Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục tiểu học và trung học cơ sở huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2015 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 104 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
––––––––––––––

LÊ MINH THƯ

XÂY DỰNG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TIỂU
HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN LANG CHÁNH,
TỈNH THANH HOÁ GIAI ĐOẠN 2015 - 2020

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN, 2013


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
––––––––––––––

LÊ MINH THƯ

XÂY DỰNG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TIỂU
HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN LANG CHÁNH,
TỈNH THANH HOÁ GIAI ĐOẠN 2015 - 2020

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC


Mã số: 60.14.05

Người hướng dấn khoa học: PGS.TS Hà Văn Hùng

NGHỆ AN, 2013


3
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận:
Giáo dục và Đào tạo đóng vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, phát triển và
truyền bá nền văn minh nhân loại. Trong thời đại cách mạng khoa học ngày nay,
khi mà tiềm năng trí tuệ là động lực chính của sự phát triển. Giáo dục và Đào tạo
được coi là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia trong cạnh tranh
Quốc tế và sự thành bại của mỗi người trong cuộc sống của mình. Nhiệm vụ đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là quốc sách, chiến lược hàng đầu của nhiều
quốc gia. Bởi “Không có một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể thoát khỏi sự tiến
bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó. Và những nước nào coi
nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết tiến hành sự nghiệp
giáo dục một cách hiệu quả thì số phận quốc gia đó xem như đó an bài và điều đó
cũng tồi tệ hơn cả sự phá sản” (UNESCO -1994). Chính vì vậy, trong công cuộc
đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo
là đầu tư cho phát triển”; " Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững" [17].
Chiến lược phát triển Giáo dục – Đào tạo, trong đó có nội dung: “ Tăng
cường chất lượng của công tác lập kế hoạch, tiến hành dự báo thường xuyên và
tăng cường cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực của xã hội cho các ngành, các

cấp, các cơ sở giáo dục để điều tiết quy mô, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào
tạo cho phù hợp nhu cầu sử dụng”. [10].
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đã
khẳng định mục tiêu tổng quát chiến lược phát triển kinh tế - Xã hội đến năm
2010: “ Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan
trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa đất nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. [17] Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X cũng đã vạch ra một trong những nhiệm vụ chủ yếu của đất nước ta


4
trong thời gian tới là: “ Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo; nâng cao chất lượng nguồn lực, đáp ứng yêu cầu cộng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức”. [17]
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã vạch ra một trong
những nhiệm vụ của đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là:
Giáo dục và Đào tạo có xứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam. Phát triển Giáo dục và Đào tạo cùng với phát triển khoa học và
cộng nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho sự
phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển xã hội. nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện cho mọi công dân được học tập
suốt đời. [18]
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng khẳng định: “ Quan tâm
hơn tới phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo
đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối

với người có công và gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi,
học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng
có nhiều khó khhăn. [18] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục
nhấn mạnh là: “ Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản
lý mục tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo”. [18]
Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực công dân; đào tạo những người lao động có tay nghề, năng động và sáng tạo
có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để thực hiện được mục tiêu ấy, một trong những vấn đề quan trọng đầu tiên
là phải xây dựng được một nền giáo dục phổ thụng tốt. Giáo dục phổ thông bao
gồm giáo dục tiểu học (TH), trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông
(THPT). Trong đó giáo dục tiểu học và trung học cơ sở có một vị trí đặc biệt quan
trọng. Luật Giáo dục, Điều 27 ghi rõ: "Bậc tiểu học là bậc học nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành những cơ sở ban


5
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và
các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở.[34]
Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của
giáo dục tiểu học; có học vấn ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ
thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động" [35].
Theo Quyết định phân cấp quản lý Nhà nước về giáo dục hiện nay thì giáo
dục tiểu học và THCS do phòng Giáo dục - giúp Uỷ ban nhân dân huyện trực tiếp
quản lý. Một trong các nội dung quan trọng của quản lý Nhà nước về giáo dục là
"Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển giáo dục" (Điều 99 Luật Giáo dục). Chính vì thế, việc dự báo, lập quy

hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục là việc làm có tính chiến lược hàng đầu. Với ý
nghĩa và tầm quan trọng đó, nghị quyết Hội nghị Trung ương II- khoá VIII về
“Định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước” khẳng định và nêu rằng: Một trong những giải pháp
quan trọng để đổi mới công tác quản lý giáo dục là phải: “tăng cường công tác dự
báo và kế hoạch hoá sự phát triển giáo dục. Đưa giáo dục vào quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương”[15] và kết luận Hội
nghị trung ương lần thứ VI - khoá IX cũng nhấn mạnh “tăng cường công tác quy
hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục” [16]
Qua các định hướng, giải pháp của Đảng và Chính phủ nhằm phát triển giáo
dục đó khẳng định rằng: dự báo, quy hoạch là một trong những khâu cơ bản nhất,
quan trọng nhất của quá trình quản lý giáo dục. Bởi nếu dự báo giúp cho nhà
quản lý giáo dục có cái nhìn tổng quát trạng thái tương lai của giáo dục tài quy
hoạch chính là sự bố trí sắp xếp trạng thái tương lai đó một cách có trật tự, khoa
học, tương thích với xu thế phát triển của cả hệ thống kinh tế - xã hội. Quy hoạch
là nền tảng, là cơ sở khoa học cho việc đề ra những quyết định, hoạch định, chính
sách, phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch, xác định nguồn lực, thực hiện những
mục tiêu giáo dục đó xác định trong tương lai.


6
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Trong những năm qua, nhờ những chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, sự quan tâm nhiều mặt của chính quyền các cấp, sự nỗ lực của đội ngũ cán
bộ quản lý và giáo viên, giáo dục TH và THCS trên phạm vi toàn quốc nói chung,
trên địa bàn huyện Lang Chánh - Thanh Hoá nói riêng đã có sự chuyển biến tích
cực về nhiều mặt. Tuy nhiên đối chiếu với yêu cầu, nhiệm vụ của từng bậc học
trong thời kỳ phát triển mới của đất nước thì giáo dục TH và THCS ở huyện Lang
Chánh - Thanh Hoá hiện còn gặp nhiều khó khăn và tồn đọng một số vấn đề bất
cập: chất lượng giáo dục chưa tương xứng với tiềm năng và truyền thống của

huyện, quy mô học sinh giảm mạnh, mạng lưới trường lớp dàn trải, đội ngũ giáo
viên nhân viên và cán bộ quản lý mất cân đối, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy
học thiếu thốn, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến hạn chế trên là do thiếu sự quy hoạch phát triển giáo dục. Cho
đến nay, huyện Lang Chánh vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
về lĩnh vực này.
Đến nay đã có nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý giáo dục trong và ngoài
nước nghiên cứu về vấn đề dự báo, hoạch định chiến lược phát triển Giáo dục và Đào
tạo. Nội dung các công trình nghiên cứu đó được đề cập nhiều trong các tạp chí khoa
học: “ Nền giáo dục thế kỷ 21. Những triển vọng của châu Á Thái Bình Dương”; Hội
thảo khoa học do UNESCO tổ chức năm 1997 về: “ Tương lai của giáo dục và giáo
dục tương lai”. Ở Việt Nam, khoa học dự báo về Giáo dục và Đào tạo đang được
quan tâm nghiên cứu, ứng dụng vào việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển
sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng khoa học dự
báo vào giáo dục đã thực hiện ở các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Thực tế, trong những năm qua cho thấy Giáo dục và Đào tạo với yêu cầu,
nhiệm vụ của từng bậc học trong thời kỳ phát triển mới của đất nước thì giáo dục
TH và THCS ở huyện Lang Chánh - Thanh Hoá hiện còn gặp nhiều khó khăn, bất
cập: Chất lượng giáo dục chưa tương xứng với tiềm năng và truyền thống của
huyện, quy mô học sinh giảm mạnh, mạng lưới trường lớp dàn trải, đội ngũ giáo
viên nhân viên và cán bộ quản lý mất cân đối, chưa đồng đều về chất lượng, cơ sở
vật chất và trang thiết bị dạy học thiếu thốn, đầu tư cho giáo dục còn hạn chế so
với nhu cầu học tập của nhân dân cũng như yêu cầu cao về chất lượng giáo dục
của xã hội; việc đào tạo chưa đi đôi với sử dụng...Để giải quyết những khó khăn


7
bất cập trên, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, ngoài việc đưa ra
những định hướng lớn có tầm vĩ mô thì còn phải có các mục tiêu, các quyết sách
cụ thể vừa có tính khoa học vừa phù hợp tính khả thi. Rõ ràng muốn có được

những điều đó thì không thể thiếu công tác quy hoạch phát triển giáo dục khoa
học, chính xác. Cho đến nay, huyện Lang Chánh vẫn chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu về lĩnh vực này.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, việc xây dựng quy hoạch phát triển
Giáo dục và Đào tạo huyện Lang Chánh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng và
cần thiết xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - Xã hội đến năm 2020. Vì lẽ đó,
có làm tốt công tác quy hoạch mới tạo ra được hướng đi đúng đắn, chuẩn bị được
những tiền đề cần thiết về mọi mặt nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện
trên địa bàn huyện. Chính vì vậy, tôi chän đề tài nghiên cứu là: "Xây dựng quy
hoạch phát triển giáo dục Tiểu học và Trung học cơ sở huyện Lang Chánh,
tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2015 - 2020".
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục Tiểu học và THCS để đáp ứng nhu
cầu học tập của người dân và yêu cầu phát triển kinh tế - Xã hội của huyện Lang
Chánh, tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2015 - 2020.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quy hoạch phát triển giáo dục Tiểu học và THCS huyện Lang
Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục Tiểu học và THCS huyện
Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2015 - 2020.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu hệ thống giáo dục của huyện Lang Chánh được phát triển trên quy
hoạch có luận cứ khoa học rõ ràng, phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi, thì
giáo dục tiểu học và THCS huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoá sẽ phát triển đồng
bộ, cân đối, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững trên địa bàn,


8

5. NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quy hoạch phát triển giáo dục.
5.2. Nghiên cứu công tác quy hoạch giáo dục TH và THCS của huyện Lang
Chánh - Thanh Hoá trong thời gian qua.
5.3. Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục TH và THCS giai đoạn 2015 2020 và đề xuất một số biện pháp để thực hiện.
5.4. Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề quy hoạch phát triển giáo dục TH và
THCS trên địa bàn huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoá từ nay đến năm 2020.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các Nghị quyết của Đảng; chủ trương chính sách của Nhà nước,
của ngành, của địa phương và các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Khảo sát, điều tra, thu thập và phân tích các tài liệu, số liệu thực tiễn có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu, thông qua các phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp.
6.3 Các phương pháp khác
Các phương pháp dự báo quy mô Giáo dục - Đào tạo và sử dụng phương pháp
thống kế toán học; phương pháp ngoại suy; phương pháp sơ đồ luồng; phương
pháp so sánh... để xử lý kết quả nghiên cứu.
7. DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1. Hệ thống cơ sở lý luận về dự báo và xây dựng quy hoạch phát triển các
trường phổ thông nói chung và các trường Tiểu học và THCS nói riêng.
7.2. Đánh giá, phân tích thực trạng giáo dục Tiểu học, THCS của một huyện
trên địa bàn của tỉnh Thanh Hóa nói chung và huyện Lang Chánh nói riêng.
7.3. Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục Tiểu học và THCS trên địa bàn
huyện Lang Chánh.
Đề tài thực hiện thành công góp phần giúp cho giáo dục huyện Lang Chánh
có một quy hoạch phát triển hoàn chỉnh đến năm 2020 theo mục tiêu đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông và có kế hoạch điều chỉnh cơ cấu đội ngũ giáo
viên, cân đối nguồn ngân sách, bố trí sắp xếp mạng lưới trường lớp hợp lý góp



9
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện Lang
Chánh nói riêng và của tỉnh Thanh Hóa nói chung giai đoạn 2015- 2020.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quy hoạch phát triển giáo dục tiểu học và
Trung học cơ sở.
Chương 2: Thực trạng công tác xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục tiểu học
và Trung học cơ.
Chương 3: Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục tiểu học và trung học cơ sở
huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2015-2020


10
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẪN ĐỀ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
TIỂU HỌC VÀ TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Quy hoạch phát triển giáo dục nói chung, quy hoạch phát triển giáo dục tiểu
học và trung học cơ sở nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt. Trên thế giới, đã
có nhiều nhà khoa học và nhiều nhà quản lý giáo dục đã dày công nghiên cứu về
lĩnh vực này. Nội dung các công trình nghiên cứu đó được đề cập nhiều trong các
tạp chí khoa học: Nền giáo dục thế kỷ 21; Những triển vọng của châu Á- Thái
Bình Dương. Hội thảo khoa học do UNESCO tổ chức năm 1997 về “Tương lai
của giáo dục và giáo dục của tương lai”. Ở nước ta, việc nghiên cứu quy hoạch về
giáo dục đào tạo (GDĐT) trong đó quy hoạch phát triển giáo dục phổ thông
(GDPT) đã được tiến hành từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước và từ đó

đến nay đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Ngày 28 tháng 6 năm
1996, Bộ giáo dục- Đào tạo đã thành lập Ban chiến lược phát triển giáo dục do Bộ
trưởng làm trưởng ban. Tháng 5 năm 1997, theo tinh thần nghị quyết của Ban
chấp hành Trung Ương Đảng, Ban chiến lược phát triển giáo dục đã dự thảo:
“Chiến lược phát triển Giáo dục Đào tạo từ nay đến năm 2020”.
Vấn đề quy hoạch phát triển giáo dục đã được nhiều nhà quản lý giáo dục
cấp sở, phòng giáo dục trong cả nước quan tâm khảo sát và thực hiện. Đến nay, đã
có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như: Quy hoạch, phát triển giáo
dục đào tạo; Dự báo quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục của tác giả Đỗ
Văn Chấn [7] [8]; Tác giả Hà Thế Ngữ với “Dự báo giáo dục, vấn đề và xu
hướng”[30], Nguyễn Công Giáp với bài viết “Dự báo phát triển giáo dục” [21].
Một số luận văn thạc sỹ cũng đã theo hướng nghiên cứu này như: “Quy hoạch
phát triển giáo dục Tiểu học và THCS huyện Đông Sơn,Tỉnh Thanh Hoá giai đoạn
2008-2010" của tác giả Nguyễn Thị Ly; “Quy hoạch phát triển giáo dục tiểu học
và trung học cơ sở huyện Tỉnh gia, tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2007-2015” của tác
giả Phạm Văn Ninh; "Quy hoạch phát triển giáo dục tiểu học và trung học cơ sở
huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010" của tác giả Hà Việt Hùng; "Quy
hoạch phát triển giáo dục tiểu học và trung học cơ sở huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hóa đến năm 2015" của tác giả Nguyễn Thái Sơn… Tuy nhiên, các công


11
trình mới dừng lại việc quy hoạch bề nổi, thiên về số lượng, chưa đi vào chiều sâu.
Các tác giả cũng chưa có điều kiện và sự quan tâm đúng mức đến việc đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông. Mặt khác, mỗi địa phương có những đặc điểm,
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khác nhau, nên việc quy hoạch cũng có những
sắc thái riêng.
Đối với huyện Lang Chánh, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu về vấn đề quy hoạch phát triển GDTH và THCS. Mặc dù có kế hoạch chung
về phát triển giáo dục nhưng các kế hoạch chưa khảo sát thực tiễn, chưa có cơ sở

lý luận và khoa học, chưa nghiên cứu chiều sâu đến quy mô phát triển giáo dục
nói chung và giáo dục TH và THCS nói riêng. Vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển
giáo dục là vấn đề cấp thiết đặt ra cho ngành giáo dục Lang Chánh và sớm được
giải quyết.
1.2. Một số khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Dự báo, dự báo giáo dục, dự báo quy mô giáo dục, vai trò của dự báo
giáo dục
1.2.1.1. Dự báo
Là yếu tố vốn có của hoạt động con người. Ngay từ thủa mới xuất hiện trên
trái đất con người đã phải dự báo để sinh tồn để phát triển. Thời cổ xưa ở Á Đông
các sách vở đạo lý có ghi “ Suy xưa, ngẫm nay thì không mắc sai lầm, muốn biết
tương lai thì phải xét dĩ vãng”. Ở Việt Nam ta ông cha đã nhắc “Ôn cổ tri tân”.
Thuật ngữ “Dự báo” có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp – Progrossis có nghĩa là
biết trước. Bản thân thuật ngữ “ Dự báo” đã nói lên thuộc tính không thể thiếu của
bộ não con người, đó là sự phản ánh vượt trước, cố gắng hướng tới một tương lai
ngày càng tốt đẹp hơn. Những cố gắng ban đầu ấy được thể hiện dưới hình thức
các ước đoán, những hy vọng thiếu căn cứ, những ước vọng viễn vông không
tưởng, những tính toán ước lượng thiếu cơ sở khoa học và mang nặng tính kinh
nghiệm.
Trong nhiều thập kỷ trước dự báo không vận dụng một cách khoa học,
khônng có tính tích cực vì: Lý thuyết tôn giáo không tưởng và triết học duy tâm
chiếm vai trò thống trị trong tư duy nhận thức thế giới. Mãi đến thế kỷ XVI khi
các môn khoa học tự nhiên ( Toán, Vật lý, Hóa học, Thiên văn học...) phát triển,
các dự báo có tính khoa học mới dần dần xuất hiện. Đặc biệt, sự ra đời học thuyết
Các Mác đã mang lại khả năng mới cho sự dự báo có tính khoa học, nhất là trong


12
lĩnh vực dự báo kinh tế xã hội. Mác – Ăng ghen cho rằng hình thái kinh tế xã hội
vận động phát triển theo thời gian: Tương lai do hiện tại và quá khứ do phát triển

tạo thành.
Theo tác giả Đỗ Văn Chấn thì “Dự báo là sự tiên đoán có căn cứ khoa học,
mang tính xác xuất về mức độ, nội dung, các mỗi quan hệ, trạng thái, xu hướng
phát triển của đối tượng nghiên cứu hoặc về cách thức với thời hạn đạt được các
mục tiêu nhất định đã đề ra trong tương lai”. [8].
1.2.1.2. Dự báo giáo dục
Có ý nghĩa rất quan trọng vì công tác dự báo giáo dục chủ yếu là cung cấp
quan niệm hiện thực về tương lai của một nền giáo dục. Là một trong những căn
cứ cần thiết giúp chúng ta thoát khỏi tư duy kinh nghiệm, trực giác mơ hồ trong
việc xây dựng chiến lược, quy hoạch giáo dục đào tạo mà còn có ý nghĩa định
hướng phát triển giáo dục trong toàn bộ hệ thống dự báo kinh tế - xã hội của một
đất nước. Dự báo giáo dục là xác định trạng thái tương lai của hệ thống giáo dục
đào tạo với một xác xuất nào đó và dự kiến điều kiện khách quan để thực hiện.
1.2.1.3. Dự báo quy mô giáo dục đào tạo
Dự báo quy mô giáo dục đào tạo của một địa phương hay cả nước với
nhiệm vụ cơ bản là phải xác định được số lượng học sinh, sinh viên các ngành
học, bậc học, cấp học theo các hình thức học cho đến thời điểm dự báo để đáp
ứng nhu cầu học tập của người dân và phù hợp với các điều kiện đảm bảo của xã
hội cho giáo dục đào tạo. [8]
1.2.1.4. Vai trò dự báo trong quy hoạch phát triển giáo dục
Dự báo là yếu tố vốn có của con người, ngay từ lúc xuất hiện trên trái đất
con người phải dự báo để sinh tồn và phát triển. V.I.Lênin nói: Khi xem xét bất
cứ hiện tượng nào, trong sự vận động và phát triển của nó bao giờ cũng thấy có
những vết tích của quá khứ, những cơ sở của hiện tại và những mầm móng của
tương lai. Việc nghiên cứu để phát hiện ra quy luật của mối quan hệ biện chứng
giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chính là cơ sở khoa học của công tác dự báo.
Mục tiêu cuối cùng của công tác dự báo là phải thể hiện được một cách tổng
hợp các kết quả dự báo theo những phương án khác nhau, chỉ ra được xu thế phát
triển của đối tượng dự báo trong tương lai, tạo ra tiền đề cho việc quy hoạch, lập
kế hoạch có căn cứ khoa học. Đối với một dự báo cần có hai điểm cần được lưu

ý:


13
Một là: Mỗi dự báo phải là một giả thuyết nhiều phương án để chủ thể quản
lý lựa chọn.
Hai là: Mỗi dự báo không chỉ nêu đơn thuần giả thuyết có căn cứ về những
khả năng xảy ra trong tương lai, mà còn phải dự kiến được những khả năng, các
nguồn tiềm năng và biện pháp tổ chức cần thiết cho việc thực hiện giả thuyết
được nêu.
Vì vậy, dự báo và kế hoạch hoá là những yêu cầu quan trọng nhất của công
tác quản lý. Không có dự báo thì khó xác định phương hướng cho công tác quản
lý. Quản lý mà không theo kế hoạch thì chỉ là một hoạt động tuỳ tiện, không có
hiệu quả và dễ bị sai lầm.
Dự báo giáo dục là xác định trạng thái tương lai của hệ thống GD với một
xác suất nào đó. Dự báo GD có ý nghĩa định hướng, đặt cơ sở khoa học cho việc
xác định các phương hướng và mục tiêu lớn của GD - ĐT.
Trong thời đại văn minh hậu công nghiệp, vai trò của dự báo giáo dục lại
càng trở nên cực kỳ có ý nghĩa. Anvin Topler viết: “Nền giáo dục phải dịch
chuyển vào tương lai”, “Để giảm nhẹ bớt ảnh hưởng cuả cú sốc tương lai, chúng
ta phải bắt đầu bằng việc làm cho những suy đoán về tương lai phải được tôn
trọng", “Việc này được thực hiện bằng nhiều cách như khuyến khích mọi người
dự đoán những gì sẽ xảy ra” [1].
1.2.2 Quy hoạch, Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát
triển giáo dục, xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục
1.2.2.1 Quy hoạch
Trên thế giới, quy hoạch đó được nhiều nước khẳng định là có ý nghĩa quan
trọng cả trên hai bình diện lý luận và thực tiễn. Quy hoạch tạo ra những cơ sở
khoa học cho việc hoạch định các chính sách và xây dựng các chương trình phát
triển KT - XH cụ thể của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, có mỗi cách

xác định nội hàm về khái niệm này nên hiện có nhiều cách hiểu về quy hoạch:
+ Ở Anh, quy hoạch được hiểu là sự bố trí có trật tự, sự tiến hoá có kiểm
soát các đối tượng trong một khoảng không gian được xác định.
+ Ở Pháp, quy hoạch là dự báo phát triển và tổ chức thực hiện theo lãnh thổ.
+ Ở Trung Quốc, quy hoạch được hiểu là dự báo kế hoạch phát triển, là
chiến lược quyết định các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, từ đó
quyết định các mục tiêu mới và giải pháp mới.


14
+ Ở Hàn Quốc, quy hoạch được quan niệm là xây dựng chính sách phát
triển.
+ Ở Việt Nam theo Từ điển Tiếng Việt do Viện nghiên cứu Ngôn ngữ học
xuất bản năm 1998 thì: "Quy hoạch là sự bố trí, sắp xếp toàn bộ theo một trình tự
hợp lý trong thời gian làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn"[50].
Từ các khái niệm trên có thể hiểu quy hoạch là bước cụ thể hoá chiến lược ở
mức độ toàn hệ thống, đó là kế hoạch hành động mang tính tổng thể, thống nhất
với chiến lược về mục đích, yêu cầu và là căn cứ để xây dựng kế hoạch. Quy
hoạch có nhiệm vụ góp phần thực hiện đường lối chiến lược phát triển, tăng
cường cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc ra quyết định, hoạch định các chính
sách phục vụ cho việc xây dựng các kế hoạch; đồng thời làm nhiệm vụ điều
khiển, điều chỉnh trong công tác quản lý, chỉ đạo.
1.2.2.2 Phát triển
Thuật ngữ "phát triển" (development) xuất hiện từ những năm 60, với cách
hiểu đơn giản là phát triển kinh tế, sau đó khái niệm này được bổ sung thêm nội
hàm và ngày nay được hiểu một cách toàn diện hơn mang ý nghĩa phát triển bền
vững. Phát triển nhằm vào ba mục tiêu cơ bản: phát triển con người toàn diện, bảo
vệ môi trường, tạo ra hòa bình và ổn định chính trị.
Phát triển có điểm giống với tăng trưởng là đều cùng hàm chứa ý nghĩa về
sự tăng lên, đi lên. Song, phát triển khác với tăng trưởng ở chỗ: sự tăng trưởng

đơn thuần chưa phải là phát triển. Muốn có sự phát triển thì trong quá trình tăng
trưởng phải bảo đảm tính cân đối, tính hiệu quả và tính mục tiêu. Tăng trưởng
trước mắt phải đặt cơ sở cho tăng trưởng trong tương lai thì sự tăng trưởng đó
mới tạo điều kiện cho phát triển.
Sự phát triển giáo dục cũng chứa đựng các đặc thù tương tự. Tuy nhiên theo
cách trình bày ở trên thì sự phát triển giáo dục còn là phương tiện, điều kiện cho
sự phát triển nói chung. Sự phát triển giáo dục còn bao hàm cả ý nghĩa chính trị
và liên quan mật thiết với thể chế chính trị quốc gia.
1.2.2.3 Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
Bao gồm quy hoạch phát triển kinh tế xã hội cả nước, quy hoạch phát triển
các ngành, lĩnh vực và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội một địa bàn lãnh thổ.


15
Quy hoạch là bước cụ thể hoá của chiến lược, còn kế hoạch là bước cụ thể
hoá của quy hoạch. Mối quan hệ giữa chiến lược quy hoạch, kế hoạch được thể
hiện qua mô hình sau:
Chiến lược

Quy hoạch

Kế hoạch

Như vậy, chiến lược và quy hoạch là căn cứ, là tiền đề của kế hoạch. Chất
lượng kế hoạch có được nâng cao, phù hợp với yêu cầu phát triển KT - XH và
đảm bảo sự quản lý vĩ mô của nhà nước hay không chính là do khâu xây dựng
quy hoạch góp phần quyết định.
Giáo dục là ngành nằm trong hệ thống KT - XH. Quy hoạch phát triển giáo
dục thuộc loại quy hoạch phát triển ngành và lĩnh vực, là một bộ phận không thể
tách rời của quy hoạch phát triển KT - XH.

1.2.2.4 Quy hoạch phát triển giáo dục
Quy hoạch phát triển giáo dục là bản luận chứng khoa học về quan điểm,
mục tiêu, phương hướng, những giải pháp phát triển và phân bố hệ thống GD ĐT trong đó đặc biệt chỉ ra yêu cầu nâng cao chất lượng GD - ĐT, phát triển đội
ngũ cán bộ, lực lượng giáo viên và phân bố hệ thống GD - ĐT theo các bước đi và
không gian đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện con người và phát triển KT - XH
của đất nước. [7]
1.2.2.5 Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục
Từ quan điểm chung về quy hoạch phát triển KT-XH cho thấy quy hoạch
phát triển ngành GD thuộc loại quy hoạch phát triển các ngành và là bộ phận của
qui hoạch phát triển KT-XH nói chung. [8]
Trên cơ sở lý luận chung về xây dựng quy hoạch phát triển KT-XH, chúng ta
có thể hiểu xây dựng quy hoạch ngành GD là bản luận chứng khoa học về quá
trình phát triển của hệ thống GD trong thời kỳ quy hoạch. Trên cơ sở những đánh
giá thực trạng GD, phân tích được những điểm mạnh, điểm yếu, những cơ hội và
những nguy cơ, thách thức, quy hoạch phát triển GD phải xác định được nguồn
lực, từ đó đưa ra các quan điểm, mục tiêu phương hướng, những giải pháp phát
triển và phân bố toàn bộ hệ thống GD, trong đó đặc biệt chỉ ra yêu cầu về qui mô,
về nâng cao chất lượng GD, phát triển lực lượng GV, phân bổ theo bước đi và
không gian, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện con người và phù hợp với khả
năng, điều kiện cụ thể phát triển KT-XH của địa phương, cả nước.


16
1.2.3. Mối quan hệ giữa quy hoạch với dự báo
Dự báo là công cụ, phương tiện cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch.
Kết quả dự báo là cơ sở khoa học cho việc vạch ra những chiến lược phát triển.
Dự báo tập hợp những thông tin có cơ sở khoa học về các trạng thái khả dĩ
của đối tượng trong tương lai và dự kiến các con đường khác nhau để đạt tới trạng
thái tương lai ở các thời điểm khác nhau.
Như vậy, xét về mặt tính chất thì dự báo chính là khả năng nhìn trước được

tương lai, với mức độ tin cậy nhất định và trù tính được điều kiện khách quan để
thực hiện dự báo đó, dự báo là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng quy hoạch, khi
đó dự báo phải thiết lập được các phương án, xác định được xu hướng phát triển,
các mục tiêu có thể đạt được, từ đó để xây dụng quy hoạch. Ngược lại, quá trình
thực hiện quy hoạch phải luôn luôn xem xét sự cân đối giữa mục tiêu và nguồn
lực, sự đồng bộ giữa các nguồn lực khác nhau trong phạm vị không gian, thời
gian nhất định, nếu gặp những tác động có tính chất bất thường thỡ cần thiết phải
điều chỉnh dự báo.
Mối quan hệ giữa đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và dự báo
được biểu diễn theo sơ đồ 1.1.
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
dự báo
Đường lối

Chiến
lược

QUY HOẠCH

Kế hoạch

Dự báo
1.3. Quy hoạch phát triển giáo dục
1.3.1. Mục đích của quy hoạch phát triển GD - ĐT
Quy hoạch phát triển GD - ĐT nhằm tạo cơ sở khoa học để giúp các nhà
quản lý giáo dục hoạch định chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển cho từng
giai đoạn, từng khâu, từng bước; từng bước của bản thân ngành GD – ĐT cũng


17

như của các ngành và của các địa phương; tùng bước tạo thế chủ động trong điều
hành hệ thống giáo dục, tránh được sự lúng túng, bị động cho lĩnh vực có khả
năng giúp nền kinh tế của đất nước thực hiện chiến lược đi tắt, đón đầu.
1.3.2 Yêu cầu của quy hoạch phát triển GD - ĐT
- Quy hoạch phát triển GD - ĐT phải được xây dựng trên cơ sở cương lĩnh,
đường lối chiến lược phát triển KT - XH của quốc gia và đường lối, chiến lược,
định hướng phát triển GD - ĐT của Đảng và Nhà nước. Cụ thể là phải bám sát
"định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước" được đề cập trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII), kết luận Hội nghị Trung ương lần
thứ sáu khoá IX, và Nghị quyết Trung ương Đảng khóa XI [18].
- Quy hoạch giáo dục là một bộ phận không thể thiếu của quy hoạch kinh tế
- xã hội, chính vì thế, quy hoạch phải phối hợp với chiến lược phát triển giáo dục
đào tạo và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn lãnh thổ. Điều đó có
nghĩa là, nó phải gắn với quy hoạch dân cư, quy hoạch lao động, quy hoạch vùng
kinh tế. Nó phải phù hợp với quy mô, cơ cấu; kết hợp trước mắt và lâu dài có tính
toán lộ trình phát triển và phải xác định từ những vấn đề bức xúc, những trọng
điểm cần phải đầu tư và thứ tự cần ưu tiên; Phải đảm bảo sự tương thích với quy
hoạch các ngành khác, lấy các ngành khác làm cơ sở và cũng đồng thời là cơ sở
để quy hoạch các ngành, lĩnh vực khác.
- Quy hoạch phát triển GD - ĐT phải được xây dựng sao cho các hệ thống
con của hệ thống giáo dục được phát triển cân đối, đồng bộ với nhau, hỗ trợ và
thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo cho hệ thống giáo dục phát triển bền vững.
1.3.3. Nội dung của quy hoạch phát triển GD - ĐT
Nội dung chủ yếu của quy hoạch phát triển GDTH và THCS về cơ bản gồm
những thành phần sau:
* Đánh giá thực trạng hệ thống GDTH và THCS của địa phương
* Dự báo quy mô học sinh TH và THCS.
* Quy hoạch mạng lưới trường lớp
* Quy hoạch các điều kiện phục vụ yêu cầu phát triển trường lớp, gồm:

- Về đội ngũ giáo viên, nhân viên, cán bộ quản lý.
- Về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đáp ứng cho sự phát triển giáo dục.
* Đề xuất các biện pháp thực hiện quy hoạch được xây dựng


18
1.3.4. Quy hoạch phát triển giáo dục TH và THCS
Quy hoạch phát triển GDTH và THCS là một bộ phận của quy hoạch giáo
dục - đào tạo trên địa bàn, là bản luận chứng khoa học về dự báo phát triển và sắp
xếp, bố trí theo không gian và thời gian hệ thống này của địa phương.
1.4. Xây dựng quy hoạch phát triển giáo dục
1.4.1. Các bước xây dựng
Xây dựng quy hoạch phát triển GD - ĐT nói chung và quy hoạch phát triển
TH, THCS nói riêng cũng phải tuân thủ phương pháp luận xây dựng quy hoạch.
Việc xây dựng quy hoạch bao gồm những bước cơ bản sau:
Bước 1: Tổng hợp quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước, của địa
phương về phát triển KT - XH trong đó có phát triển GD - ĐT nói chung, giáo
dục tiểu học THCS nói riêng.
Bước 2: Phân tích, đánh giá thực trạng để làm rõ về thời gian, không gian
các sự kiện; phát hiện mâu thuẫn giữa các sự việc, hiện tượng. Qua việc phân tích
thực trạng, dự báo trạng thái tương lai của GD - ĐT, của giáo dục tiểu học,
THCS.
Bước 3: Phát hiện xu thế, tìm ra quy luật và sự vận động có tính quy luật của
sự phát triển các yếu tố bên trong của GD - ĐT nói chung, giáo dục tiểu học,
THCS nói riêng; dự báo phương án và định lượng các chỉ tiêu phát triển.
Bước 4: Đề ra các giải pháp thực hiện, gồm:
- Giải pháp giải quyết sự cân đối giữa các yếu tố cho sự phát triển.
- Các giải pháp chỉ đạo, quản lý
- Khuyến nghị các cấp quản lý về chính sách, chế độ, giải pháp đối với sự
phát triển của giáo dục TH, THCS.

1.4.2. Các phương pháp xây dựng [7] [8] [24]
* Phương pháp chuyên gia
Đây là phương pháp sử dụng sự hiểu biết, kinh nghiệm của các chuyên gia
có trình độ để dự báo sự phát triển của đối tượng nghiên cứu. Qua một số vòng
hỏi và xử lý ý kiến của các chuyên gia, từng bước hướng các chuyên gia đi đến
kết luận chính xác dần đối tượng dự báo. Phương pháp này thường được sử dụng
trong các trường hợp sau:
- Khi đối tượng dự báo có tầm bao quát nhất định, phụ thuộc nhiều yếu tố
còn chưa có hoặc còn thiếu những cơ sở lý luận chắc chắn để xác định.


19
- Trong những điều kiện thiếu thông tin hoặc thông tin chưa đáng tin cậy về
đặc tính của đối tượng dự báo.
- Trong điều kiện có độ bất định lớn về chức năng của đối tượng dự báo.
- Trong điều kiện thiếu thời gian hoặc do hoàn cảnh cấp bách của việc dự báo.
Quá trình sử dụng phương pháp này có thể chia thành các giai đoạn sau:
- Chọn các chuyên gia để hỏi ý kiến.
- Xây dựng các câu hỏi xin ý kiến chuyên gia
- Xây dựng các phiếu câu hỏi và bản ghi kết quả xử lý các ý kiến của các
chuyên gia.
- Làm việc với một số chuyên gia
- Phân tích và xử lý kết quả dự báo thu được ở vòng 1.
- Tổng hợp và lựa chọn kết quả dự báo sau một số vòng hỏi cần thiết.
Việc tiến hành dự báo theo phương pháp chuyên gia cần tuân thủ các nguyên
tắc sau:
- Các đánh giá phải do các chuyên gia am hiểu về lĩnh vực cần dự báo đưa ra
theo một quy trình có tính hệ thống để có thể tổng hợp được.
- Để có được ý kiến đánh giá của chuyên gia một cách có hệ thống cần giúp
họ hiểu rõ ràng mục đích và nhiệm vụ phải làm.

- Nhóm điều hành dự báo cần phải thống nhất và nắm vững hệ thống các
phương pháp tiến hành cụ thể từ khâu đầu đến khâu cuối của công tác dự báo.
Tuỳ theo hình thức thu thập và xử lý ý kiến chuyên gia, phương pháp chuyên
gia được thông qua hai hình thức: hội đồng (lấy ý kiến tập thể các chuyên gia) và
phương pháp DELPHI (lấy ý kiến của từng chuyên gia rồi tổng hợp lại).
* Phương pháp ngoại suy xu thế:
Phương pháp ngoại suy xu thế còn gọi là ngoại suy theo dãy thời gian. Nội
dung của phương pháp này là dựa vào các số liệu thu thập được trong quá khứ của
đối tượng dự báo để thiết lập mối quan hệ giữa đại lượng đặc trưng cho đối tượng dự
báo và đại lượng thời gian. Mối quan hệ đó được đặc trưng bởi hàm xu thế: y=f(t)
Trong đó:
* y đại lượng đặc trưng cho đối tượng dự báo
* t là đại lượng đặc trưng cho thời gian
Để thực hiện phương pháp ngoại suy phải tuân theo những bước sau:


20
- Thu thập và phân tích số liệu ban đầu của đối tượng dự báo trong một
khoảng thời gian nhất định.
- Định dạng hàm xu thế dựa trên quy luật phân bố các đại lượng của đối
tượng dự báo trong thời gian quan sát.
- Tính toán thông số của hàm xu thế và tính giá trị ngoại suy.
- Định giá trị độ tin cậy của dự báo.
* Phương pháp sơ đồ luồng: Là phương pháp thông dụng để dự báo quy mô
học sinh. Phương pháp này có thể cho phép ta tính toán "luồng" học sinh suốt cả
hệ thống giáo dục phổ thông, nhất là ở các cấp học phổ cập như tiểu học và
THCS. Phương pháp sơ đồ luồng dựa vào 3 tỉ lệ quan trọng:
- Tỉ lệ học sinh lên lớp P
- Tỉ lệ học sinh lưu ban R
- Tỉ lệ học sinh bỏ học D

Sơ đồ luồng được hình dung như sau:
Số HS
nhập học
đầu cấp

Số HS
lớp 1

Số HS
lớp 2

Số HS
lớp 3

Số
HSlớp 4

T1

N1

E1.1

E2.1

E3.1

E4.1

E5.1


T2

N2

E1.2

E2.2

E3.2

E4.2

E5.2

T3

N3

E1.3

E2.3

E3.3

E4.3

E5.3

Năm học


Số HS
lớp 5

Theo sơ đồ trên thì số lượng học sinh lớp 1 ở năm học T 2 sẽ được tính bằng công
thức sau:
E1.2 = N2 + (E1.1 x R1.1)
Trong đó:
- E1.2 là số học sinh lớp 1 ở năm học thứ T2
- N2 là số lượng học sinh nhập học vào lớp 1 ở năm học thứ T2
- E1.1 là số học sinh lớp 1 ở năm học thứ T1
- R1.1 là tỉ lệ lưu ban của lớp 1 ở năm thứ T1
Cũng theo sơ đồ trên số lượng học sinh lớp 2 ở năm học thứ T 2 sẽ được tính
theo công thức:


21
E2.2 = (E1.1 x P1.1) + (E2.1 x R2.1)
Tương tự như thế ta có thể tính được số lượng học sinh cho các lớp 3, 4, 5
… ở năm học T2 hoặc tính cho học sinh lớp n ở năm học thứ Tn.
Dùng mô hình sơ đồ luồng để dự báo ta thấy:
- Phương pháp này có thể áp dụng để dự báo một cách khá chính xác quy mô
học sinh phổ thông.
- Để dự báo được chính xác, phải nắm chắc các chỉ số:
+ Dân số trong độ tuổi nhập học trong kỳ dự báo
+ Tỉ lệ nhập học tương lai
+ Tỉ lệ lên lớp, lưu ban, chuyển cấp trong tương lai.
* Phương pháp so sánh (so sánh trong nước và ngoài nước)
Phương pháp nghiên cứu về sự phát triển giáo dục của các địa phương, các
khu vực trong nước và giữa các nước khác nhau, trên cơ sở đó giúp các nhà hoạch

định chính sách, các nhà quản lý so sánh, phân tích và đánh giá từ đó lựa chọn
con đường phát triển giáo dục của địa phương mình, nước mình.
* Phương pháp dựa vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội địa phương:
Cơ sở khoa học của phương pháp này là dựa vào dự báo các nhân tố ảnh
hưởng tới quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cụ thể là:
- Dự báo xu thế đô thị hoá, công nghiệp hoá của địa phương
- Dự báo tiến bộ của khoa học công nghệ
- Dự báo dân số và nguồn lao động
+ Dự báo về khả năng đầu tư khai thác nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
+ Dự báo nhu cầu thị trường
Phương pháp này thường cho kết quả tương đối phù hợp, bởi nó được đảm
bảo bằng các nghị quyết, chương trình, mục tiêu và hệ thống các giải pháp thực
hiện tổng thể. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi phải có sự tính toàn chính xác
khi đưa ra các chỉ số dự báo, đặc biệt đưa ra các chỉ số dự báo về quy hoạch phát
triển giáo dục đào tạo để vừa đảm bảo đúng thực tế, vừa có tính khả thi cao.
* Phương pháp sử dụng phần mềm của Bộ GD & ĐT:
Đây là một phương pháp thông dụng để dự báo số lượng học sinh, là một
phần mềm đã lập trình sẵn, nó có thể cho phép tính toán luồng học sinh trong suốt
cả hệ thống giáo dục đào tạo. Phương pháp này dựa vào các chỉ số tỉ lệ: Tỷ lệ học


22
sinh vào lớp đầu cấp; tỷ lệ lên lớp, tỷ lệ lưu ban, tỷ lệ bỏ học và tỷ lệ học sinh
hoàn thành chương trình tiểu học và tốt nghiệp THCS.
Phương pháp này dựa trên cơ sở các số liệu: Số trẻ 6 tuổi vào lớp 1; dân sè
độ tuổi học sinh tiểu học và dân số độ tuổi học sinh THCS.
Dựa vào chỉ tiêu cơ bản theo định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào
tạo đến năm 2010:
- Tỷ lệ học sinh tiểu học/dân số độ tuổi (6 đến 10 tuổi)
- Tỷ lệ học sinh THCS /dân số độ tuổi (11 đến 14 tuổi)

- Tỷ lệ học sinh chuyển cấp từ tiểu học lên THCS
- Tỷ lệ số lớp/số phòng học của tiểu học và THCS
- Tỷ lệ giáo viên /lớp của tiểu học 1,5 gv/lớp và THCS là 1,85 gv/lớp
Với nguyên tắc lấy số liệu năm 2015 làm gốc căn cứ vào các chỉ số trên,
chương trình phần mềm của Bộ GD & ĐT sẽ xác định dự báo các chỉ số tương
ứng của từng năm cho tới năm 2020. Trong đó có học sinh lớp T + 1 năm học
n+1, được xác định căn cứ vào số học sinh lớp T và T+1 ở năm học n với các tỷ lệ
lên lớp, lưu ban đã được xác định của năm học n theo:
Số học
Số học
Tỷ lệ lên
Số học
Tỷ lệ lưu ban
sinh
sinh
lớp
sinh
Lớp T +1 =
Lớp T
x
Lớp T
+ Lớp T + 1 x Lớp T + 1
năm = n+1

năm n

năm n

năm n


năm n

Như vậy ta có thể tính được số lượng học sinh lớp 1,2,3,4,5,6,7,8,9 ở các năm
học tiếp theo trong thời kỳ dự báo. Và như vậy, chúng ta có thể xác định được nhu
cầu về số lớp, số phòng học, số chỗ ngồi và số giáo viên cần thiết cũng như các
điều kiện đảm bảo khác phục vụ cho việc dạy và học cho từng đơn vị [7] [8].
1.4.3. Mục đích yêu cầu của quy hoạch phát triển giáo dục - đào tạo nói
chung và quy hoạch giáo dục TH, THCS nói riêng
Mục đích cơ bản của quy hoạch ngành GD - ĐT nói chung và giáo dục tiểu
học, THCS nói riêng nhằm xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chủ
trương kế hoạch phát triển của ngành cũng như của các ngành khác trong địa
phương, phục vụ cho việc xây dựng các chương trình kế hoạch, đầu tư phát triển
dài hạn, trung hạn và hàng năm.
Quy hoạch phát triển và phân bố ngành GD - ĐT nói chung và giáo dục tiểu
học, THCS nói riêng phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản sau:


23
- Phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển của cả nước và của địa
phương.
- Phù hợp với quy mô, cơ cấu và phân bố dân cư.
- Kết hợp trước mắt và lâu dài, có tính toán bước đi cụ thể, xác định rõ
những vấn đề bức xúc, trọng điểm đầu tư, thứ tự ưu tiên …
- Xử lý tốt mối quan hệ với các ngành, các lĩnh vực khác. Xác định cơ chế
quản lý và cơ chế hoạt động để đảm bảo hiệu quả và công bằng xã hội.
1.4.4. Vị trí và mối quan hệ giữa quy hoạch giáo dục - đào tạo với các ngành,
lĩnh vực khác của quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương
- Quy hoạch phát triển và phân bố ngành GD - ĐT của địa phương là một bộ
phận hữu cơ của quy hoạch kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ, do đó cần có sự
phối hợp chặt chẽ để xử lý tốt những vấn đề liên ngành, liên vùng …

- Quy hoạch phát triển GD - ĐT làm cơ sở cho các quy hoạch ngành như
ngành địa chính, ngành xây dựng, ngành bảo hiểm, các ngành sản xuất, dịch vụ
khác.
- Quy hoạch phát triển GD - ĐT dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các
quy hoạch ngành khác như kết quả dự báo dân số, phân bố dân cư, nguồn nhân
lực, quy mô phát triển và phân bố các ngành sản xuất để xác định nhu cầu đào tạo
lao động kỹ thuật.
1.4.5. Cấu trúc một văn bản quy hoạch phát triển giáo dục
Một bản quy hoạch phát triển giáo dục gồm những phần chính sau đây:
1.4.5.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến phát triển giáo dục
* Đặc điểm địa lý tự nhiên
* Quy mô cơ cấu tuổi và đặc điểm phân bố dân cư.
* Trình độ phát triển KT - XH và phát triển khoa học - công nghệ
* Các nhân tố tâm lý xã hội và truyền thống.
1.4.5.2 Thực trạng phát triển và phân bố hệ thống giáo dục - đào tạo của địa
phương
* Phân tích, đánh giá các chủ trương, chính sách phát triển GD - ĐT của địa
phương.
* Phân tích thực trạng quy mô phát triển GD - ĐT của địa phương trong 10
năm gần đây (số lượng học sinh, số lớp; số lượng giáo viên, nhân viên, quản lý;
CSVC, trang thiết bị; tài chính cho GD - ĐT).


24
* Phân tích chất lượng và hiệu quả GD - ĐT (hiệu quả trong, hiệu quả
ngoài).
* Những thành tựu yếu kém, nguyên nhân cơ bản.
1.4.5.3 Phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo của địa phương
* Bối cảnh phát triển GD - ĐT: bối cảnh quốc tế, bối cảnh trong nước, các
quan điểm phát triển GD - ĐT của quốc gia, của địa phương.

* Dự báo quy mô phát triển GD - ĐT các giai đoạn: Quy mô học sinh, giáo
viên, nhân viên, cán bộ quản lý, mạng lưới trường lớp.
1.4.5.4. Các giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo của địa phương
* Huy động nguồn nhân lực: Đội ngũ, tài chính, cơ sở vật chất trang thiết bị
dạy học ...
* Tổ chức và quản lý giáo dục
* Chính sách cho giáo dục đào tạo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
địa phương.
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng quy hoạch phát triển giáo
dục Tiểu học và THCS
Giáo dục và Đào tạo nói chung, giáo dục TH, THCS nói riêng là phân hệ
trong hệ thống KT-XH, trong quá trình phát triển chịu ảnh hưởng và phụ thuộc
vào nhiều nhân tố khác nhau như: Dân số và dân số trong độ tuổi đến trường;
trình độ phát triển sản xuất; khả năng nguồn lao động; thu nhập quốc dân; cấu
trúc xã hội; trình độ phát triển văn hoá, kết cấu và cơ cấu kinh tế.
Tuy nhiên, giáo dục tiểu học, THCS vẫn có vị trí độc lập tương đối với sự
phát triển kinh tế, trong đó các đặc trưng sư phạm như: Cơ cấu hệ thống, nội dung
hình thức tổ chức giáo dục, CSVC, và các điều kiện giáo dục, đội ngũ giáo viên.
Nếu các yếu tố bên trong của giáo dục tiểu học, THCS được phát huy tốt sẽ có tác
động tốt góp phần thúc đẩy các nhân tố tích cực và hạn chế những diễn biến tiêu
cực của kinh tế - xã hội.
Vì vậy, để thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển giáo dục tiểu học,
THCS một mặt cần phải làm sáng tỏ những đặc trưng sư phạm của hệ thống TH,
THCS hiện nay và một mặt khác phải làm sáng tỏ những đặc trưng KT - XH của
mô hình xuất phát.
1.5.1. Dân số và dân số trong độ tuổi đến trường


25
Giáo dục tiểu học và THCS là các cấp học phổ cập nên chịu sự ảnh hưởng

trực tiếp, to lớn của dân số và dân số trong độ tuổi đến trường. Mức tăng, giảm
dân số, tỉ suất sinh, sự di dân, cơ cấu nam - nữ, thành phần dân tộc của dân số và
sự phân bố dân số ở thành thị, nông thôn...đều ảnh hưởng tới dân số học đường.
1.5.2. Quy mô học sinh
Học sinh là nhân vật trung tâm của trường học, là lý do để nhà trường tồn tại.
Quy mô học sinh lớn, nhỏ, tăng hay giảm đều ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch
giáo dục. Quy mô học sinh cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để xác
định quy mô trường lớp, làm cơ sở để phân hạng trường, để hoạch định diện tích
đất cần có, để tính biên chế giáo viên, nhân viên.
1.5.3. Cơ sở vật chất và trường lớp
Từ khi nhà giáo dục vĩ đại Kômenxki đề xuất mô hình trường lớp tập trung,
CSVC trường, lớp trở thành một bộ phận không thể thiếu của hệ thống giáo dục;
là một trong những điều kiện tiên quyết để hệ thống giáo dục hoạt động; đồng
thời, phải được xây dựng, củng cố và phát triển liên tục để đáp ứng cho sự phát
triển, đổi mới của hệ thống giáo dục.
1.5.4. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trường học
Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trường học vừa là lực lượng
thực thi quy hoạch, vừa là lực lượng nòng cốt quyết định chất lượng của quá trình
giáo dục. Đội ngũ CBQL, GV, NV đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có tay
nghề vững vàng sẽ góp phần tạo nên chất lượng giáo dục tốt.
1.5.5. Thu nhập quốc dân và đầu tư cho giáo dục TH, THCS
Nhóm nhân tố này có ảnh hưởng cơ bản và trực tiếp quy mô phát triển giáo
dục tiểu học và THCS. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và GNP bình quân đầu
người cao sẽ tạo điều kiện cho việc đầu tư cho GDĐT, làm công tác phổ cập
GDTH và THCS được tiến hành thuận lợi, tạo tiền đề cho phổ cập giáo dục bậc
trung học trong những năm tiếp theo. Nguồn ngân sách nhà nước chi cho giáo dục
chiếm tỉ lệ cao trong ngân sách nhà nước và ngày càng tăng lên qua các năm sẽ
tạo điều kiện để giáo dục phát triển nhanh và bền vững.
1.5.6 Nhóm nhân tố chính trị, kinh tế
Mục tiêu phát triển GD-ĐT bao giờ cũng phải phù hợp với quan điểm và

mục tiêu phát triển KT-XH của Đảng và Nhà nước. Vì quyền lợi trước mắt và lâu
dài của nhà nước, bất kỳ nhà nước nào cũng phải chăm lo việc tổ chức hoạt động


×