Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Bảo hiểm toàn diện học sinh tại Phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng Bảo Việt Hà Nội. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.18 KB, 92 trang )

Luận văn tốt nghiệp

1

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

LỜI NÓI ĐẦU
Bác Hồ của chúng ta đã từng nói: “Một năm khởi đầu bằng mùa xuân.
Một đời khởi đầu bằng tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Trong bức
thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên sau cách mạng tháng tám,
Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không? Dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu
hay không? Chính là nhờ một phần ở công học tập của các cháu”.
Đúng như lời Người dạy, ở bất kỳ quốc gia nào, dân tộc nào và bất kỳ thời
điểm lịch sử nào, thế hệ trẻ đều đại diện cho tương lai của đất nước. Chính vì
thế, Đảng và nhà nước ta đã xác định chăm lo đạo tạo thế hệ trẻ có đủ đức, đủ
tài, đủ sức khoẻ để sau này cống hiến cho đất nước chính là việc làm cho tương
lai của đất nước. Vì vậy, ngay từ năm học 1985-1986 BHTDHS đã ra đời nhằm
mục đích bảo vệ và chăm sóc thế hệ trẻ toàn diện. Hơn 20 năm đã trôi qua,
nghiệp vụ BDTDHS đã được các công ty bảo hiểm thực hiện khá tốt góp phần
quan trọng vào việc bù đắp các tổn thất tài chính do tai nạn xảy ra đối với học
sinh giúp các em nhanh chóng khắc phục khó khăn để sớm trở lại học tập binh
thường. Bảo hiểm toàn diện học sinh, sinh viên đã trở thành nhu cầu thiêt thực
trong cuộc sống hàng ngày và có ý nghĩa vô cùng to lớn với toàn xã hội.
Việc nghiên cứu đề tài: “Bảo hiểm toàn diện học sinh tại Phòng bảo
hiểm Hai Bà Trưng - Bảo Việt Hà Nội. Thực trạng và giải pháp” sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về nghiệp vụ này cũng như những tồn tại của BHTDHS
mà Phòng gặp phải khi thực hiện nghiệp vụ này và qua đó tìm ra những giải
pháp khắc phục những tồn tại đó.Chính vì vậy em đã chọn đề tài này làm đề
tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề tuy đã được hoàn thành hết sức cố gắng, nhưng không thể tránh


khỏi thiếu sót nhất định. Vì vậy, em rất mong được sự chỉ bảo tận tình của

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

2

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

thầy cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HỌC SINH
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM
HỌC SINH
1.Sự cần thiết của Bảo hiểm học sinh.
Nước ta hiện nay có một hệ thống giáo dục thống nhất trong cả nước gồm
nhiều cấp học và trình độ đào tạo, phương thức đào tạo đa dạng với khoảng
23 triệu học sinh phổ thông, học sinh học nghề, cao đẳng và đại học. Các em
luôn nhận được sự quan tâm, chăm sóc yêu thương của gia đình , thầy cô và
của toàn xã hội, và được tạo điều kiện tốt nhất để tự do phát triển về thể lực
và trí lực. Tuy nhiên trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày các em vẫn có nguy
cơ gặp phải những rủi ro như ốm đau, bệnh tật. Mặt khác, nhận thức của các
em ở lứa tuổi này còn nhiều hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật, chưa đủ khả
năng để tự bảo vệ và chăm sóc bản thân nên nhiều khi hành động thiếu suy
nghĩ, nhiều khi không phân biệt được tốt xấu, những việc nên làm những việc
không nên làm, những việc được phép làm và không được phép làm. Và vì
vậy đôi khi dễ bị lôi kéo, dụ dỗ tham gia lam những việc làm xấu mà không

biết, những việc làm nguy hiểm không lường trước được hậu quả nghiêm
trọng xảy ra đối với bản thân. Cho nên, ở lứa tuổi của các em thường có nguy
cơ rủi ro cao hơn các lứa tuổi khác.
Khi không may xảy ra rủi ro, trẻ em cần được sự chăm sóc, chữa trị để
sớm hồi phục sức khoẻ, nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của
các em. Trong khi đó, chi phí chăm sóc này đôi khi rất lớn mà không phải gia
đình nào cũng có được. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, lạm phát ở mức
khá cao làm cho đời sống của nhiều người dân gặp khó khăn, chi phí khám
chữa bệnh cho các em không may gặp rủi ro đôi khi là rất lớn. Thực tế là
nhiều gia đình không có đủ tiền để chạy chữa cho các em hoặc là phải mất rất

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

3

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

lâu mới có đủ tiền để chữa trị cho các em và nhiều khi để lại những di chứng
không mong muốn cho các em làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng của các
em về sau, thậm chí huỷ hoại cả tương lai các em và biến các em trở thành
gánh nặng suốt đời cho gia đình và xã hội. Theo thông kê, ở nước ta hiện nay
số lượng học sinh chiếm khoảng 20% dân số của cả nước. Đây chính là nguồn
nhân lực chủ yếu cho đất nước sau này, nguồn tài nguyên quý giá nhất của đất
nước nếu như được chúng ta vun trồng, chăm sóc và tạo những điều kiện tốt
nhất cho nó phát triển. Đảng và nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ chăm sóc

và bảo vệ trẻ em tạo cho các em có điều kiện tốt nhất để phát triển bản thân là
nhiệm vụ phải làm thường xuyên và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân
và của mọi thời kỳ của đất nước. Tuy nhiên, đất nước ta đang bước vào thời
kỳ đổi mới, nền kinh tế vừa thoát ra khỏi thời kỳ phát triển trì trệ và đang trên
đà phát triển cao và ổn định. Các em đã và đang ngày càng được quan tâm
nhiêu hơn cả về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, nhìn chung nước ta vẫn còn
kém phát triển so với các nước, do đó việc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục cho trẻ
em vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể, hiện có rất ít khu vui chơp giải trí giành
riêng cho trẻ. Ở thành phố có hiện tượng các em rủ nhau đá bóng trên vỉa hè
vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông. Ở nông thôn học sinh thường
rủ nhau chơi những trò rất nguy hiểm như tắm sông, trèo cây...Những việc đó
đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng và sức khỏe của các em, và thực tế đã gây
ra nhiều hậu quả đáng tiếc. Bên cạnh đó, công việc của các bậc phụ huynh
ngày càng bận rộn, không có nhiều thời gian để giám sát con cái, hơn nữa
việc chăm sóc, quản lý về phía nhà truờng vẩn còn hạn chế. Thực trạng này
làm tăng khả năng xảy ra rủi ro đối với các em học sinh. Đặc biệt trong những
năm gần đây theo thống kê cho thấy số vụ tai nạn của học sinh ngày càng có
xu hướng tăng lên.
Để khắc phục những hậu quả trên, Nhà nước có nhiều biện pháp như : theo

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

4

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương


điều 11 chương II luật chăm sóc, bảo vệ trẻ em cua Nhà Nước ta có quy định:
1- Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, văn
nghệ, thể thao, du lịch phù hợp lứa tuổi.
2- Nhà nước khuyến khích và bảo trợ việc xây dựng, bảo vệ, sử dụng tốt
những cơ sở vật chất, kỹ thuật và phương tiện phục vụ trẻ em học tập, sinh
hoạt và vui chơi.
3- Nghiêm cấm việc sử dụng những cơ sở vật chất, phương tiện công cộng
dành cho việc học tập ,vui chơi, giải trí của trẻ em vào mục đích khác.
Thành lập quỹ bảo trợ trẻ em bằng sự đóng góp của Nhà Nước được thành
lập bằng sự đóng góp của Nhà nước, đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế, văn
hoá, tổ chức từ thiện, tổ chức nhân đạo và các tổ chức xã hội khác, của các cá
nhân ở trong nước, ngoài nước, viện trợ quốc tế cho sự nghiệp bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em. Khi các em gặp phải rủi ro thì quỹ này sẽ cứu trợ một
phần hay toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cho những hoàn cảnh đặc biệt.
Nhưng do Ngân sách Nhà nước không có được nhiều nên việc danh ngân sách
cho quỹ bảo vệ và chăm sóc trẻ em không thể khắc phục hết được những rủi
ro mà các em gặp phải, và sự giúp đỡ của các đoàn thể không mang tính lâu
dài nên cũng hạn chế. Dó đó biện pháp này chỉ mang tính tức thời. Hơn nữa
để nhận được sự hỗ trợ này đôi khi cần rất nhiều thời gian nên không đáp ứng
được nhu cầu cấp bách trong trường hợp xảy ra rủi ro các em cần được điều
trị ngay.
Để khắc phục các nhược điểm của các biện pháp trên, bảo hiểm toàn diện
học sinh đã ra đời. Với một số tiền nhỏ khi tham gia bảo hiểm nếu xảy ra tai
nạn thì học sinh đó sẽ được trợ cấp một phần hoặc toàn bộ chi phí chăm sóc
sức khoẻ từ phía các công ty bảo hiểm. Như vậy sẽ đảm bảo được hưởng
những quyền lợi chính đáng trong việc chăm sóc hồi phục sức khoẻ khi không
may xảy ra tai nạn. Đây là biện pháp rất tích cực và đạt hiệu quả cao, nó vừa

Nguyễn Văn Định


Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

5

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

mang tính chủ động lại có phạm vi rộng lớn vì không giới hạn đối với bất kỳ
học sinh nào. Hơn nữa việc giải quyết hậu quả khi xảy ra tai nạn lại được tiến
hành nhanh chóng. Có thể nói, thực hiện BHTDHS vừa đáp ứng nhu cầu thiết
thực trong cuộc sống hàng ngày của học sinh, sinh viên, vừa là một trong
những giải pháp hữu hiệu huy động nguồn lực tài chính để chăm lo phát triển
giáo dục toàn diện. BHTDHS góp phần ổn định sinh hoạt, học tập của các em
trước những rủi ro bất ngờ, đồng thời góp phần xây dựng ý thức cộng đồng
trong học sinh, sinh viên.
Như vậy sự ra đời của BHTDHS là một tất yếu khách quan để bảo đảm
cho mọi học sinh đều nhận được sự chăm sóc cần thiết khi không may gặp
phải rủi ro. BHTDHS là phương thức thiết thực nhất bảo đảm sức khoẻ, tính
mạng cho các em, là người bạn, người bảo vệ đắc lực cho an toàn của các em.
2.Tác dụng của Bảo hiểm học sinh
a. Đối với học sinh, sinh viên và gia đình các em
Như đã nói ở trên BHTDHS là sự đảm bảo về quyền lợi cho các em theo Công
ước quốc tế và luật chăm sóc giáo dục trẻ em. Vì vậy, BHTDHS trước hết là để
khắc phục cho lợi ích của chính các em, điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Bảo hiểm học sinh là mối quan tâm của nhiều bậc cha me học sinh mặc
dù chi phí cho bảo hiểm chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng chi phí mà gia
đình trả cho con em mình trong một năm học. Nhưng bảo hiểm thực sự có ý

nghĩa là tạo được sự tâm và chia sẻ gánh nặng tài chính cho bản thân các em
và gia đình không may các em ốm đau, tai nạn.
Việc tham gia bảo hiểm giúp các em và gia đình có nguồn tài chính phục
vụ việc chăm sóc, phục hồi sức khoẻ khi bị tai nạn, ốm đau bệnh tật để nhanh
chóng trở lại học tập. Chỉ một số tiền đóng phí nhỏ nhưng khi có rủi ro xảy ra
các em sẽ được công ty bảo hiểm trả tiền gấp nhiều lần để trang trải các chi
phí y tế và từ đó các em sẽ có điều kiện được chăm sóc tốt.

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

6

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

Việc tham gia bảo hiểm toàn diện học sinh không chỉ đảm bảo an tâm về
tài chính khi không may gặp rủi ro cho bản thân mà còn góp phần giáo dục ý
thức cộng đồng sâu sắc, tinh thần tương thân tương ái cùng chia sẻ khó khăn
hoạn nạn trong học sinh, tinh thần lá lành đùm lá rách của dân tộc Việt Nam.
Tham gia bảo hiểm toàn diện học sinh, các em sẽ được phổ biến những kiến
thức về việc đề phòng và hạn chế những rủi ro được các công ty bảo hiểm
thực hiện triển khai kết hợp với nhà trường , từ đó các em có ý thức quan tâm
và bảo vệ bản thân tốt hơn.
Đối với gia đình các em học sinh, trước hết BHTDHS là công cụ hữu
ích giúp các gia đình ổn định về mặt tài chính. Vì phải trang trải những chi
phí phát sinh như chi phí thuốc men, chi phí nằm viện phẫu thuật, bồi dưỡng

phục hồi sức khoẻ cho các em trong khi thu nhập của gia đình không đổi,
thậm chí là giảm sút do phải nghỉ việc để chăm sóc cho con cái nên đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến kinh tế gia đình, nhất là đối với những gia đình khó
khăn. Trong khi đó, nếu tham gia bảo hiểm thì sẽ được các công ty bảo hiểm
chi trả phần lớn hoặc toàn bộ các chi phí này. Nhờ đó mà các gia đình sẽ ổn
định về mặt tài chính yên tâm chăm sóc con cái và yên tâm làm việc. Ngoài
ra thông qua BHTDHS các bậc phụ huynh sẽ có điều kiện để chăm sóc con
cái tốt hơn vì được công ty bảo hiểm phổ biến kiến thức phòng tránh tai nạn
cho các em học sinh.
b. Đối với nhà trường và xã hội
Bảo hiểm giúp học sinh có điều kiện nhanh chóng ổn định sức khoẻ để trở
lại hoạt động, làm cho việc học tập của các em ít bị gián đoạn và công tác
giảng dạy của nhà trường được đảm bảo đúng kế hoạch. Qua BHTDHS nhà
trường được trang bị thêm các kiến thức về phòng tránh, giảm thiểu rủi ro cho
học sinh. Đồng thời nhà trường có thể phối hợp với các bậc phụ huynh và
công ty bảo hiểm mở thêm các lớp ngoại khoá để giáo dục các em ý thức bảo

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

7

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

vệ mình, nhờ đó mà chương trình giảng dạy của nhà trường sẽ được phong
phú hơn, giúp nhà trường tạo được sự tin cậy và nâng cao uy tín của mình với

các bậc phụ huynh. Bên cạnh đó, sau khi thu phí bảo hiểm công ty bảo hiểm
sẽ trích một phần phí bảo hiểm để lại trường. Phí này được sử dụng vào công
tác đề phòng hạn chế tổn thất như mua sắm các trang thiết bị y tế, sách báo,
thuốc men...giúp nhà trường giảm bớt được những chi phí này.
Đối với xã hội, BHTDHS góp phần quan trọng trong công tác xã hội
hoá giáo dục với mục tiêu chuẩn bị cho thế hệ tương lai một nền tảng vững
chắc về sức khoẻ và tri thức khoa học. Thực hiện BHTDHS là biện pháp thiết
thực trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Đảng và Nhà nước ta.
Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, khi triển khai nghiệp vụ BHTDHS,
Công ty bảo hiểm sẽ thu một khoản phí bảo hiểm (thường là rất nhỏ) của từng
em để lập nên một quỹ tiền tệ lớn. Quỹ này dùng để chi trả bồi thường cho
các em học sinh khi không may gặp phải rủi ro. Tuy nhiên, do bảo hiểm hoạt
động theo nguyên tắc số đông bù số ít nên số phí bảo hiểm thu được từ các
em học sinh không phải bao giờ cũng được chi trả hết. Vì vậy luôn có một
khoản tiền nhàn rỗi từ quỹ chưa sử dụng đến. Khoản tiền nhàn rỗi này sẽ
được đem đi đầu tư dưới nhiều phương thức khác nhau để phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước.
3. Đặc điểm của bảo hiểm học sinh
BHTDHS là một loại hình bảo hiểm tự nguyện do các doanh nghiệp bảo
hiểm tiến hành bắt đầu từ năm 1986 dưới sự chỉ đạo của Hội đồng bộ trưởng
(nay là Chính phủ) chỉ tiến hành cho các em khi đang học tại trường với mức
phí bảo hiểm là 1000-2000đ/ học sinh tương ứng với số tiền bảo hiểm tối đa
khoảng 1.000.000đ/người.
BHTDHS là loại hình bảo hiểm có tác dụng trợ giúp tài chính cho các
học sinh khi gặp rủi ro do tai nạn hoặc các rủi ro khác, đồng thời góp phần

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A



Luận văn tốt nghiệp

8

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

chăm sóc sức khỏe toàn diện cho học sinh vừa dựa trên tính cộng đồng của
đông đảo học sinh, vừa dựa trên tính năng động chủ quan của DNBH.
Đối tượng tham gia của BHTDHS là các em học sinh ở mọi cấp học từ
nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, THCS, THPT đến các sinh viên đại học, cao đẳng
có nhu cầu tham gia bảo hiểm.
Thời gian bảo hiểm của BHTDHS thường là một năm trở xuống.
Cũng giống như các loại hình bảo hiểm con người khác, Bảo hiểm học sinh
chỉ có tính rủi ro chứ không có tính tiết kiệm.
Trong hợp đồng BHTDHS, người tham gia có thể lựa chọn nhiều hình
thức tham gia bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm khác nhau. Mỗi hình
thức sẽ tương ứng với một mức phí khác nhau.
4. Sự khác nhau giữa bảo hiểm học sinh và bảo hiểm y tế học sinh
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng nâng cao thì
nhu cầu về bảo hiểm lại rất lớn. BHTDHS của các công ty bảo hiểm thương
mại, BHYTHS thực hiện tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam đều là những loại
hình bảo hiểm con người có đối tượng tham gia là các em học sinh ở các cấp
học có nhu cầu tham gia và đều hoạt động trên nguyên tắc số đông và tự
nguyện. Tuy nhiên BHTDHS, BHYTHS có những nét khác nhau cơ bản sau:
-Về mục đích hoạt động: BHTDHS hoạt động với mục đích chính là kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận và phải đóng thuế cho Nhà nước. Còn BHYTHS
lại mang tính chất nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, dựa trên
nguyên tắc cân bằng thu chi và không phải đóng thuế cho Nhà nước.
- Về việc đóng phí bảo hiểm: Đối với BHTDHS, các doanh nghiệp bảo

hiểm đưa ra nhiều mức phí khác nhau cho người tham gia tự chọn lựa theo
khả năng tài chính của mình. Do đó, cùng một loại đối tượng có thể có nhiều
mức phí tham gia bảo hiểm khác nhau. Còn đối với BHYTHS, có quy định
mức phí cụ thể cho cùng một loại đối tượng tham gia theo từng địa phương,

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

9

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

từng cấp học.
-Về quyền lợi: Đối với BHTHHS, do mức phí tham gia của các học sinh
không giống nhau trong từng địa phương và từng cấp học nên khi rủi ro xảy
ra người được bảo hiểm sẽ nhận được số tiền bảo hiểm căn cứ vào tỷ lệ
thương tật và điều kiện bảo hiểm ghi trong hợp đồng . Còn BHYTHS, do mức
phí tham gia của học sinh ở từng địa phương, cấp học là như nhau nên mức
hưởng của các đối tượng này là như nhau. BHXHVN đều chi trả 80% số tiền
điều trị không giới hạn về số ngày điều trị và số tiền tối đa mỗi đợt điều trị.
- Về hiệu quả hoạt động: nghiệp vụ BHTDHS ở các công ty bảo hiểm
thương mại nếu hoạt động không hiệu quả dẫn đến việc thua lỗ thì các công ty
phải tự chịu. Hàng năm, các công ty này phải chịu sự quản lý của Nhà nước
theo pháp luật và phải thực hiện các nghiệp vụ theo đúng trình tự kinh doanh
bảo hiểm mà luật kinh doanh bảo hiểm đã quy định. Còn BHYTHS tại Bảo
hiểm xã hội Việt Nam do Nhà nước quản lý thống nhất và hỗ trợ. BHYTHS

không chịu sự điều tiết của luật kinh doanh bảo hiểm và có chế độ
II. CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ THỰC HIỆN BẢO HIỂM HỌC SINH
Cơ sở pháp lý của BHTDHS là những văn bản chỉ dạo của Chính phủ và
các Bộ quản lý nhà nước:
1. Quyết định số 115-HĐBT ngày 29/9/1986 của Hội đồng bộ trưởng về
một số chế độ đảm bảo đời sống và học tập của học sinh tại các trường
đào tạo
Trong thời kỳ giữa những năm 80 của thế kỷ 20 việc bảo đảm đời sống
và học tập của học sinh một phần dựa vào ngân sách đào tạo của Nhà nước,
một phần dựa vào kết quả lao động sản xuất của học sinh trong nhà trường và
sự đóng góp của gia đình học sinh. Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
nước ta lúc đó gọi là Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra quyết định
số 115-HĐBT ngày 29/9/1986 về một số chế độ bảo đảm đời sống và học tập

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

10

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

của học sinh tại các trường đào tạo.
Nội dung của Quyết định này chủ yếu nhằm giải quyết chế độ bảo đảm
đời sống và học tập của học sinh các trường đào tạo phù hợp với điều kiện
kinh tế và tài chính của Nhà nước thời kỳ đó. Trong quyết định này tại điều 9
đã quy định rằng: Công ty Bảo hiểm Việt Nam ra các thể lệ bảo hiểm đối với

học sinh các trường và thu lệ phí hàng năm của học sinh theo quy
định”.Quyết dịnh này có hiệu lực thi hành kể từ năm học 1986-1987.
2. Quyết định số 241/TTg ngày 24/5/1993 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thu và sử dụng học phí
Nội dung chủ yếu của Quyết định này gồm có các phần thu học phí, thu
tiền đóng góp để xây dựng trường học, thu lệ phí thi và lệ phí tuyển sinh, thu
tiền ở ký túc xá và đặc biệt là “tất cả các trường đều thu tiền bảo hiểm y tế và
bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh”. Bộ giáo dục và đào tạo cùng Bộ Tài
chính quy định cụ thể việc thu và sử dụng học phí như phần ngân sách bổ
sung cho giáo dục và đào tạo, không trừ vào ngân sách giáo dục và đào tạo
hằng năm.
3. Thông tư của Liên Bộ Tài chính- Giáo dục và đào tạo số 35/TT-LB
ngày 25/4/1995 hướng dẫn về bảo hiểm toàn diện đối với học sinh, sinh
viên
Trong quá trình thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh theo
Quyết định số 115/HĐBT ngày 29/9/1986 của Hội đồng Bộ trưởng, phạm vi
bảo hiểm chỉ mới giới hạn ở những rủi ro tai nạn bất ngờ, chưa đáp ứng được
nhu cầu chăm lo sức khoẻ toàn diện cho học sinh, sinh viên, cũng như trợ
giúp cho gia đình học sinh trong trường hợp con em họ bị ốm đau, bệnh tật
phải nằm viện điều trị hoặc giải phẫu tại bệnh viện.
Nhằm khắc phục những hạn chế kể trên , tạo điều kiện tăng cường công
tác chăm lo sức khoẻ cho học sinh, sinh viên và để thực hiện Quyết định số

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp


11

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

241/TTg ngày 24/5/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu và sử dụng
học phí trong đó cho phép tất cả các trường đều được thu tiền bảo hiểm tai
nạn thân thể học sinh: Liên bộ tài chính, Giáo dục và đào tạo hướng dẫn một
số nội dung làm cơ sở mở rộng phạm vi bảo hiểm và thực hiện một số chế độ
bảo hiểm toàn diện học sinh. Ngoài phần quy định chung ra, Thông tư này
còn quy định cụ thể trách nhiệm của các công ty bảo hiểm và trường học,
đồng thời nêu rõ biện pháp tổ chức thực hiện bảo hiểm toàn diện đối với học
sinh, sinh viên.
4. Quy tắc bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh
Quy tắc bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh 24 giờ ngày đêm là tên gọi
đầy đủ của quy tắc này được ban hành theo quy định số 256/TC/BH ngày
22/7/1991 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Nội dung chủ yếu của quy tắc này nhằm quy định nguyên tắc cơ bản của
bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh. Trên cơ sở đó quy định cụ thể phạm vi bảo
hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, hiệu lực bảo hiểm. Một trong những nội
dung quan trọng của quy tắc này là quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm
của người được bảo hiểm, thủ tục trả tiền bảo hiểm. Phần cuối cung quy định
việc giải quyết tranh chấp có liên quan tới quy tắc này dựa trên cơ sở chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật hiện hành của Nhà nước. Quy tắc bảo hiểm tai
nạn thân thể học sinh có hiệu lực thi hành từ năm học 1991-1992.
5. Điều khoản bảo hiểm toàn diện đối với học sinh
Điều khoản bảo hiểm toàn diện đối với học sinh được ban hành theo quy
định số 1035/PHH ngày 8/7/1994 của Tổng giám đốc Công ty Bảo hiểm Việt
Nam. Điều khoản bảo hiểm này được xây dựng trên cơ sở các quy tắc bảo hiểm
có liên quan đã được Bộ Tài chính ban hành như “Quy tắc bảo hiểm tai nạn thân
thể học sinh”, “quy tắc bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật”. Điều khoản bảo

hiểm toàn diện đối với học sinh sử dụng các khái niệm chuyên môn theo đúng

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

12

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

nghĩa đã được giải thích trong các quy tắc bảo hiểm có liên quan kể trên.
Điều khoản bảo hiểm này gồm có 16 điều. Nội dung chủ yếu của điều
khoản bảo hiểm này cũng có những phần quy định pháp lý về các mặt nghiệp
vụ có liên quan như quy tắc bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh. Điều khác
nhau cơ bản là “Quy tắc bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh” chỉ giới hạn
trong phạm vi bảo hiểm những rủi ro tai nạn bất ngờ. Điều khoản bảo hiểm
toàn diện học sinh đã mở rộng phạm vi bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu góp
phần chăm lo sức khoẻ toàn diện cho học sinh, sinh viên, cũng như trợ giúp
cho gia đình trong trường hợp con em họ chẳng may bị ốm đau, bệnh tật phải
nằm viện điều trị hoặc giải phẫu tại bệnh viện.
Kể từ năm 1994 cho tới năm đầu thế kỷ 21 này, nghiệp vụ bảo hiểm
toàn diện đối với học sinh, sinh viên đã và đang trở thành nhu cầu cần thiết
trong cuộc sống hàng ngày và mang lại lợi ích thiết thực cho học sinh, sinh
viên khi không may bị rủi ro tai nạn bất ngờ. Trong quá trình thực hiện nghiệp
vụ bảo hiểm học sinh này, hàng năm Bảo Việt đều có những bổ sung, điều
chỉnh cần thiết, nhưng trên thực tế cũng còn nhiều điều chưa được giải quyết
triệt để. Theo đà phát triển kinh tế ngày càng đổi mới và đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao về đời sống của nhân dân ta, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi
và hoàn chỉnh cơ sở pháp lý để thực hiện triệt để nghiệp vụ bảo hiểm học sinh
và từng bước nâng cao chất lượng phục vụ người được bảo hiểm ngày
27/3/2002. Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam đã quyết định đưa ra quyết định
số 744/2002/QĐ/TGĐ về việc ban hành điều khoản sửa đổi, bổ sung bảo hiểm
toàn diện học sinh.
Điều khoản bảo hiểm toàn diện học sinh đã được sửa đổi, bổ sung này
có tên gọi chính thức là “Điều khoản bảo hiểm toàn diện học sinh” có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/4/2002 và thay thế “Điều khoản bảo hiểm toàn diện đối
với học sinh” đã ban hành ngày 8/7/1994.

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

13

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

“Điều khoản bảo hiểm toàn diện học sinh” gồm có 18 điều so với “Điều
khoản bảo hiểm toàn diện đối với học sinh” đã ban hành trước đây có những
sửa đối, bổ sung như sau:
5.1.Quy định rõ những khái niệm chuyên môn áp dụng trong điều khoản này.
5.2.Về đối tượng bảo hiểm bổ sung thêm hai đối tượng bảo hiểm là: tiểu
học , cao đẳng.
5.3.Về phạm vi bảo hiểm quy định rõ những điều kiện bảo hiểm cụ thể như
sau:

-Điều kiện bảo hiểm A: tức là điều kiện bảop hiểm rủi ro chết do ốm đau,
bệnh tật.
-Điều kiện bảo hiểm B: là điều kiện bảo hiểm rủi ro chết hoặc thương tật
thân thể do tai nạn.
-Điều kiện bảo hiểm C: là điều kiện bảo hiểm rủi ro phẫu thuật do ốm đau,
bệnh tật.
-Điều kiện bảo hiểm D: là điều kiện bảo hiểm rủi ro nằm viện do ốm đau,
bệnh tật, thương tật thân thể do tai nạn.
5.4. Về việc cấp giấy chứng nhận bảo hiểm .
Trong phần này có sự sửa đổi, bổ sung quan trọng chủ yếu nhằm tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho người tham gia bảo hiểm. Cụ thể là: “Khi có yêu cầu
bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể trực tiếp hoặc thông qua nhà
trường đóng phí bảo hiểm cho Bảo Việt, Bảo Việt nhận bảo hiểm trên cơ sở
danh sách học sinh đã đóng phí bảo hiểm, đồng thời cấp giấy chứng nhận bảo
hiểm cho từng học sinh.
5.5. Về số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
-Số tiền bảo hiểm trước đây quy định từ 1 triệu đến 5 triệu đồng/người/vụ
nay được bổ sung từ 1 triệu đến 20 triệu đồng/người/vụ.
-Phí bảo hiểm trước đây quy định mức bình quân là 0.9%*STBH/người/năm

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

14

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương


nay bổ sung quy định tuỳ theo điều kiện bảo hiểm cụ thể, mức phí bảo hiểm
cao nhất là 0.4% mức phí thấp nhất là 0.1% *STBH/người/năm.
5.6. Về thời hạn gửi hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm, trước đây quy định
chỉ giới hạn trong vòng 30 ngày nay mở rộng trong vòng 1 năm.
5.7. Về thời hạn chi trả tiền bảo hiểm.
Thời hạn xem xét, giải quyết và thanh toán tiền bảo hiểm trước đây quy
định trong vòng 21 ngày nay giảm xuống chỉ còn 15 ngày.
III.NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM HỌC SINH
1.Các bên liên quan trong Bảo hiểm học sinh
BHTDHS có đối tượng bảo hiểm là các học sinh, sinh viên đang theo học
tại tất cả các trường nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, phổ thông cơ sở, phổ thông
trung học, các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học sinh
học nghề. Trong đó:
a.Người tham gia bảo hiểm
Người tham gia bảo hiểm là người có yêu cầu bảo hiểm và trực tiếp
hoặc thông qua nhà trường giao kết hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm và
đóng phí bảo hiểm.
b.Người được bảo hiểm
Là tất cả mọi học sinh từ nhà trẻ, mẫu giáo, học sinh phổ thông, trung học
chuyên nghiêp, cao đẳng và các sinh viên đại học.
c. Người hưởng quyền lợi bảo hiểm
Là người được chỉ định nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm, hoặc
là người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp không có chỉ định.
2.Phạm vi bảo hiểm
Trong BHTDHS, phạm vi bảo hiểm chỉ là những rủi ro xảy ra trong lãnh
thổ Việt Nam bao gồm các trường hợp sau:
- Bị chết trong mọi trường hợp.

Nguyễn Văn Định


Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

15

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

- Bị tai nạn thương tật.
- Ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị và phẫu thuật.
Người tham gia bảo hiểm có thể lựa chọn hai hay nhiều điều kiện bảo hiểm sau:
● Điều kiện bảo hiểm A: bảo hiểm rủi ro chết do ốm đau bệnh tật.
● Điều kiện bảo hiểm B: bảo hiểm rủi ro chết , thương tật thân thể do tai nan.
● Điều kiện bảo hiểm C: trợ cấp phẫu thuật do ốm đau bệnh tật.
●Điều kiện bảo hiểm D: bảo hiểm cho trường hợp ốm đau, bệnh tật,
thương tật trợ cấp nằm viện do ốm đau, bệnh tật, thương tật.
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp sau đây không thuộc phạm vi bảo hiểm:
- Học sinh đến tuổi thành niên bị chết do tự tử, tiêm chích ma tuý...
- Do hành động cố ý của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm
hay người được hưởng quyền lợi bảo hiểm (Trừ những người được bảo hiểm
ở tuổi vị thành niên).
- Điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh bẩm sinh, chỉnh hình, thẩm mỹ, làm chân
tay giả, răng giả...
- Chiến tranh, phóng xạ...
3.Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
a.Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền được ghi trong hợp đồng bảo hiểm của người
được bảo hiểm trên cơ sở lợi ích bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chẳng những

phải có đối tượng bảo hiểm rõ ràng, mà còn phải đánh giá về đối tượng bảo
hiểm đó và dựa vào sự đánh giá đó để quyết định số tiền bảo hiểm. Số tiền
bảo hiểm là mức trách nhiệm cao nhất của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc
bồi thường tổn thất hoặc trả tiền bảo hiểm và cũng là cơ sở để tính phí bảo
hiểm. Như vậy số tiền bảo hiểm là hạn mức trách nhiệm của các công ty bảo
hiểm. Đây là cơ sở quan trọng để xác định số tiền bồi thường. Đối với nghiệp
vụ BHTDHS hiện nay số tiền bảo hiểm dao động trong khoảng 1.000.000

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


16

Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

đến 10.000.000đồng/người. Trong thực tế hạn mức trách nhiệm mà học sinh
tham gia phổ biến hiện nay khoảng từ 4.000.000 đến 6.000.000 đồng/người.
b. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là khoản chi phí của người tham gia bảo hiểm trả cho doanh
nghiệp bảo hiểm để trả giá việc doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm đảm
bảo bằng hình thức bảo hiểm theo sự thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Do
đó phí bảo hiểm là khoản tiền của người tham gia bảo hiểm chi ra để đổi lấy
trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Phí bảo hiểm phải nộp
nhiều hay ít là do số tiền bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm và thời hạn bảo hiểm
quyết định. Phí bảo hiểm có thể nộp một lần cũng có thể nộp nhiều lần theo
định kỳ.

Việc xác định mức phí bảo hiểm hợp lý là yếu tố quan trọng quyết định
đến thành công của công ty bảo hiểm. Mức phí bảo hiểm phải được xác định
để có thể vừa đảm bảo đủ để chi trả bồi thường, lại vừa đem lại một phần lợi
nhuận cho các công ty bảo hiểm. Nếu để mức phí quá thấp thì có thể dẫn đến
hiện tượng thu không đủ bù chi, làm ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận
của công ty. Ngược lại nếu mức phí quá cao lại ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của công ty bảo hiểm trên thị trường đồng thời khó thu hút khách hàng.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm: xác suất rủi ro, tỷ lệ
bồi thường, chi phí quản lý, chi hoa hồng... Do đó khi tính phí bảo hiểm cần
phải tính đến đầy đủ các yếu tố trên.
Để tính toán hợp lý phí bảo hiểm người ta sử dụng các cách sau:
* Phí bảo hiểm được xác định bởi hai nhân tố là phụ phí và phí thuần:
P=d+f
Trong đó : P: phí bảo hiểm
d:phụ phí
f: phí thuần

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


17

Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

Phí thuần f được xác định theo công thức sau:
∑Ci +∑Ti

f = ——————
∑Li
Trong đó:
Ci: Số tiền trả cho người bị tai nạn và sau đó bị chết năm thứ i
Ti: Số tiền trả cho những người bị thương tật năm thứ i
Li: Số người tham gia bảo hiểm học sinh
Phụ phí d bao gồm:
-Chi cho hoạt động quản lý của công ty bảo hiểm, thông thường từ 5% 15%
-Chi trích quỹ dự trữ, đề phòng hạn chế tổn thất
-Khoản thuế mà công ty phải nộp. Bảo hiểm toàn diện học sinh hoạt
động với mục đích chính là kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và phải đóng
thuế cho Nhà nước.( thuế thu nhập doanh nghiệp )
-Các khoản khác
* Phí bảo hiểm được xác định dựa trên số tiền bảo hiểm:
Phí bảo hiểm = Tỷ lệ phí * Số tiền bảo hiểm
Trong thực tế triển khai bảo hiểm học sinh, hầu hết các công ty bảo hiểm
trong đó có Bảo Việt thường áp dụng cách tính phí theo tỷ lệ và số tiền bảo
hiểm.
4. Hợp đồng bảo hiểm
4.1. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ có trong hợp đồng đó. Nội dung của tất cả các loại
hợp đồng đều là mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể hợp
đồng, hợp đồng BHTDHS cũng không ngoại lệ đó. Khi có yêu cầu bảo hiểm,

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A



Luận văn tốt nghiệp

18

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

người tham gia bảo hiểm có thể trực tiếp hoặc thông qua nhà trường đóng phí
bảo hiểm cho công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm trên cơ sở danh sách học
sinh đã đóng phí bảo hiểm sẽ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho học sinh.
4.2. Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm
Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm học sinh được quy định tuỳ theo từng loại
điều kiện bảo hiểm cụ thể như sau:
- Điều kiện bảo hiểm A: hợp đồng bảo hiểm theo loại này có hiệu lực
sau 30 ngày, kể từ ngày đóng phí bảo hiểm. Những hợp đồng tái tục mặc
nhiên có hiệu lực ngay sau khi người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm
cho thời hạn tiếp theo.
- Điều kiện bảo hiểm B: Hợp đồng bảo hiểm loại này có hiệu lực ngay
sau khi người tham gia bảo hiểm hoàn thành thủ tục đóng phí bảo hiểm theo
quy định.
- Điều kiện bảo hiểm C: Hợp đồng bảo hiểm loại này có hiệu lực sau 30
ngày kể từ ngày đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo quy định.
- Điều kiện bảo hiểm D: Hợp đồng bảo hiểm loại này có hiệu lực ngay
sau khi đóng phí bảo hiểm đối với trường hợp tai nạn hoặc hợp đồng tái tục
liên tục.
4.3. Huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm
Trường hợp hai bên đề nghị huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, bên yêu cầu
huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết trước 30 ngày
kể từ ngày định huỷ bỏ. Nếu hợp đồng được hai bên thoả thuận huỷ bỏ, Bảo
Việt sẽ hoàn trả 80% phí bảo hiểm của thời gian còn lại với điều kiện đến
thời điểm đó hợp đồng bảo hiểm này chưa có lần nào được Bảo Việt chấp

nhận trả tiền bảo hiểm.
5. Thời hạn bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm là một năm, trừ trường hợp có thoả thuận khác với

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

19

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

công ty bảo hiểm.
6. Trách nhiệm của các bên khi tham gia bảo hiểm
a. Trách nhiệm của công ty bảo hiểm.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ BĐTHS, trên cơ sở nghiêm chỉnh tuân
theo Luật kinh doanh bảo hiểm đã quy định, doanh nghiệp bảo hiểm phải có
trách nhiệm cụ thể như sau:
- Triển khai tới các trường và các cơ quan khác có liên quan những quy
định của Nhà nước về nội dung, phạm vi BHTDHS, quyền lợi của người mua
bảo hiểm, thủ tục bảo hiểm và trả tiền bảo hiểm.
- Cung cấp cho các trường những văn bản pháp lý và quy tắc bảo hiểm có
liêb quan đến chế độ bảo hiểm toàn diện học sinh, sinh viên.
- Tổ chức mạng lưới đại lý rộng rãi, thuận tiện cho việc thu và chuyển phí
bảo hiểm.
- Thanh toán tiền hoa hồng cho các trường hoặc đại lý theo quy định của
Bộ Tài chính ngay sau khi nhận được phí bảo hiểm.

- Trả tiền bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn cho học sinh, sinh viên khi xảy ra
trường hợp thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
- Phối hợp cùng với nhà trường tuyên truyền phổ biến rộng rãi quyền lợi
của người được bảo hiểm.
- Phối hợp với nhà trường làm tốt công tác đề phòng hạn chế rủi ro tai nạn.
b.Trách nhiệm của bên tham gia bảo hiểm.
Khi tham gia BHTDHS, người tham gia bảo hiểm cần có trách nhiệm sau:
- Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thoả thuận
trong hợp đồng bảo hiểm.
- Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo
hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

20

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp
đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm
theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Khi tham gia BHTDHS, trên cơ sở tuân theo luật kinh doanh bảo hiểm đã
quy định trên đây, người tham gia bảo hiểm phải áp dụng các biện pháp cần
thiết và có thể thực hiện để cứu chữa nạn nhân trong trường hợp xảy ra rủi ro
được bảo hiểm. Người được bảo hiểm phải trung thực trong việc khai báo và
cung cấp các chững từ chính xác về rủi ro được bảo hiểm.
Đối với các trường học cần có trách nhiệm cụ thể như sau:
- Phối hợp với các công ty bảo hiểm phổ biến chế độ BHTDHS cho các em
và phụ huynh học sinh của trường; vận động học sinh, sinh viên và gia đình
họ tích cực tham gia BHTDHS.
- Giới thiệu cán bộ làm đại lý cho công ty bảo hiểm. Đại lý có trách nhiệm
lập danh sách học sinh, sinh viên và thu phí bảo hiểm của học sinh, sinh viên
theo những thoả thuận của công ty bảo hiểm.
- Chỉ đạo các bộ phận chức năng và đại lý hướng dẫn cho học sinh, sinh
viên kê khai trung thực và đầy đủ các khoản mục quy định trong giấy yêu cầu
bảo hiểm, ký hợp đồng bảo hiểm và chuyển phí bảo hiểm thu được cho công
ty bảo hiểm theo đúng quy định.
- Khi học sinh, sinh viên của trường bị tai nạn, ốm đau, nằm viện điều trị,
phẫu thuật, chết ... thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, nhà trường cần đôn
đốc các bộ phận chức năng và đại lý nhanh chóng làm các thủ tục cần thiết
theo mẫu hướng dẫn của công ty bảo hiểm để giúp học sinh, sinh viên hoặc

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

21


GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

gia đình các em sớm nhận được tiền bảo hiểm.
IV. QUY TRÌNH TRIỂN KHAI BẢO HIỂM HỌC SINH

1. Công tác khai thác
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, trong bảo hiểm toàn diện học sinh
công tác khai thác là công tác quan trọng hàng đầu, quyết định đến sự thành
công của doanh nghiệp. Một nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm là hoạt đông
theo nguyên tắc số đông, phí bảo hiểm từ rất nhiều người tham gia sẽ được
tập hợp lại tạo nên quỹ tiền tệ tập trung. Từ quỹ này mới đem bồi thường cho
một số ít những người không may gặp rủi ro. Công tác khai thác quyết định số
khách hàng tham gia bảo hiểm, càng thực hiện tốt công tác này thì số lượng
khách hàng tham gia càng lớn. Từ đó sẽ tạo nên quỹ tiền tệ tập trung đủ lớn
để đảm bảo vừu chi trả bồi thường, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản
lý... lại vừa đảm bảo cho doanh nghiệp có khoản lợi nhuận hợp lý. Bởi vậy
trong công tác khai thác doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có các giải pháp hợp
lý để từ đó thu hút được số lượng đông đảo học sinh, sinh viên tham gia bảo
hiểm.
Thông thường công tác khai thác được tiến hành theo các bước:
- Lập kế hoạch khai thác trong kỳ. Vì bất cứ công việc nào muốn có được
kết quả tốt thì cần có kế hoạch từ trước, kế hoạch khai thác đưa ra các chỉ tiêu
phấn đấu trong kỳ, đồng thời nó còn là cơ sở để đánh giá kết quả thực hiện
của công tác sau này.
- Xây dựng các biện pháp khai thác. Để có thể thực hiện được các mục tiêu
đặt ra thì cần phải có các biện pháp thích hợp, muốn vậy công ty cần nghiên
cứu đưa ra các biện pháp từ trước.
- Thực hiện các biện pháp khai thác: là quá trình đưa ra các biện pháp ở trên
vào thực tế triển khai.

- Đánh giá kết quả thực hiện được: đựa vào kết quả khai thác này, công ty

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


22

Luận văn tốt nghiệp

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

bảo hiểm sẽ đối chiếu với các kế hoạch từ đầu kỳ, từ đó thấy được mặt tích
cực cũng như những tồn tại làm cơ sở hoạch định kế hoạch khai thác kì sau.
BHTDHS thường được tiến hành vào đầu năm học. Do vậy cứ vào thời
điểm này thì hầu hết các công ty đều dốc hết nguồn lực của mình tập trung
vào khâu khai thác để đạt được kết qủa cao.
Cũng giống như các nghiệp vụ khác, để công tác khai thác của bảo hiểm
học sinh đạt kết quả tốt, các công ty bảo hiểm đều phải xây dựng cho mình
một quy trình khai thác riêng. Quy trình khai thác đó có thể thực hiện như
sau:
Nhận thông tin từ phía
khác hàng

BP GQBT
Đánh giá
rủi ro
BP khai thác
Doanh thu thực hiện

Xem xét
đồng
Chi phíhợp
khai
thác trong

kỳ
Doanh
thu
khai thác
Đàm
phán
1,62
chào
phíkỳ
trong
BP kế toán
Hiệu quả công tác đề
GQBT
phòng BP
=
Chấp
nhận
hạn
chế
tổn thất
bảo hiểm
CChi phí đề phòng hạn
chếCấp
tổn thất

đơn trong
và thukỳ
phí
bảo hiểm
Theo dõi thu phí tiếp
nhận giải quyết mới

1,62

Nguyễn Văn Định

BP kế toán
BP GQBT

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

23

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức phòng bảo hiểm Hai Bà Trưng

2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất
Bảo hiểm là ngành có chu trình hạch toán kinh doanh đảo ngược có
nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thu phí trước của người tham gia và cam
kết sẽ bồi thường hoặc chi trả cho người đuợc bảo hiểm trong tương lai. Như
vậy là doanh thu thì xác định được trước mà chi phí thì sau khi tổn thất mới

xác định. Vì vậy, công tác khai thác mới chỉ xác định được kết quả kinh
doanh còn hiệu quả của nó lại phụ thuộc rất lớn vào khâu đề phòng hạn chế
tổn thất, và giám định bồi thường. Bởi vì chi phí lớn nhất của bảo hiểm là chi
bồi thường. Do vậy, nếu làm tốt công tác này thì chi phí lớn nhất của công ty
bảo hiểm sẽ giảm xuống, từ đó đem lại hiệu quả kinh doanh cao. Thực hiện
tốt khâu này không những đem lại lợi nhuận cho công ty mà nó còn có ý
nghĩa vô cùng to lớn. Bởi khi tham gia bảo hiểm chẳng ai mong muốn là rủi
ro xảy ra để mình nhận được tiền bồi thường, chi trả của công ty bảo hiểm,
nhưng rủi ro khách quan thì không phải do con người quyết định. Do đó, nếu
chẳng may xảy ra rủi ro với người được bảo hiểm thì công ty bảo hiểm chia
xẻ những gánh nặng về tài chính đối với những gia đình không may gặp phải
rủi ro, và làm dịu bớt rủi ro. Nhưng khi làm tốt công tác đề phòng và hạn chế
tổn thất thì người tham gia lại càng thấy sự thiết thực của bảo hiểm hơn, bởi
“phòng được bệnh còn hơn chữa bệnh”, và từ đó tính hữu hình của sản phẩm
bảo hiểm càng được người tham gia cảm nhận rõ hơn. Từ đó giúp cho nhiều
người nhận biết sâu sắc ý nghĩa của bảo hiểm hơn và ngày càng tham gia
nhiều hơn, như vậy tính quy luật số lớn của bảo hiểm càng được đảm bảo, ý

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


Luận văn tốt nghiệp

24

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

nghĩa nhân văn của bảo hiểm càng được thể hiện rõ hơn.

Đối với BHTDHS thì biện pháp đề phòng giáo dục tốt nhất là làm sao để các
em tự nhận thức được các mối nguy hiểm, ý thức được hành động của mình.
Để làm được điều đó công ty bảo hiểm cần phối hợp hoạt động tốt với gia
đình và nhà trường, thường xuyên nhắc nhở các em phải chú ý chăm sóc sức
khoẻ của mình, từ đó hạn chế được nguy cơ xảy ra rủi ro.
Vì vậy để đề phòng kiểm soát tổn thất các doanh nghiệp bảo hiểm thường
thực hiện theo các bước:
● Khảo sát điều tra thực tế, thu thập các thông tin có liên quan đến đối
tượng được bảo hiểm, đến đặc điểm các loại rủi ro. Đánh giá các cam kết của
khách hàng tham gia bảo hiểm. Sau đó lập thành văn bản chi tiết mô tả các
thông tin qua điều tra khảo sát để báo cáo lên cấp trên. Như vậy DNBH mới
có thể đưa ra các khuyến nghị, đề xuất giúp khách hàng loại trừ được các rủi
ro có thể gây tổn thất.
● Phân tích và tư vấn cho khách hàng trong công tác quản lý rủi ro.
●Thực hiện chương trình quản lý rủi ro .
Để thực hiện công tác đề phòng hạn chế tổn thất, các doanh nghiệp bảo
hiểm thường phối hợp với các cơ quan chức năng, các trường học, các tổ chức
có liên quan thực hiện tuyên truyền, xây dựng ý thức trách nhiệm cho học
sinh, sinh viên; thực hiện các chế độ khen thưởng nhằm khuyến khích mọi
thành viên tham gia vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Thông thường
các doanh nghiệp bảo hiểm thường:
- Phối hợp gia đình, ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô hướng dẫn các
em học sinh tham gia những hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh, đề ra thời
gian biểu cho các em học tập, vui chơi ở nhà và trường học. Nghiêm cấm chơi
các trò nguy hiểm như đua xe, trèo cây cao, chơi bóng ở vỉa hè hay lòng
đường...

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A



Luận văn tốt nghiệp

25

GVHD: Th.s.Tô Thiên Hương

- Phổ biến cho các em học sinh kiến thức về chăm sóc sức khoẻ, luật lệ an
toàn giao thông, cấp kinh phí cho nhà trường dùng để mua thuốc men, sách
báo về chăm sóc sức khoẻ, khuyến khích các trường thành lập hội chữ thập đỏ
hướng dẫn học sinh phòng bệnh và chữa bệnh.
- Tổ chức hội nghị cha mẹ học sinh vào các dịp thích hợp để kết hợp giữa gia
đình, nhà trường, công ty tìm ra các biện pháp phòng ngừa hạn chế tai nạn.
- Phối hợp với cảnh sát giao thông công cộng, các cơ quan truyền hình báo
chí tuyên truyền luật lệ an toàn giao thông cho các em, xây dựng biển báo, áp
phích ... ở cổng trường hay các đoạn đường dễ xảy ra tai nạn nhằm nhắc nhở
các em chú ý khi tham gia giao thông. Tổ chức hoặc hỗ trợ tổ chức các cuộc
thi tìm hiểu luật lệ an toàn giao thông,tim hiểu về cách chăm sóc sức khoẻ cho
bản thân… hình thành ý thức cho các em học sinh biết cách tự bảo vệ tính
mạng và sức khoẻ cho bản thân mình.
- Khuyến khích khen thưởng kịp thời cho những đơn vị nào làm tốt công
tác đề phòng hạn chế tổn thất.
3. Công tác giám định
Giám định tổn thất là một trong những công việc cơ bản của công ty bảo
hiểm. Thông qua giám định người ta nắm được nguyên nhân dẫn đến rủi ro,
mức độ thiệt hại khi rủi ro xảy ra và rủi ro có thuộc trách nhiệm của công ty
bảo hiểm hay không, từ đó làm cơ sở để xác định số tiền bồi thường. Đồng
thời thông qua giám định công ty bảo hiểm còn phát hiện được hành vi gian
lận nhằm trục lợi bảo hiểm để có biện pháp xử lý. Làm tốt công tác giám định

giúp doanh nghiệp bảo hiểm dễ dàng thực hiện các bước tiếp theo là bồi
thường tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.Vì mặc dù trong BHTDHS việc
giám định tổn thất không khó khăn như các nghiệp vụ bảo hiểm khác nhưng
cũng không thể xem nhẹ, bỏ qua . Bởi số lượng học sinh tham gia rất lớn và
trong thực tế những trường hợp gian lận trục lợi bảo hiểm vẫn xảy ra.

Nguyễn Văn Định

Lớp: Bảo hiểm 46A


×