợp đồng:
Theo hình thức thỏa thuận này thì khi doanh nghiệp nhận được hợp đồng
xây lắp công trình, doanh nghiệp có thể tiếp xúc với một ngân hàng nào đó và yêu
cầu ngân hàng cho vay một khoản tiền để thực hiện hợp đồng. Sau khi xem xét các
chứng từ, văn bản là hợp lệ và thấy khả năng thanh toán của khách hàng là đáng tin
cậy thì doanh nghiệp có thể cấp tín dụng cho doanh nghiệp để thực hiện hợp đồng.
Thời gian cho vay thường là ba tháng, sáu tháng hoặc chín tháng tùy theo từng
ngân hàng và uy tín của doanh nghiệp. Ngân hàng thường tạo điều kiện thuận lợi
để tài trợ theo thể thức này nhất là khi khoản tiền mà họ cho vay được sử dụng cho
một hợp đồng ký kết giữa doanh nghiệp mượn tiền với một doanh nghiệp lớn và
đáng tin cậy, bởi như vậy họ có được sự đảm bảo cao để thu hồi nợ đúng hạn.
Hình thức tài trợ theo hợp đồng thường rất hay được sử dụng để tài trợ cho
các doanh nghiệp nhỏ, nhất là các nhà thầu. Đây là hình thức huy động vốn khá
phổ biến hiện nay trong các doanh nghiệp xây dựng giao thông.

Thư tín dụng:


21

Hình thức này thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp có nhu cầu
nhập khẩu hàng hoá. Khi đó, doanh nghiệp sẽ đề nghị với ngân hàng phục vụ mình
cấp một khoản tín dụng để nhập khẩu hàng hoá. Nếu ngân hàng chấp nhận, họ sẽ
phát hành một thư tín dụng cam kết sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân
hàng phục vụ nhà xuất khẩu.
Sau khi nhận được thông báo, nhà xuất khẩu chuyển toàn bộ hàng hoá cho
doanh nghiệp đồng thời gửi các chứng từ hóa đơn về việc chuyển hàng hoá đến
ngân hàng phục vụ mình nhờ thanh toán tiền. Sau khi số tiền trên thư tín dụng
được thanh toán thì nó cũng trở thành khoản nợ đối với doanh nghiệp.
b) Các hình thức vay ngắn hạn có đảm bảo
Vay có đảm bảo là hình thức tín dụng có thế chấp bằng tài sản của doanh
nghiệp để đảm bảo khả năng thanh toán cả tiền gốc và lãi khi đến hạn để nhận
được một khoản vay từ các nhà tài trợ. Hình thức này có thể được thực hiện bằng
các khoản thế chấp khác nhau như tài sản, hàng hoá, các khoản phải thu, bán nợ,
bảo lãnh.
Vay có thế chấp bằng các khoản phải thu:
Theo hình thức này, doanh nghiệp có thể vay ngân hàng hoặc các công ty tài
chính bằng cách sử dụng các hóa đơn thu tiền để đảm bảo cho các khoản vay.
Ngân hàng sẽ đánh giá chất lượng của hóa đơn thu tiền và xác định số tiền cho vay
tương ứng, thông thường dao động từ 20-90% giá trị danh nghĩa của các khoản thu.
Mua bán nợ:
Theo hình thức này, doanh nghiệp có thể mang những khoản phải thu đến
bán cho ngân hàng hoặc một công ty tài chính nào đó. Sau khi cuộc mua bán hoàn
tất, bên mua nợ sẽ có trách nhiệm thu hồi các khoản nợ theo các chứng từ đã mua
và chịu mọi rủi ro khi gặp phải những khoản nợ không thu hồi được.

Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp sẽ có được nguồn tài trợ như
mong muốn và không phải gánh chịu những rủi ro nếu như không đòi được nợ vì


22

rủi ro là do ngân hàng chịu. Tuy nhiên, chi phí huy động vốn theo hình thức thỏa
thuận mua bán nợ là khá cao, bởi nó bao gồm nhiều loại chi phí như chi phí kiểm
tra tư cách tín dụng của khách hàng hay những rủi ro không thu hồi được nợ.
Vay có thế chấp bằng tài sản:
Vay thế chấp bằng tài sản hàng hoá là khi muốn vay, doanh nghiệp phải
dùng tài sản hàng hoá của mình, thường là tài sản cố định làm vật đảm bảo, thông
qua việc doanh nghiệp giao cho ngân hàng các giấy tờ chứng minh tài sản đó thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp, đổi lại, doanh nghiệp sẽ nhận được một hối phiếu
rút tiền trong một khoảng thời gian nhất định để phục vụ cho kinh doanh. Theo
hình thức này, giá trị khoản vay phụ thuộc vào mức độ rủi ro, khả năng chuyển đổi
nhanh và tính ổn định về giá cả của các loại tài sản mà doanh nghiệp đem thế chấp.
Vay có bảo lãnh:
Doanh nghiệp có thể vay được những khoản tiền ngắn hạn nếu như được các
cổ đông chính thức hay một bên thứ ba có tư cách tín dụng tốt bảo đảm với Ngân
hàng, đồng ý là người bảo đảm cho các khoản nợ. Khi đó người bảo lãnh sẽ làm
cam kết gửi ngân hàng, nhận trách nhiệm trả món nợ thay cho doanh nghiệp vay
trong trường hợp doanh nghiệp vay không có khả năng chi trả.
Sự bảo lãnh này có thể là riêng biệt hay bảo lãnh nối tiếp. Nếu là bảo lãnh
riêng biệt thì đó là bảo lãnh cho món nợ duy nhất, còn nếu là bảo lãnh nối tiếp thì
nó bao trùm hàng loạt giao dịch vay mượn. Ngoài ra bảo lãnh có thể là toàn bộ
hoặc từng phần của khoản vay.
Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu
động trong phạm vi hệ số nợ cho phép không chỉ giúp doanh nghiệp khắc phục
được những khó khăn về vốn mà còn có tác dụng phân tán rủi ro trong kinh doanh.

Tuy nhiên, để sử dụng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả, doanh nghiệp cũng cần
phân tích, đánh giá nhiều mặt khi quyết định sử dụng vốn vay, đặc biệt là việc lựa


23

chọn ngân hàng cho vay cũng như khả năng trả nợ và chi phí sử dụng vốn vay từ
các ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng.
1.2.3.1.3. Vay ngắn hạn các doanh nghiệp khác
Đây là hình thức vay mượn giữa các doanh nghiệp dựa trên những quan hệ
nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, vay vốn ngắn hạn giữa các doanh nghiệp là
hình thức huy động vốn quan trọng vì nó có nhiều ưu điểm hơn so với các hình
thức khác. Phương pháp này linh hoạt, có thể vay trong một số ngày hay một thời
gian nhất định, vì thế nên nó rất thuận lợi cho việc giải quyết các nhu cầu vốn cấp
bách tạm thời. Bên cạnh đó, hình thức này còn có ưu điểm là không cần vật thế
chấp. Trong lúc tiền tệ căng thẳng thì hình thức này còn có thể điều hòa được thừa
thiếu vốn và giảm bớt được những quy định tài chính khắt khe. Vì vậy nó trở thành
một phương thức điều hòa tiền vốn ngắn ngày có hiệu quả được các doanh nghiệp,
các tổ chức tài chính của các nước trên thế giới áp dụng phổ biến. Thực tế là có
doanh nghiệp đang ở trong tình trạng thiếu vốn, nhưng lại có các doanh nghiệp có
phần tiền vốn tạm thời nhàn rỗi chưa dùng đến. Cho phép các doanh nghiệp vay
vốn của nhau sẽ làm tăng khả năng điều hòa linh họat từ nơi thừa sang nơi thiếu,
rút ngắn tới mức thấp nhất thời gian ứ đọng trong sử dụng và luân chuyển vốn.
Tuy nhiên, hình thức này cũng có nhược điểm là dễ dẫn đến tình trạng công
nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp; số lượng tiền vay được ít vì chủ yếu dựa trên
mối quan hệ quen biết, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa những công ty trong
cùng một tổng.
1.2.3.1.4. Nhận tiền đặt trước của khách hàng
Đây là hình thức huy động vốn mà các doanh nghiệp xây dựng giao thông

thường làm. Khi nhận được đơn đặt hàng hay hợp đồng của khách hàng (bên A),
doanh nghiệp sẽ thỏa thuận với chủ đầu tư ứng trước một số tiền nhất định để


24

doanh nghiệp có tiền mua nguyên vật liệu phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng.
Đây là hình thức tài trợ vốn ngắn hạn rất có lợi vì doanh nghiệp khong phải trả lãi
cho việc sử dụng vốn. Đối với hợp đồng xây lắp các công trình, thông thường bên
A thanh toán cho bên B theo hạng mục công trình đã hoàn thành. Vì thế doanh
nghiệp cần làm tốt công tác thanh toán cũng như thi công xây lắp đúng tiến độ,
đảm bảo hoàn thành dứt điểm các hạng mục công trình để được bên A thanh toán
nhanh.
1.2.3.1.5. Vay vốn và nhận vốn góp của cán bộ công nhân viên trong công ty
Đây là hình thức huy động vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động
được vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nó vừa tạo điều
kiện cho công nhân viên có được khoản lợi tức nhất định và vừa gắn trách nhiệm
của họ đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
1.2.3.1.6. Các hình thức khác
Ngoài các nguồn vốn trên, doanh nghiệp còn có thể sử dụng các khoản nợ
khác để đáp ứng các nhu cầu tạm thời về vốn lưu động phát sinh trong hoạt động
kinh doanh như các khoản nợ thuế, phí đối với ngân sách; nợ tiền lương và bảo
hiểm xã hội đối với người lao động; các khoản lợi tức cổ phần chưa phải trả cho
các cổ đông; các khoản phải trả khác;... Các nguồn tài trợ này (gọi chung là nợ tích
luỹ) doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng trong thời gian ngắn. Đối với các khoản này,
doanh nghiệp được chiếm dụng thường xuyên hợp pháp nhưng không phải trả lãi,
số lượng tùy thuộc vào kết quả và quy mô sản xuất kinh doanh.
Nợ tích luỹ cũng là một nguồn bổ sung vốn ngắn hạn quan trọng cho doanh
nghiệp bởi vì nó phát sinh và tồn tại gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, cho nên doanh nghiệp có thể chiếm dùng thường xuyên và hợp lệ.

Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần phải lưu ý: Đối với tiền lương, các khoản
phụ cấp, các khoản phải trả khác cho cán bộ công nhân viên, trong điều kiện thực
sự khó khăn về tài chính thì mới sử dụng nguồn này và chỉ được thực hiện trong


25

một khoảng thời gian nhất định, không làm ảnh hưởng đến tinh thần làm việc của
người lao động. Thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước phải được thực hiện
đúng hạn, trong trường hợp cực kỳ khó khăn về tài chính thì doanh nghiệp có thể
sử dụng như một nguồn tài trợ thông qua việc chậm nộp.
1.2.3.2. Các hình thức huy động vốn dài hạn
Để tiến hành hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải
có một lượng vốn tiền tệ nhất định. Đó là tiền đề cần thiết cho việc hình thành và
hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp.
Sự phát triển kinh doanh với quy mô ngày càng lớn hơn của doanh nghiệp
đòi hỏi phải có lượng vốn ngày càng nhiều. Mặt khác, ngày nay sự tiến bộ của
khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ cao, thêm vào đó, các doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh trong điều kiện của nền kinh tế mở với xu thế quốc tế hóa
ngày càng cao, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng mạnh mẽ. Do vậy, nhu cầu
vốn cho hoạt động kinh doanh và nhất là nhu cầu vốn dài hạn của doanh nghiệp
cho sự đầu tư phát triển ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải huy
động cao độ nguồn vốn bên trong, đồng thời, phải tìm cách huy động nguồn vốn
bên ngoài để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển.
Nguồn vốn dài hạn là khoản vốn vay có thời gian thanh toán trên một năm
kể từ ngày nhận vốn. Nguồn vốn này thường được doanh nghiệp sử dụng cho việc
mua sắm máy móc thiết bị hay xây dựng nhà cửa,...
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp xây dựng giao thông có thể
sử dụng hình thức huy động vốn dài hạn sau:
1.2.3.2.1. Vốn tự có của doanh nghiệp

Theo quy định hiện hành của pháp luật, các doanh nghiệp khi được thành lập
phải có một số vốn ban đầu nhất định để đăng ký thành lập doanh nghiệp (vốn
pháp định). Tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà vốn ban đầu có nguồn


×