Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

CHUYÊN đề bồi DƯỠNG ôn THI đại học truyện ngắn “rừng xà nu” của nguyễn trung thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.63 KB, 16 trang )

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG ÔN THI ĐẠI HỌC
Truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
Người viết: Nguyễn Thị Tuyết Nhung
Chức vụ: Tổ phó tổ Văn - GDCD
Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Thái Học
Đối tượng bồi dưỡng: học sinh lớp 12
Dự kiến số tiết bồi dưỡng: 12
A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1. Kiến thức
- Nắm chắc kiến thức cơ bản về tác giả Nguyễn Trung Thành
- Nắm vững đề tài, chủ đề, cốt truyện, chi tiết, sự việc tiêu biểu và hình tượng các
nhân vật trong tác phẩm.
- Thấy được không khí sử thi Tây Nguyên đậm đà và lối kể chuyện hấp dẫn của nhà
văn.
2. Kĩ năng
Ôn luyện và hình thành cho học sinh các dạng đề:
- Tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm, giai đoạn văn học.
- Phân tích một số hình tượng trong tác phẩm (hình tượng cây xà nu, hình tượng các
nhân vật).
- Phân tích một chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm (đôi bàn tay Tnú)
- Phân tích một khía cạnh nghệ thuật trong tác phẩm (tính chất sử thi)
- Kiểu bài so sánh, bình luận.
3. Phương pháp
- Tổ chức ôn luyện, học sinh thảo luận, làm đề cương theo nhóm.
- Giáo viên nhận xét, chữa, giao bài học sinh tập viết ở nhà. Thường xuyên chấm và
trả bài, rút kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. HỆ THỐNG CÂU HỎI TÁI HIỆN KIẾN THỨC (Câu 2,0 điểm)
Câu 1: Trình bày những hiểu biết cơ bản của anh/ chị về nhà văn Nguyễn Trung
Thành.
1. Nguyễn Trung Thành (bút danh khác là Nguyên Ngọc)tên khai sinh là Nguyễn Văn


Báu. Ông sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, Năm 1950, ông vào bộ
đội, sau đó làm phóng viên báo Quân đội nhân dân ở liên khu V. Sau hiệp định Giơnevơ, nhà
văn tập kết ra Bắc. Năm 1962, ông tình nguyện trở lại chiến trường miền Nam, hoạt động ở
Quảng Nam và Tây Nguyên. Sau năm 1975, Nguyễn Trung Thành ra Hà Nội, là Phó tổng thư
kí Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn

1


Việt Nam (khóa III, IV). Năm 2002, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
thuật.
2. Nguyễn Trung Thành gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên trong suốt hai cuộc
chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ. Miền núi rừng còn xa lạ với rất nhiều người ấy lại chính
là nơi lưu giữ bao kỉ niệm đáng nhớ của những năm tháng không thể nào quên trong cuộc đời
ông, Ông được xem là người đầu tiên, người góp nhiều công sức nhất trong việc đưa văn
chương hiện đại tìm đến Tây Nguyên và đưa Tây Nguyên về với văn chương hiện đại.
Những nhan đề mà Nguyễn Trung Thành đặt cho các tác phẩm tiêu biểu nhất của
mình: Đất nước đứng lên (1954), Rẻo cao (1961), Rừng xà nu (1965), trên quê hương những
anh hùng Điện Ngọc (1969), Đất Quảng (1971 - 1974)… có thể phần nào giúp chúng ta hình
dung ra diện mạo văn chương của bản thân ông một nhà văn chuyên “săn tìm những tính cách
anh hùng”. Ngòi bút của ông giàu khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn.
Câu 2: Trình bày hoàn cảnh sáng tác, đặc sắc nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm.
1. Hoàn cảnh sáng tác
Rừng xà nu ra đời vào đầu năm 1965, ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung
Trung Bộ. Đây là thời điểm Mĩ ào ạt đổ quân vào Miền Nam nước ta, các chiến dịch càn quét
được tổ chức quy mô và rầm rộ hơn. Trong hoàn cảnh ấy, tác phẩm như một bài hịch cổ vũ
mọi người đứng lên chiến đấu giành độc lập tự do cho dân tộc.
Rừng xà nu đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng Trung Trung Bộ (số
2/1965), sau đó in trong tập truyện và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.

2. Nội dung
Thông qua việc miêu tả sức sống mãnh liệt của cây xà nu và câu chuyện về cuộc đời
Tnú, truyện khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, ý chí bất khuất, tinh thần chiến đấu chống Mĩ cứu
nước của con người Tây Nguyên. Đồng thời khẳng định chân lí về con đường giải phóng của
nhân dân trong giai đoạn cách mạng.
3. Nghệ thuật: Truyện mang đậm tính sử thi, biểu hiện qua.
- Nghệ thuật kể chuyện: ngắn gọn, súc tích. Câu chuyện một đời người, của một buôn
làng được kể trong một đêm qua lời kể trầm hùng, xúc động của cụ Mết.
- Cách xây dựng hình tượng, hình ảnh độc đáo, giàu ý nghĩa.
- Ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, mang đậm sắc thái Tây Nguyên.
Câu 3: Tóm tắt truyện
Sau ba năm đi lực lượng quân giải phóng, Tnú được về thăm làng. Già Mết và lũ làng
mừng vui khôn xiết. Đêm đó, Dít và lũ làng quây quần bên bếp lửa nghe già Mết kể lại câu
chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú và gia đình của anh, cùng cuộc nổi dậy của dân làng Xô
Man.

2


Tnú mồ côi cha mẹ sớm, làng Xô Man nuôi anh, anh rất yêu làng, yêu cách mạng. Khi
còn nhỏ, anh và Mai đã thay những người già, thanh niên trong làng đi nuôi cán bộ trong
rừng. Mặc dù giặc khủng bố rất tàn bạo, giết anh Xút, treo cổ lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà
Nhan treo lên mũi súng, nhưng Tnú và Mai quyết không sợ. Tnú và Mai được anh Quyết dạy
học cái chữ, Một lần đi chuyển thư cho anh cho anh Quyết về huyện, Tnú bị giặc phục bắt,
anh nuốt vội lá thư vào bụng. Chúng tra tấn anh vô cùng dã man và hỏi” “Cộng sản ở đâu?”,
anh đặt bàn tay lên bụng “ở đây này”.
Sau ba năm ở tù, Tnú vượt ngục về làng, lúc đó anh Quyết đã hi sinh, Tnú nghe lời
anh Quyết lãnh đạo dân làng chuẩn bị giáo mác đánh giặc. Tin bay đến đồn Đắc Hà, thằng
Dục kéo về làng một tiểu đội, bao vây không cho ai ra khỏi làng, bắt được sẽ bắn chết. Lúc
đó, đứa con trai của Mai và Tnú mới tròn một tháng. Cụ Mết và Tnú dẫn thanh niên vào rừng.

Dít còn nhỏ nhưng lanh lẹn, cứ sẩm tối, Dít lại mang gạo vào rừng tiếp tế. Nhưng đến tảng
sáng ngày thứ tư thì Dít bị bắt. Giặc bắn hăm dọa nhưng không làm gì được. Chúng bắt Mai
và đưa con nhỏ tra tấn dã man trước sân nhà rông nhằm nhử Tnú về. Tnú đứng trong rừng
nhìn thấy vợ con bị giặc hành hạ, không kiềm chế được, anh nhảy ra sân nhưng với đôi bàn
tay không anh làm sao cứu được vợ con. Tnú bị bắt và tra tấn, giặc dùng nhựa xà nu đốt cháy
mười ngón tay của anh. Tức nước vỡ bờ, cụ Mết dẫn thanh niên đem giáo mác về tấn công,
giết chết mười tên giặc ác ôn, cứu được Tnú… Câu chuyện kết thúc, sáng hôm sau, cụ Mết và
Dít tiễn anh đến cửa rừng… nhìn rừng xà nu chạy tít tắp tới tận chân trời.
Câu 4: Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm
Nguyễn Trung thành đặt tên cho cho tác phẩm của mình là Rừng xà nu. Đây không
phải là một sự ngẫu nhiên, vô tình mà có dụng ý nghệ thuật. Bởi đối với nhà văn, nhất là
những nhà văn có tài, đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là việc làm hết sức quan trọng.
Cái tên của tác phẩm được ví như “chìa khóa” để giúp người đọc mở vào tác phẩm. Nhan đề
của tác phẩm thường chứa đề tài, chủ đề, tư tưởng tác phẩm và cả linh hồn nhà văn. Vì vậy,
nhan đề “Rừng xà nu” là hình tượng trung tâm xuyên suốt câu chuyện, mang ý nghĩa bao quát
là như thế!
Rừng xà nu là hình ảnh gắn bó máu thịt trong tác giả và là những kỉ niệm sâu sắc trong
suốt cuộc chiến đấu và viết văn tại chiến trường Tây Nguyên. Nhan đề là một sáng tạo nghệ
thuật đặc sắc của nhà văn. Rừng xà nu là hình tượng mang tính biểu trưng cho con người Tây
Nguyên anh hùng, mà cụ thể trong tác phẩm là những con người của dân tộc Tây Nguyên như
Cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng… Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu thật hùng vĩ, với sức
sống mãnh liệt, sinh sôi nảy nở không ngừng, bất chấp đại bác tàn phá mỗi ngày. Qua đó, nhà
văn muốn khẳng định phẩm chất anh hùng, kiên cường, bất khuất của người Tây Nguyên vượt
qua mọi thử thách đau thương, quật khởi để đi theo Đảng, theo cách mạng.

3


Câu 5: Trong câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú, nhiều lần cụ Mết nhắc đi nhắc
lại việc Tnú không cứu được vợ con. Cụ Mết muốn nhấn mạnh và khắc ghi điều gì cho con

cháu? Ý nghĩa của chi tiết này trong tác phẩm?
- Cụ Mết nhắc đi nhắc lại việc Tnú không cứu được vợ con để nhấn mạnh một sự thật:
Nếu chỉ với hai bàn tay trắng thì chẳng những Tnú không cứu được mình, cứu được vợ con
mà dân làng Xô Man cũng không thể cứu được Tnú, không thể cứu được chính buôn làng
mình.
- Từ việc nhấn mạnh sự thật trên, cụ Mết muốn khắc ghi cho con cháu lòng căm thù
giặc và một chân lý “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
- Chi tiết này góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm: phải dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng thì mới bảo vệ được quyền sống của mình. Đó là con
đường duy nhất để giải phóng quê hương.
II. HỆ THỐNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC (5,0 điểm)
Đề 1: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn
Trung Thành.
A. Mở bài
- Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên suốt hai cuộc kháng chiến.
Ông có hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên và có nhiều tác phẩm thành công về mảnh đất, con
người nơi đây.
- Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời năm 1965, khi đế quốc Mĩ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào
miền Nam nước ta. Cây xà nu là một hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm.
B. Thân bài
1. Hình tượng cây xà nu
a. Cây xà nu gắn bó mật thiết với cuộc sống con người Tây Nguyên
- Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của
miền đất Tây Nguyên. Qua hình tượng cây xà nu, nhà văn đã tạo dựng được một bối cảnh
hùng vĩ và hoang dã đậm màu sắc Tây Nguyên cho câu chuyện.
- Cây xà nu gần gũi với đời sống của người dân Xô Man, thấm sâu vào nếp suy nghĩ
và cảm xúc của họ, là chứng nhân của những sự kiện quan trọng xảy ra với họ trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ trường kì.
b. Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên trong
chiến tranh Cách mạng.

- Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những
mất mát, đau thương vô bờ mà đồng bào ta đã trải qua trong thời kỳ cách mạng miền Nam bị
khủng bố ác liệt.
- Đặc tính “ham ánh sáng” và khí trời của cây xà nu tượng trưng cho niềm khao khát
tự do, lòng tin vào lí tưởng Cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam.

4


- Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu cùng sự rộng lớn, bạt ngàn của rừng xà nu
gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên đoàn kết bên nhau kháng
chiến.
- Sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt, tàn phá thể hiện sự
bất khuất, kiên cường, sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên, của đồng bào miền
Nam trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù.
2. Nghệ thuật miêu tả cây xà nu
- Kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan.
- Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, ứng chiếu với con người. Các hình thức nhân
hóa, ẩn dụ, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ hùng vĩ, khoáng đạt
của thiên nhiên, đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
C. Kết bài
- Hình tượng cây xà nu tiêu biểu cho vẻ đẹp hào hùng, đầy sức sống của thiên nhiên và
con người Tây Nguyên.
- Hình tượng cây xà nu được nổi bật trong sự hòa quyện nhuần nhuyễn chất thơ và
chất sử thi, thể hiện rõ một phong cách văn xuôi vừa say mê, vừa trầm tư, vừa giàu tính tạo
hình, vừa giàu sức khái quát của Nguyễn Trung Thành
Đề 2: Về nhân vật Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, có ý kiến
cho rằng: Tnú là con người trung thực, gan dạ, dũng cảm, tuyệt đối trung thành với cách
mạng. Ý kiến khác lại khẳng định: Tnú là con người chan chứa tình yêu thương.
Từ cảm nhận về hình tượng nhân vật Tnú, anh/chị hãy bình luận những ý kiến

trên.
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm:
- Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó mật thiết với Tây Nguyên. Chính tình yêu và
sự hiểu biết sâu sắc mảnh đất này đã giúp nhà văn sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật
đặc sắc.
- Truyện ngắn Rừng xà nu được viết vào mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mĩ bắt đầu ào
ạt đổ quân vào miền Nam nước ta. Tnú là nhân vật trung tâm kết tinh vẻ đẹp của đan làng Xô
Man, của nhân dân Tây Nguyên kiên cường, bất khuất.
2. Giải thích ý kiến:
- Tnú là nhân vật kết tinh được những phẩm chất tiêu biểu nhất của con người Tây
Nguyên thời chống Mĩ: vừa bất khuất, kiên trung, trọn đời gắn bó với cách mạng “trung thực,
gan dạ, dũng cảm, tuyệt đối trung thành với cách mạng” vừa thủy chung, trong sáng, giàu
tình nghĩa “chan chứa tình yêu thương”.
- Đây là hai nhận xét khái quát về các khía cạnh khác nhau tạo nên vẻ đẹp ở nhân vật –
một người anh hùng lí tưởng trong thời đại cách mạng.

5


3. Cảm nhận về hình tượng nhân vật Tnú và bình luận về các ý kiến:
a. Cảm nhận về hình tượng nhân vật Tnú:
* Tnú là con người trung thực, gan dạ, dũng cảm, trung thành tuyệt đối với cách
mạng:
- Ngay từ nhỏ, Tnú bất chấp sự khủng bố gắt gao của kẻ thù (dù giặc treo cổ anh Xút,
chặt đầu bà Nhan) nhưng Tnú vẫn hăng hái vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Học chữ thua Mai,
Tnú tự lấy đá đập vào đầu mình. Làm liên lạc, vì sự an toàn của cách mạng, Tnú “xé rừng mà
đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như
một con cá kình”.
- Khi bị giặc bắt, Tnú vẫn kiên cường chịu đựng, không chịu khai nơi giấu cộng sản
của dân làng. Gặp đau thương mất mát: vợ con bị giết, bản thân bị giặc tra tấn dã man nhưng

Tnú vẫn không chịu khuất phục trước kẻ thù.
- Với đôi bàn tay tật nguyền, Tnú đã tham gia lực lượng giải phóng quân để chiến đấu
trả thù nhà, nợ nước. Chính từ thực tế chiến đấu, Tnú đã vươn lên, nhận thức sâu sắc kẻ thù
của cá nhân mình và kẻ thù chung của cả dân tộc.
* Tnú là con người chan chứa tình yêu thương:
- Tnú gắn bó với làng Xô Man – người Strá đã nuôi Tnú khôn lớn. Xa làng đi chiến
đấu, anh nhớ làng da diết. Khi trở về lòng hồi hộp xúc động, “ngực anh đập liên hồi, chân đi
cứ vấp ngã”.
- Tnú sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ, che chở cho vợ con. Chứng kiến cảnh giặc
đánh đập vợ con một cách dã man, anh đã xông vào giữa bầy lang sói để cứu họ với hai bàn
tay không.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Nhân vật Tnú được xây dựng với cảm hứng ngợi ca, tự hào, giọng văn trang trọng, hùng
tráng, say mê, đậm chất sử thi.
b. Bình luận về các ý kiến:
- Hai ý kiến nhận xét về nhân vật Tnú đều chính xác. Mỗi ý kiến đề cập đến một khía
cạnh của nhân vật, tuy khác nhau nhưng lại có mối liên hệ mật thiết, bổ sung cho nhau để
cùng khẳng định vẻ đẹp lí tưởng của hình tượng.
- Nhân vật Tnú là một bước tiến mới trong sự nhận thức và biểu hiện những phẩm chất
của một người anh hùng lí tưởng. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự minh chứng cho chân lí của
thời đại đánh Mĩ: “Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

6


Đề 3: Phân tích hình ảnh tập thể nhân dân anh hùng trong truyện ngắn Rừng xà
nu của Nguyễn Trung Thành
A. Mở bài:
- Rừng xà nu là một truyện ngắn đặc sắc, giàu chất sử thi của văn học cách mạng miền
Nam

- Một trong những điểm cơ bản tạo nên chất sử thi của tác phẩm là hình ảnh tập thể
nhân dân anh hùng được Nguyễn Trung Thành khắc họa đậm nét trong đó.
B. Thân bài
1. Nhân vật cụ Mết
- Cụ Mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man. Lịch sử chiến đấu của làng, qua
lời kể của cụ Mết, thấm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là
pho sử sống của làng.
- Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là
Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng Xô Man, từ
thanh niên, ông già, đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ: “Năm năm chưa hề có một cán bộ bị
giặc bắt hay giết trong rừng làng này”.
- Cụ Mết là linh hồn của làng Xô Man. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình
ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang
vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một
trang sử thi anh hùng “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên…!”.
Từ ngày ấy, làng Xô Man trở thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ
của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương, bản làng.
2. Nhân vật Tnú
- Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và
hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn
tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô Man mài
giáo, mài rựa chiến đấu chống kẻ thù.
- Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ
từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bồi hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên
cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai,
của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi.
+ Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng cây sắt đập
chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với một tiếng
thét dữ dội và anh “dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc ôm chặt lấy mẹ con
Mai”.

- Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt
Tnú thành hai cục lửa lớn.

7


+ Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng
nào (…) Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.
+ Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng… Chính nỗi đau
xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu
đội giặc hung ác. Riêng Tnú ra đi lực lượng, quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản
làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức
sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của cả dân tộc.
3. Nhân vật Dít
- Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành
từ những đau thương và quật khởi của dân làng. Trong thời gian dân làng Xô Man chuẩn bị
chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh vào rừng. Chỉ có con Dít nhỏ,
lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên.
Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắn dọa, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân
nhỏ… đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản…
+ Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì
cái chết của Mai thì Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh. Tất cả chi tiết trên thể hiện
tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi thường của Dít, biết dồn nén đau thương để nung nấu
lòng căm thù. Như những người con bất khuất của làng Xô Man, Dít căm thù trên cơ sở nhận
thức rõ bản chất của kẻ thù, để quyết tâm chiến đấu tiêu diệt chúng
- Dít rất giàu tình cảm thương yêu.
Khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội. Như ngày
nào, đốt mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui mừng,
Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí,
Dít chuyển sang gọi là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú

ngày xưa và tỏ bày tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi? (…) Bọn em miệng đứa nào
cũng nhắc anh mãi”.
4. Nhân vật bé Heng
- Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang
củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng trưởng
thành, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng.
Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu, và con đường vào làng phải qua hai các dốc
chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc
thiết lập những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện.
- Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh
thẫm, thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao
thẳng lên bầu trời, hứa hẹn sẽ đi xa hơn thế hệ trước.
C. Kết bài

8


- Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo, đậm
khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên
kiên cường, thì các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại
diện cho các thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man, được khắc họa thật sinh động.
- Qua Rừng xà nu, ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước con người Tây Nguyên. Họ
đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc.
Đề 4: Những đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành trong tác phẩm Rừng
xà nu
A. Mở bài
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành sáng tác mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ mở
những cuộc tấn công trực tiếp vào Miền Nam.
Tác phẩm để lại dấu ấn sâu dậm trong tâm hồn người đọc không chỉ bởi sự tái hiện
thành công không khí lịch sử trên mảnh đất Tây Nguyên mà con bởi nó đã thể hiện được một

ngòi bút nghệ thuật vững vàng.
B. Thân bài:
1. Nét đặc sắc đầu tiên phải kể đến là cách kể chuyện đầy hấp dẫn và biến hóa. Hai
mạch truyện: chuyện một đời người (Tnú) và chuyện một ngôi làng (Làng Xô Man) lồng vào
nhau và được tái hiện qua lời kể một già làng vào một đêm bên bếp lửa. Cách kể chuyện này
tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt:
- Câu chuyện hiện thực mang không khí huyền thoại tạo nên âm hưởng sử thi hào
hùng, tráng lệ. Hiện tại kết nối với quá khứ, hiện thực và truyền thuyết đan cài vào nhau mở
rộng phạm vi không gian trong tác phẩm.
- Trong phạm vi một truyện ngắn, tác giả đã đưa vào được một dung lượng đồ sộ với
nhiều tình tiết, sự kiện diễn ra trong thời gian dài, với số phận các cá nhân cụ thể và cả số
phận cộng đồng khiến hiện thực lịch sử được tái hiện vừa rộng vừa sâu.
2. Với Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng được những hình tượng nghệ
thuật đặc sắc, vừa chân thực, sống động vừa mang tính khái quát:
- Hình tượng cây xà nu: Hình ảnh hiện thực - hình ảnh biểu tượng; vừa đẫm chất thơ,
vừa hùng tráng.
- Hình tượng những con người Tây Nguyên: vừa mang những đặc điểm, tính cách
chung tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn cả cộng đồng, vừa mang những nét riêng:
- Cụ Mết: Nhân vật mang bóng dáng những người anh hùng trong các bản trường ca,
người kết tinh sức mạnh và gìn giữ truyền thống cho cả cộng đồng.
- Tnú, Mai, Dít: Thế hệ trẻ những con người bản lĩnh, yêu nước, căm thù giặc, gan
góc, dũng cảm, tha thiết gắn bó với mảnh đất quê hương.
- Heng: thế hệ tương lai, người tiếp nối truyền thống cha anh.

9


Hình tượng cây xà nu và hình tượng con người Tây Nguyên được miêu tả trong sự
song hành đối xứng và song trùng nhau khiến không khí hiện thực hiện lên vừa hùng tráng,
vừa đầy lãng mạn.

3. Ngôn ngữ giọng điệu: vừa trữ tình sâu lắng vừa hào hùng, mạnh mẽ, kết hợp giữa
xúc cảm và suy tư trầm lắng. “Rừng xà nu” không chỉ tái hiện lịch sử ở chiều rộng mà ở cả
chiều sâu
C. Kết bài
Rừng xà nu kết tinh những thành tựu nghệ thuật của ngòi bút sử thi lãng mạn Nguyễn
Trung Thành.
Đề 5: Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là khúc ca bi tráng về đất nước và
con người Tây Nguyên. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến trên.
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
B. Thân bài:
1. “Rừng xà nu” là câu chuyện thương tâm
Rừng xà nu là đối tượng của sự tàn phá và hủy diệt của kẻ thù. Mỗi ngày bị đạn đại
bác bắn hai lần, hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Nhiều cây bị chặt đứt nửa thân
mình, đổ ào ào như một trận bão.
- Dân làng Xô Man chịu nhiều mất mát đau thương: Anh Xút bị treo cổ trên cây vả
đầu làng. Bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo trên đầu súng. Tấm lưng của Tnú tuy còn nhỏ đã
ngang dọc vết dao chém. Giặc vào làng mấy ngày ngọn roi nó không từ một ai, súng lúc nào
cũng lăm lăm đạn. Mai và đứa bé chưa đầy tháng tuổi đã chết dưới trận đòn roi sắt tàn bạo
của quân thù. Lửa xà nu đã đối cháy mười đầu ngón tay của Tnú. Tất cả đều xuất phát từ bàn
tay hủy diệt tàn bạo của quân thù.
2. “Rừng xà nu” là câu chuyện hùng tráng.
- Dưới bom đạn, rừng xà nu vẫn sinh sôi nảy nở với sức sống mãnh liệt. Đến hết tầm
mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy thẳng đến chân trời.
- Dân làng Xô Man kiên cường bất khuất: Dù giặc ra sức khủng bố, đàn áp phong trào
cách mạng, dân làng Xô Man vẫn quyết tâm nuôi giấu cán bộ, thanh niên bị cấm thì có ông bà
già, ông bà già không thể đi thì thiếu nhi tiếp tục. Anh Quyết hi sinh thì Tnú thay thế. Mai
chết thì có Dít. Giặc cầm súng thì dân làng cầm giáo, giặc hủy diệt thì dân làng vùng dậy bằng
cuộc đồng khởi của tất cả mọi người, với mọi thứ vũ khí, với lửa cháy khắp rừng, chiêng
trống vang trời và rừng Xô Man ào ào rung động. Sức sống, ý chí sinh tồn và lòng quyết tâm

đánh giặc còn được thể hiện qua làng kháng chiến với nhiều hầm chông, hố chông, bẫy đá.
C. Kết bài
- Khẳng định ý kiến
- Khẳng định giá trị của tác phẩm

10


Đề 6: Tính chất sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Lưu ý: - Nắm chắc đặc điểm tính chất sử thi và khuynh hướng lãng mạn của VHVN
giai đoạn 1945 - 1975 khái niệm tính chất sử thi.
- Một tác phẩm sử thi thường biểu hiện qua những khía cạnh, yếu tố:
+ Xung đột
+ Chủ đề
+ Lập trường tư tưởng
+ Nhân vật
+ Giọng điệu, tình cảm…
- Tìm dẫn chứng trong tác phẩm làm rõ các khía cạnh trên.
Dàn ý
1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Nguyễn Trung Thành là nhà văn quân đội, cả 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, ông luôn gắn bó với chiến trường Tây Nguyên, với thiên nhiên và con người nơi
đây.
- Rừng xà nu ra đời vào mùa hè năm 1965, khi đế quốc Mĩ ào ạt đổ quân vào miền
Nam nước ta, mở màn cuộc chiến tranh cục bộ của chúng. Tác phẩm là một bài kịch thời
chống Mĩ nên mang đậm chất sử thi.
2. Giải thích khái niệm tính chất sử thi
- Tính chất sử thi ở đây không phải là khái niệm thể loại hay quy mô của tác phẩm, mà
là một tác phẩm phản ánh cuộc sống con người thời hiện đại đã được phủ lên màu sắc sử thi.
- Tính chất sử thi là một đặc điểm của dòng văn học sáng tác trên nền tảng của ý thức

cộng đồng toàn dân xuất hiện vào thời kỳ có đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta với
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ
- Tính chất sử thi thể hiện ở xung đột, trong tác phẩm văn học là xung đột giữa toàn
dân với kẻ thù xâm lược, chủ đề cơ bản có tính sử thi là tình cảm yêu thương, ngợi ca dân tộc,
nhân dân, Tổ quốc, truyền thống anh hùng trong quá trình đấu tranh giành độc lập toàn dân.
Lập trường có tính sử thi là nhà văn vì lợi ích của dân tộc, cộng đồng. Nhân vật có tính sử thi
là nhân vật anh hùng đại diện cho phẩm chất, ý chí và sức mạnh của dân tộc, đặc biệt là các
hình tượng lãnh tụ, hình tượng chiến binh, hình tượng người mẹ. Giọng điệu có tính sử thi cơ
bản là giọng ngợi ca, tụng ca, giọng khẳng định và cổ vũ nhân dân chiến đấu. Tình cảm có
tính sử thi chủ yếu là tình yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu bộ đội…
3. Phân tích và chứng minh
a. Xung đột và chủ đề có tính sử thi
- Qua hình tượng trung tâm trong Rừng xà nu, tác giả đã phản ánh hiện thực đấu tranh
gay gắt diễn ra ở dân làng Xô Man, nhân dân Xô Man anh hùng với thế lực hung hãn là đế
quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện xung đột và chủ đề có tính sử thi:

11


“Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ…Hầu hết đạn đại bác đều
rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”…
- Trong đau thương mất mát, “cả rừng xà nu không có cây nào không bị thương”
những vẫn không khuất phục vẫn dâng trào sức sống mạnh mẽ, hướng về ánh sáng mặt trời,
chống trả lại quân thù. “Cứ thế 2, 3 năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở
cho làng…”
b. Nhân vật và tình cảm có tính chất sử thi
- Bằng thủ pháp chiếu ứng rừng cây - đời người, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng
những hình tượng nhân vật đẹp như Tnú, cụ Mết, Dít, bé Heng; nổi bật lên trên bối cảnh Tây
Nguyên hùng vĩ là lòng yêu nước nồng nàn, phẩm chất anh hùng, sẵn sàng hi sinh vì đồng
bào, đồng chí…

- Tiêu biểu là hình tượng nhân vật Tnú. Đây là nhân vật kết tinh phẩm chất anh hùng
của dân tộc Strá, làng Xô Man; đại diện cho số phận của cả cộng đồng, con đường đi lên của
dân tộc.
c. Giọng điệu có tính chất sử thi
- Giọng điệu cơ bản của Rừng xà nu là giọng ngợi ca, tự hào, khẳng định cổ vũ nhân
dân đấu tranh. Tác phẩm ca ngợi phẩm chất anh hùng, sức sống mãnh liệt của dân tộc Tây
Nguyên. Như cây xà nu, rừng xà nu, biết bao bom đạn giội xuống nhưng họ vẫn như rừng xà
nu “Nối tiếp chạy đến chân trời”.
- Câu chuyện được kể qua lời cụ Mết, cụ là nguồn cội, là sức mạnh của dân làng Xô
Man thời đánh Mĩ. Câu chuyện được kể bên bếp lửa xà nu theo lối kể “khan” với giọng trầm
hùng, trang trọng vang vọng chất sử thi hòa vào chất thơ hùng tráng bay vút lên từ thiên nhiên
đến con người miền núi bất khuất mà hiền hòa.
4. Đánh giá
- Rừng xà nu đánh dấu sự thành công của văn xuôi Việt Nam thời chống Mĩ, là bản
hùng ca của Tây Nguyên bất khuất, ngoan cường, dũng cảm trong đấu tranh.
- Tính chất sử thi là một nét độc đáo trong văn học Việt Nam thời đại mới, nó kế tục
và phát triển dòng văn học yêu nước đậm đà bản sắc dân tộc, vẻ đẹp tinh thần truyền thống
của con người Việt Nam.
Đề 7: Đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, không thể nào quên được
hình ảnh bản tay Tnú đầy ấn tượng. Hãy phân tích hình ảnh bàn tay Tnú trong truyện
để chứng tỏ rằng: Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn nhằm khắc họa
rõ nét chân dung nhân vật và bộc lộ sâu sắc chủ đề của tác phẩm.
1. Giới thiệu vấn đề
2. Phân tích

12


Trong cuộc đời đầy bi tráng của Tnú chi tiết gây ấn tượng nhất là đôi bàn tay của anh.
Nguyễn Trung Thành đã đặc biệt dụng công miêu tả bàn tay của nhân vật Tnú. Từ hình ảnh

đôi bàn tay này hiện lên không chỉ cuộc đời mà cả tính cách của nhân vật.
- Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn, trung thành. Đấy là
bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ Quyết dạy, bàn tay cầm đá tự ghè vào đầu mình để trừng
phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng mà nói “cộng sản ở đây này”….., rồi tới
khi thoát tù trở về làng, Tnú gặp Mai ở đầu rừng, Mai xúc động chảy nước mắt khi cầm hai
bàn tay Tnú.
- Bàn tay Tnú là bàn tay đau thương. Ấn tượng mạnh nhất về bàn tay của Tnú chính là
đoạn cao trào của truyện, cũng là đoạn đời bi tráng nhất của nhân vật: giặc quấn giẻ tẩm dầu
xà nu vào mười ngón tay anh và đốt “Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc” thiêu cháy cả
gan ruột Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu
lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh”. Dầu xà nu rất thơm, nay đã khét lẹt mùi thịt cháy. Nhưng
mười ngọn đuốc thịt da đó đã kịp làm mồi châm ngọn lửa cho dân làng nổi dậy. Sau tiếng thét
của Tnú, theo lệnh của cụ Mết, trai tráng làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa, họ đã
vùng lên giết hết cả tiểu đội giặc, mở ra một trang sử đấu tranh mới của làng Xô Man. Từ đây,
bàn tay Tnú trở thành bàn tay tật nguyền, mỗi ngón tay chỉ còn lại hai đốt, như một chứng tích
về tội ác man rợ của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời.
- Bàn tay Tnú còn là bàn tay quả báo đối với kẻ thù. Tuy tàn tật nhưng hai bàn tay ấy
vẫn cầm được giáo, cầm được súng chiến đấu; hơn nữa, vẫn có thể bóp chết tên chỉ huy địch
khi hắn cố thủ trong hầm.
3. Đánh giá
Như vậy, bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi
nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Cũng như nhiều nhân vật trong văn học chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp
lãng mạn, giàu lí tưởng. Qua nhân vật này, Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện phẩm chất, số
phận và nhất là con đường đến với cách mạng của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân miền Nam
trong quá trình đấu tranh giải phóng đất nước, giành độc lập, dân tộc.
Đề 8: Đều viết về chiến tranh, đều ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, Rừng
xà nu của Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi có gì
khác biệt.
1. Giới thiệu vấn đề

Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) và Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)
đều là những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng, ra đời vào những năm 60 của thế
kỉ XX. Cả hai tác phẩm đều là những truyện ngắn thành công của mỗi tác giả, khi ngòi bút
của họ đến độ chín của tài năng văn chương. Cả hai tác phẩm đều chung cảm hứng ngợi ca
chủ nghĩa anh hùng cách mạng của những con người miền Nam kiên cường bất khuất, căm

13


thù giặc và tha thiết yêu quê hương, thủy chung tình nghĩa với cách mạng, kháng chiến.
Những nhân vật trong các tác phẩm đều là những nhân vật điển hình, đều mang giá trị tiêu
biểu cho con người Việt Nam nói chung trong thời đại chống Mĩ. Tuy nhiên, hai tác phẩm của
hai nhà văn đã thể hiện hai phong cách nghệ thuật riêng, nó tạo nên sức hấp dẫn của mỗi tác
phẩm cũng như khẳng định tài năng của mỗi nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật.
2. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong tác phẩm “Rừng xà nu”
Rừng xà nu thực sự là một Đất nước đứng lên thu nhỏ của Nguyễn Trung Thành. Là
người đã từng gắn bó với Tây Nguyên từ thời chống Pháp, tác giả đã chọn được đúng mảnh
đất quen thuộc ấy khi viết truyện ngắn này. Với hình tượng rừng xà nu được đặt trong hoàn
cảnh đối diện trực tiếp với sự hủy diệt của bom đạn, tác phẩm của Nguyễn Trung Thành đã
tạo được không khí Tây Nguyên, không khí sử thi ngay từ những dòng đầu tiên cho đến dòng
cuối cùng của thiên truyện. Cảm hứng sử thi cũng đã chi phối nhà văn này trong cách xây
dựng nhân vật đặc biệt, phù hợp với không khí của truyện cũng như chủ đề tư tưởng của tác
phẩm.
- Các nhân vật trong truyện ngắn này được xây dựng theo hệ thống các thế hệ nối tiếp.
Từ cụ Mết - cội nguồn của Tây Nguyên còn trường tồn đến hôm nay, đến Tnú - thế hệ trải qua
mất mát đau thương tột cùng đang tiếp nối trong cuộc chiến, và Dít, bé Heng - thế hệ đang
trưởng thành nhanh chóng.
- Các nhân vật trong tác phẩm đều bị lược bớt ít nhiều khía cạnh đời tư. Mối quan hệ
của họ chủ yếu được đặt trong quan hệ xã hội, dân làng, đất nước, với kẻ thù; nhiệm vụ của
họ chủ yếu là những trọng trách mà lịch sử giao phó. Vì thế, vẻ đẹp sử thi là một điểm nổi bật

dễ nhận ra trong các nhân vật của Nguyễn Trung Thành. Từ chân dung, hành động đến lời nói
của các nhân vật đều được chú ý khắc họa những nét vừa độc đáo vừa tiêu biểu cho tinh thần
của con người thời đại. Số phận của họ gắn liền với số phận của tộc người Tây Nguyên, của
đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến đầy đau thương nhưng cũng rất đỗi hào hùng.
- Giọng điệu của tác phẩm mang đậm chất sử thi. Sự kết hợp giữa lời kể chuyện của
nhân vật cụ Mết hài hòa với giọng điệu người kể chuyện, Rừng xà nu mang âm hưởng sử thi
với độ lùi thời gian về quá khứ, cho dù câu chuyện đang diễn ra trong hiện tại. Đó cũng là một
thành công lớn của nhà văn với tác phẩm tâm đắc nhất trong cuộc đời cầm bút của mình
3. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”
Nguyễn Thi được xem là nhà văn của những người dân Nam Bộ dù ông sinh ra ở Nam
Định. Vốn sống cùng với sự gắn bó máu thịt với con người nơi đây đã giúp nhà văn này tạo ra
một không khí Nam Bộ trong hàng loạt tác phẩm của mình như Người mẹ cầm súng, Chuyện
xóm tôi, Ở xã Trung Nghĩa, Mẹ vắng nhà….Trong đó, tiêu biểu hơn cả vẫn là Những đứa con
trong gia đình. Không khí Nam Bộ ấy được thể hiện trong hiện thực cuộc sống đời thường mà
nhà văn phản ánh, trong tính cách của những nhân vật đậm màu sắc Nam Bộ từ ngôn ngữ đến
hành động, từ tính cách đến đời sống nội tâm rất chân thực và sinh động

14


- Cảm hứng chủ yếu của Nguyễn Thi là cắt nghĩa về phẩm chất anh hùng của những
đứa con trong gia đình, và vì thế, “gia đình của những đứa con” chính là cội nguồn của sự
hình thành tính cách và phẩm chất tuyệt vời cho những đứa con cầm súng tiêu diệt kẻ thù, trả
nợ cho những thế hệ cha ông đã ngã xuống.
- Các nhân vật trong truyện ngắn này được nhìn qua “điểm nhìn trần thuật” của Việt nhân vật chính. Khác với Nguyễn Trung Thành trong Rừng xà nu, Nguyễn Thi đã lựa chọn
điểm nhìn trần thuật rất gần gũi của một đứa con mỗi khi kí ức triền miên gợi nhắc những kỉ
niệm rất đỗi thân quen, gần gũi, đời thường. Từ cảnh đi soi ếch đến những dòng kinh trước
nhà, từ chú Năm đến chuyện về ba má quen nhau, từ chị Hai đến chị Chiến và đồng đội của
Việt….tất cả, tất cả đều hiện lên thật sinh động, mang dấu vết còn nguyên của sình lầy bùn
đất của hương vị mồ hôi má Việt đến giọng hò tức như gà gáy của chú Năm. Mỗi nhân vật

hiện lên đều qua tâm trí của Việt, điều đó càng làm cho không khí của tác phẩm thực sự là
không khí gia đình, những mối quan hệ gia đình, với khá nhiều chuyện “thỏn mỏn” nhưng rất
thú vị và mang nhiều ý nghĩa.
- Nguyễn Thi quan tâm đến việc miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật với cái nhìn của
cuộc sống đời thường. Việt muốn giấu chị Chiến như giấu của riêng, chị Chiến đi đánh trận
vẫn mang theo chiếc gương để soi khi rảnh rỗi, chú Năm giữ cuốn sổ gia đình ghi chép thật
đơn giản, ngắn gọn. Đây cũng là một điểm khác biệt giữa hai nhà văn, trong hai bút pháp văn
chương. Nguyễn Trung Thành tập trung nhiều hơn những hành động của nhân vật, những
bước ngoặt trong số phận của nhân vật gắn liền với thời khắc “đồng khởi”; Nguyễn Thi
nghiêng về những câu chuyện cụ thể trong gia đình, những tình tiết đời thường với rất nhiều
những suy nghĩ nội tâm của các nhân vật.
- Tuy nhiên Những đứa con trong gia đình đâu chỉ là câu chuyện của một gia đình.
Câu chuyện mà mỗi người sẽ viết một khúc ấy, gia đình cũng như dòng sông, trăm sông đổ về
một biển. Nguyễn Thi đã tạo được sức khái quát từ những nhân vật điển hình, từ ý nghĩa của
“gia đình” nhỏ bé ấy là một thế hệ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, đầy tự chủ
và tự tin vào chiến thắng của cuộc chiến, ở đó sức mạnh của lòng căm thù, tình yêu nước thật
sâu sắc và cụ thể, nên đầy sức mạnh.
4. Đánh giá chung
- Hai tác phẩm Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình đều là những thành công
xuất sắc của thế hệ cầm bút thời chống Mĩ. Mỗi tác phẩm có một không khí riêng, cách nhìn
riêng về hiện thực đấu tranh cách mạng và nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất sáng tạo.
Sức mạnh trong Rừng xà nu chủ yếu là sức mạnh của sự đoàn kết giữa các thế hệ, của quá khứ
và hiện tại, của sức mạnh tinh thần và vật chất, những nhân vật đang giữ những trọng trách
trước lịch sử đau thương nhưng cũng rất hào hùng. Sức mạnh ở Những đứa con trong gia
đình là sức mạnh từ cội nguồn của gia đình, từ chính “cuốn sổ gia đình” được đọc và những

15


đứa con trực tiếp chứng kiến, tình yêu gia đình, quê hương, thủy chung với con đường ba má

đã lựa chọn, những đứa con ấy trở thành anh hùng cũng rất tự nhiên như sự sống.
- Tuy nhiên, cả hai tác phẩm đều mang cảm hứng ngợi ca, những nhân vật ấy đều là
những nhân vật anh hùng. Cả hai nhà văn đều thể hiện được không khí của thời đại, không khí
cuộc chiến khối liệt, nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng và niềm tin vào chiến thắng
của những con người anh hùng trong một dân tộc anh hùng.
C. KẾT LUẬN
Trên đây là một số kinh nghiệm và suy nghĩ của cá nhân tôi trong quá trình bồi dưỡng
học sinh ôn thi đại học. Hi vọng những vấn đề đó sẽ phần nào gợi mở cho các thầy, các cô
trong quá trình trang bị kiến thức cho các em học sinh và cũng là hành trình tự hoàn thiện tri
thức của bản thân mình. Rất mong nhận được sự góp ý của tất cả các đồng nghiệp. Tôi xin
chân thành cảm ơn!
Vĩnh Yên, ngày 5 tháng 3 năm 2014
Người viết

Nguyễn Thị Tuyết Nhung

16



×