BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------------&-----------------
DƯƠNG VĂN THẬT
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP ĐIỆN HỌC
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VẬT LÍ 9 TRUNG HỌC CƠ SỞ
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGHỆ AN - NĂM 2012
1
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------------&-----------------
DƯƠNG VĂN THẬT
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP ĐIỆN HỌC
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI VẬT LÍ 9 TRUNG HỌC CƠ SỞ
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LL&PPDH BM VẬT LÍ
MÃ SỐ: 601410
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM THỊ PHÚ
NGHỆ AN - NĂM 2012
2
LỜI CẢM ƠN
1)
Trước hết tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đối với
Cô giáo PGS.TS Phạm Thị Phú người đã định hướng đề tài, trực tiếp hướng dẫn
tác giả thực hiện đề tài, hoàn thành luận văn.
Tác giả xin cảm ơn Ban giám hiệu trường ĐH Vinh và ĐH Đồng Tháp,
Phòng đào tạo Sau đại học trường ĐH Vinh và Phòng Quản lý khoa học – Sau
ĐH trường ĐH Đồng Tháp, khoa Vật lý trường ĐH Vinh đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tác giả hoàn thành khóa học.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Trường THCS Tân Mỹ – huyện Lấp Vò – tỉnh
Đồng Tháp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và
thực nghiệm sư phạm đề tài.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình người thân đã
động viên, chia sẻ những khó khăn cùng tác giả trong quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học.
Trân trọng!
Tác giả
Dương Văn Thật
3
MỤC LỤC
Mở đầu
Phụ lục 1b. Đề thi HSG cấp Phòng GD Lấp Vò...............................................PL3
Phụ lục 1c. Đề thi HSG cấp Tỉnh Đồng Tháp.................................................. PL9
Phụ lục 2. Phụ lục giáo án 3,5,6....................................................................PL13
Phụ lục 3a. Kết quả kỳ thi HSG cấp Huyện năm 2011 - 2012.........................PL23
Phụ lục 3b. Kết quả kỳ thi HSG cấp Tỉnh năm 2011 - 2012............................PL24
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Cụm từ-Kí hiệu
BT
BTVL
CĐSP
Thuật ngữ
Bài tập
Bài tập Vật lí
Cao đẳng Sư phạm
4
CĐDĐ
CH
Đtr
ĐH
GV
HĐ
HĐT
HS
HSG
Nt
NXB
SGK
SBT
THCS
THPT
TNKQ
TNSP
TPHCM
//
Cường độ dòng điện
Câu hỏi
Điện trở
Đại học
Giáo viên
Hoạt động
Hiệu điện thế
Học sinh
Học sinh giỏi
Nối tiếp
Nhà xuất bản
Sách giáo khoa
Sách bài tập
Trung học cơ sở
Trung học phổ thong
Trắc nghiệm khách quan
Thực nghiệm Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh
Song song
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Luật giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ về phương
pháp giáo dục phổ thông như sau: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm từng
lớp học, từng môn học, bồi dưỡng năng lực tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho HS”.
Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Mọi ngành nghề đều có những bước thay đổi đáng kể, trong đó sự thay đổi trong
ngành giáo dục là rất quan trọng vì nó sẽ đào tạo cho đất nước những con người có đủ
5
kiến thức, kỹ năng, năng lực sáng tạo, trí tuệ và phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng được
yêu cầu của nền kinh tế tri thức.
Trong đó khâu quan trọng không kém để góp phần phát triển tư duy, rèn cho HS có
kỹ năng, năng lực sáng tạo và góp phần đào tạo nhân tài và nguồn nhân lực trong bộ
môn Vật lí là Bồi dưỡng HSG Vật lí. Đặc thù của chương trình Vật lí THCS nói chung
và Vật lí 9 nói riêng là các tiết BT rất hạn chế, cụ thể theo phân phối chương trình
hiện hành của Sở giáo dục tỉnh Đồng Tháp thì tổng cộng số tiết BT chỉ có 6/74 tiết và
số tiết ôn tập là 6/74 (trong ôn tập có giải BT). Nhưng trên thực tế thì lượng BT trong
chương Điện học Vật lí 9 là rất nhiều, trong đó một phần không nhỏ là BT lồng ghép
chung trong các bài học (BT thể hiện trong nội dung của các câu C). Vì nhiều lý do
chủ quan và khách quan nên thực tế phần lớn là GV chỉ chú trọng đến việc dạy để
hoàn thành nội dung kiến thức của bài học, chứ chưa quan tâm nhiều đến việc rèn kỹ
năng giải BT cho HS; nếu có quan tâm thì không đủ thời gian để làm việc đó, vì thực
tế thì nội dung và kiến thức ở các bài học là rất nhiều, vì vậy trong 45 phút GV hoàn
thành và triển khai bài bản đầy đủ hết nội dung của bài học cho HS tiếp nhận một cách
dễ hiểu và khắc sâu kiến thức được trong não của các em là cả một sự phấn đấu và nỗ
lực rất lớn của GV đứng lớp.
Vả lại việc phân bổ tiết bồi dưỡng riêng cho đội ngũ HSG tham gia kỳ thi HSG cấp
huyện, tỉnh do Phòng – Sở giáo dục tổ chức thi hàng năm lại rất hạn hẹp (30 tiết/cấp).
Mặt khác là dù thời lượng tiết BT – bồi dưỡng riêng cho đội tuyển HSG tham dự các
kỳ thi HSG các cấp không nhiều nhưng khi ra đề thi HSG thì BT lại chiếm một trọng
số điểm gần 100%.
Thực tế dạy học cho thấy HS giải BT Vật lí một cách hình thức, không cần tìm toài,
khám phá cái hay, cái mới lạ trong Vật lí mà chỉ cần tìm đáp số, không cần hiểu bản
chất Vật lí; việc toán học hoá BT Vật lí đã làm cho Vật lí trở nên một môn học kém
hấp dẫn và là môn học khó đối với HS, vậy ngày càng hiếm HS yêu thích môn Vật lí,
tình nguyện tham dự đội tuyển HSG Vật lí được tổ chức hàng năm tại các Phòng và
Sở giáo dục đào tạo.
Chính vì những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: Xây dựng và sử dụng hệ thống
BT Điện học bồi dưỡng HSG Vật lí 9 THCS.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
6
Xây dựng và sử dụng hệ thống BT Điện học dùng cho bồi dưỡng HSG Vật lí lớp 9
THCS nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát triển tư duy và bồi dưỡng niềm yêu
thích Vật lí học cho HS.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
+ Đối tượng:
- HS Khá - Giỏi Vật lí THCS
- Dạy học BT Vật lí ở trường THCS
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Lý thuyết và BT Chương Điện học Vật lí lớp 9 THCS
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu xây dựng được hệ thống BT luyện tập và sáng tạo đa dạng có nội dung giáo
khoa, nội dung thực tế, nội dung kỹ thuật và sử dụng hợp lý cho bồi dưỡng HS Khá Giỏi thì sẽ nâng cao được kiến thức kỹ năng, bồi dưỡng tư duy và niềm yêu thích Vật
lí học cho HS.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Cơ sở lý luận về dạy học phân hoá, bồi dưỡng HSG, HS năng khiếu;
5.2. Tìm hiểu thực trạng bồi dưỡng HSG THCS tỉnh Đồng Tháp, một số trường
THCS huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp: tài liệu bồi dưỡng, đề thi chọn HSG cấp
Trường, cấp Phòng, cấp Tỉnh, thực trạng dạy và học bồi dưỡng HSG;
5.3. Cơ sở lý luận về dạy học BT Vật lí;
5.4. Đề xuất các tiêu chí BT bồi dưỡng HSG;
5.5. Xây dựng hệ thống BT luyện tập và BT sáng tạo chương Điện học 9 dùng cho
bồi dưỡng HSG;
5.6. Xây dựng các phương án giảng dạy hệ thống BT đã xây dựng để bồi dưỡng
HSG Vật lí lớp 9;
5.7. Thực nghiệm sư phạm.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7
- Phương nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp điều tra, tổng hợp, so sánh.
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm dạy học (BT Vật lí)
7. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Đề xuất các tiêu chí BT bồi dưỡng HSG.
- Xây dựng được hệ thống 20 BT luyện tập – nâng cao và 10 BT sáng tạo chương
Điện học lớp 9 đa dạng có nội dung giáo khoa, nội dung thực tế, nội dung kỹ thuật để
bồi dưỡng HSG lớp 9.
- Đề xuất các phương án sử dụng hệ thống BT đã xây dựng để phát hiện và bồi
dưỡng: Bài học luyện tập giải BT trên lớp, tự học cá nhân, giải BT theo nhóm, lập đề
thi tuyển chọn HSG Vật lí THCS.
- Thiết kế giáo án dạy học sử dụng các BT đã xây dựng để bồi dưỡng HSG.
- Kết quả đã bồi dưỡng đội tuyển HSG Vật lí lớp 9 trường THCS Tân Mỹ – Lấp Vò
gồm 05 em, đạt giải cấp Huyện 05 em và đạt giải cấp tỉnh 03 em trong kỳ thi tuyển
chọn HSG cấp Huyện, cấp Tỉnh lớp 9 năm học 2011 – 2012 (Phụ lục 3a, 3b)
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Mở đầu
Nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn sử dụng BT bồi dưỡng HSG Vật lí (22 trang)
Chương 2. Xây dựng và sử dụng hệ thống BT chương Điện học 9 dùng cho bồi
dưỡng HSG Vật lí trường THCS (45 trang)
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm (14 trang)
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục (24 trang)
8
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG BÀI TẬP
BỒI DƯỠNG HSG VẬT LÍ
1.1. Vấn đề bồi dưỡng nhân tài trong mục tiêu giáo dục nước ta
Văn bia thời Lê Thánh Tông, năm 1442: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia..., vì
vậy các bậc thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén
chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí là việc đầu tiên”.[23;54]
Mục tiêu đào tạo nhân tài có thể nêu lên một số điểm chính sau đây [25]:
- Phát triển phương pháp suy nghĩ ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ của
trẻ.
- Bồi dưỡng sự lao động, làm việc sáng tạo.
- Phát triển các kĩ năng, phương pháp và thái độ tự học suốt đời.
- Nâng cao ý thức và khát vọng của trẻ về sự tự chịu trách nhiệm.
- Khuyến khích sự phát triển về lương tâm và ý thức trách nhiệm trong đóng góp xã
hội.
- Phát triển phẩm chất lãnh đạo.
9
Đặc trưng của con người là hoạt động có ý thức. Năng suất lao động của mỗi người
phụ thuộc rất nhiều vào tri thức của người đó. Nhà khoa học giỏi có thể phát minh
những máy móc, quy trình, phương pháp giúp cho năng suất lao động tăng lên hàng
chục, hàng trăm, hàng nghìn lần.
Nhà quản lý hay chính trị gia giỏi có thể tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh của hàng
trăm, hàng triệu người. Vì vậy, nhân tài có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc
xây dựng xã hội văn minh. Những nước văn minh đều quan tâm bồi dưỡng chiêu mộ,
tập hợp và sử dụng nhân tài [25].
Đảng ta quan niệm “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” và rất coi trọng việc bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước.
Bộ giáo dục và Đào tạo cũng có những chủ trương mới về công tác bồi dưỡng HSG.
Đó là tiếp tục chú trọng xây dựng hệ thống các trường chuyên một cách hoàn thiện
hơn, khuyến khích và tôn vinh các HS xuất sắc đạt thành tích cao. Vận dụng cách dạy
học phân hóa vào bồi dưỡng HSG: Các trường chuyên có thể xây dựng phân phối
chương trình riêng phù hợp với khả năng tiếp thu của HS. Các em HS có năng khiếu
có thể được học với chương trình có tốc độ cao hơn HS bình thường...[25]
Còn ở các trường THCS thì có truyền thống coi trọng công tác bồi dưỡng HSG để
tham dự các kỳ thi HSG cấp huyện, tỉnh là công tác mũi nhọn. Nó có tác dụng thiết
thực và mạnh mẽ trong việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của đội ngũ thầy cô giáo, nâng cao chất lượng giáo dục, khẳng định thương hiệu của
nhà trường, tạo ra khí thế hăng say vươn lên học tập giành đỉnh cao trong HS. [25]
1.2. Khái niệm HSG Vật lí, HS năng khiếu Vật lí
1.2.1. HSG Vật lí
Theo Phạm Thị Phú: HSG toàn diện: Theo cách phân loại cuả nhà trường nước ta
dựa vào điểm số, thang điểm 10, HS có điểm trung bình chung học tập đạt từ 8,0 và
một trong hai môn Văn hoặc Toán phải đạt 8,0 và không có môn nào dưới 6,5 là HS
giỏi toàn diện; HSG được công nhận qua các kỳ thi HSG các cấp môn học đó. HSG
Vật lí lớp 9 cấp huyện phải trải qua kỳ thi tuyển chọn cấp Huyện, thí sinh dự thi đạt
10/20 (thang điểm 20) thì đạt giải thấp nhất (Khuyến khích), điểm càng cao giải càng
cao. HS THCS thì đạt danh hiệu HSG cấp Huyện và cao nhất là HSG cấp Tỉnh. Ở
trường THPT thì có các danh hiệu HSG cấp Tỉnh, cấp Quốc gia, khu vực và Quốc tế.
Từ đó có thể định nghĩa HSG Vật lí là HS đạt điểm cao trong các kỳ thi chọn HSG
10
cấp môn Vật lí. HSG cấp nào thì phải đạt điểm cao trong kỳ thi cấp đó, cấp càng cao
thì đề thi càng khó, HS càng phải giỏi. HS muốn đạt danh hiệu HSG thường phải qua
các đợt bồi dưỡng luyện tập vừa để nâng cao kiến thức vừa rèn luyện kỹ năng và phát
triển năng lực tư duy.
* Những dấu hiệu của HSG Vật lí:
- Luôn thích học giờ Vật lí, tìm toài, khám phá, thích giải những BT Vật lí khó, tự
nghiên cứu và tự giải các BT khó.
- Luôn tự đặt ra câu hỏi và tìm câu trả lời cho các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên.
- Luôn tìm và đặt ra câu hỏi mới lạ cho GV giải đáp.
1.2.2. HS năng khiếu Vật lí
Theo tâm lí học: Năng khiếu là dấu hiệu biểu hiện sớm của trẻ em về một tài năng
nào đó khi đứa trẻ chưa tiếp xúc với hệ thống, có tổ chức trong HĐ tương ứng. Năng
khiếu là mầm móng của tài năng về sau của một con người. Khái niệm mầm móng
mang trong nó hai khái niệm đặc trưng: [23; 54]
- Chỉ cái gì đó còn ở trạng thái khả năng chứ chưa thành hiện thực
- Chỉ cái gì đó chưa phát triển đầy đủ còn ở giai đoạn phôi thai. Chính vì thế năng
khiếu không phải là tài năng mà chỉ là dấu hiệu tài năng.
Các tiêu chí để phát hiện HS có năng khiếu về Vật lí: [23; 54]
- Trắc nghiệm chỉ số IQ ở mức độ cao
- Có tư duy logic tốt trong HĐ Vật lí, thể hiện năng lực vận hành các thao tác tư
duy chính xác, nhanh và bộc lộ nhũng ưu điểm về phẩm chất tư duy.
- Bộc lộ những đặc trưng của năng lực HĐ sáng tạo: đề xuất các phương án hay,
mới lạ, lập luận logic ở mức độ cao.
- HS có hứng thú, yêu thích môn học. Có khả năng tập trung say sưa với HĐ học,
có tính bền bỉ và ổn định trong các giờ lí thuyết cũng như thực hành. HS nghiêm túc
thực hiện các nhiệm vụ mà GV giao cho, các nhiệm vụ đạt hiệu quả tốt. Kết quả học
tập lý thuyết và thực hành có điểm số cao nhất so với HS cùng lớp.
- Dựa vào kết quả thi HSG Vật lí theo khối lớp, cấp trường, cấp huyện và cấp tỉnh.
HS có năng khiếu Vật lí thể hiện qua 3 mặt: [23; 55]
+ Năng lực khái quát quá các quan sát riêng lẻ để đề xuất mô hình Vật lí (năng lực
lí thuyết)
+ Năng lực tổ chức và tiến hành thí nghiệm để phát hiện và kiểm tra, đề xuất các
hiệu ứng Vật lí vào kĩ thuật (năng lực thực nghiệm)
11
+ Năng lực tính toán, xử lí số liệu để suy ra kết quả từ mô hình Vật lí (năng lực tính
toán).
1.3. Bồi dưỡng HSG - một hình thức dạy học phân hoá
Theo Nguyễn Bá Kim có thể tóm tắt như sau: “Dạy học phân hóa xuất phát từ sự
biện chứng của thống nhất và phân hóa, từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả các
mục tiêu dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng
của từng cá nhân” [25]
Việc kết hợp giữa giáo dục diện “đại trà” với giáo dục diện mũi nhọn trong dạy học
Vật lí ở trường phổ thông được tiến hành theo các quan điểm sau: [25]
- Lấy trình độ phát triển chung của HS làm nền tảng. Nội dung và phương pháp dạy
học trước hết phải thiết thực với trình độ và điều kiện chung đó.
- Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện HS Trung bình-Khá lên trình độ
Khá-Giỏi.
- Có những nội dung bổ sung và biện pháp phân hóa giúp HS Khá-Giỏi đạt được
những yêu cầu nâng cao trên mức cơ bản.
* Dạy học phân hóa có thể thực hiện theo hai hướng: [25]
+ Phân hóa nội tại, tức là dùng các biện pháp phân hóa thích hợp trong một lớp học
thống nhất với cùng một kế hoạch học tập cùng một chương trình sách giáo khoa.
+ Phân hóa về tổ chức (còn gọi là phân hóa ngoài) tức là hình thành những nhóm
ngoại khóa, lớp chuyên, dạy theo giáo trình riêng...
Theo Phạm Thị Phú: Từ thập niên 60 của thế kỉ 20 ở nước ta đã thực hiện dạy học
phân hóa ở hình thức hệ thống trường chuyên, khối chuyên; trường chuyên do các tỉnh
quản lý và khối chuyên thuộc các trường ĐH (CĐSP, hoặc ĐH Tổng hợp). Thành tích
đào tạo bồi dưỡng HSG trong các trường này trong hơn 50 năm qua thật đáng tự hào,
HS nước ta đã đạt thứ hạng cao trong các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực, đa số
HS được học tập theo giáo trình riêng từ các trường chuyên, khối chuyên này.
Ngoài ra trong các trường phổ thông lại có các lớp chuyên, lớp chọn cũng là một
hình thức dạy học phân hóa; cuối cùng là thành lập các đội tuyển HSG các cấp trong
các trường và bồi dưỡng theo một kế hoạch đặc biệt. Trong đề tài này chúng tôi chọn
dạy học phân hóa theo hình thức này.
1.4. BT Vật lí với việc phát hiện và bồi dưỡng HSG
12
Các trường phổ thông (THCS, THPT) thành lập các đội tuyển HSG Vật lí các khối
lớp (Lớp 9 THCS, lớp 12 THPT); chương trình, nội dung, phương pháp dạy học ở các
đội tuyển do GV phụ trách trực tiếp xây dựng. Căn cứ chủ yếu là đề thi HSG các kỳ
thi đã qua của các địa phương khác nhau và chương trình hiện hành. Trong đó BT là
một phương tiện dạy học chủ yếu được các GV lựa chọn trong bồi dưỡng HSG Vật lí.
Vì sao? Sau đây chúng tôi phân tích làm rõ vấn đề này.
1.4.1. Chức năng lí luận dạy học của BT Vật lí
1.4.1.1. Khái niệm BT Vật lí [25]
Trong thực tế dạy học, người ta thường gọi một vấn đề không lớn được giải quyết
nhờ những suy lý logic, những phép toán và thí nghiệm dựa trên cơ sở các định luật và
các phương pháp Vật lí là một BT Vật lí. Thật ra, trong các giờ học Vật lí, mỗi một
vấn đề xuất hiện khi nghiên cứu tài liệu giáo khoa (bài học xây dựng kiến thức mới) là
một BT đối với học sinh. Sự tư duy định hướng một cách tích cực “luôn luôn là việc
giải BT” hiểu theo nghĩa rộng của mệnh đề đó.
Trong những tài liệu sách giáo khoa cũng như những tài liệu phương pháp bộ môn,
người ta thường hiểu những BT được lựa chọn một cách phù hợp với mục đích chủ
yếu là nghiên cứu các hiện tượng Vật lí, hình thành các khái niệm, phát triển tư duy
Vật lí của HS và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức Vật lí vào thực tiễn là những
BT Vật lí.
1.4.1.2. Ý nghĩa tác dụng của BT Vật lí [25]
Trong việc dạy học không thể thiếu BT, sử dụng BT là một biện pháp hết sức quan
trọng để nâng cao chất lượng dạy học. BTVL có những ý nghĩa, tác dụng to lớn về
nhiều mặt.
a. Về mặt trí dục
Làm chính xác hoá các khái niệm Vật lí, củng cố, đào sâu và mở rộng kiến thức
một cách sinh động, phong phú, hấp dẫn. Chỉ khi vận dụng được kiến thức vào việc
giải BT, HS mới nắm được kiến thức một cách sâu sắc.
Ôn tập, hệ thống hoá kiến thức một cách tích cực nhất. Khi ôn tập, HS sẽ
không tập trung nếu chỉ yêu cầu họ nhắc lại kiến thức. Thực tế cho thấy HS chỉ thích
giải BT trong giờ ôn tập.
Rèn luyện các kỹ năng Vật lí như giải BT, tính toán theo công thức Vật lí … Nếu
là BT thực nghiệm sẽ rèn các kỹ năng thực hành, góp phần vào việc giáo dục kỹ thuật
13
tổng hợp cho học sinh.
Rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống, lao động sản xuất
và bảo vệ môi trường.
Rèn kỹ năng sử dụng ngôn ngữ Vật lí và các thao tác tư duy.
Làm chính xác hóa các khái niệm, định luật đã học.
Giáo dục đạo đức, tác phong như: rèn tính kiên nhẫn, sáng tạo, chính xác và phong
cách làm việc khoa học, giáo dục lòng yêu thích bộ môn
b. Về mặt phát triển
Phát triển ở HS các năng lực tư duy logic, biện chứng, khái quát, độc lập, thông
minh, sáng tạo.
c. Về mặt giáo dục
Rèn luyện đức tính kiên nhẫn, trung thực và lòng say mê khoa học. BT thực nghiệm
còn có tác dụng rèn luyện văn hoá lao động (lao động có tổ chức, có kế hoạch, gọn
gàng, ngăn nắp, sạch sẽ ...).
Nhưng bản thân một BTVL chưa có tác dụng gì cả: không phải một BTVL “hay”
thì luôn có tác dụng tích cực! Vấn đề phụ thuộc chủ yếu là “người sử dụng nó”. Làm
thế nào phải biết trao đúng đối tượng, phải biết cách khai thác triệt để mọi khía cạnh
của bài toán, để HS tự mình tìm ra cách giải, lúc đó BTVL mới thật sự có ý nghĩa.
1.4.1.3. Vai trò của BTVL
BTVL có vai trò vô cùng quan trọng, chúng được sử dụng trong dạy học Vật lí
với những mục đích khác nhau:
BTVL được sử dụng như các phương tiện nghiên cứu tài liệu mới khi trang bị
kiến thức mới cho HS nhằm đảm bảo cho HS lĩnh hội kiến thức một cách sâu sắc và
vững chắc. BT có thể là điểm khởi đầu để dẫn dắt đến kiến thức mới ở bậc trung học
phổ thông. Với trình độ toán học đã khá phát triển, nhiều khi các BT được sử dụng
khéo léo có thể dẫn HS đến những suy nghĩ về một hiện tượng mới hoặc xây dựng
khái niệm mới để giải thích hiện tượng mới do BT đưa ra.
BTVL là phương tiện rèn luyện cho HS kĩ năng kĩ xảo vận dụng kiến thức, liên
hệ lý thuyết với thực tiễn, đời sống. Có thể xây dựng rất nhiều BT có nội dung thực
tiễn, trong đó yêu cầu HS phải vận dụng kiến thức lý thuyết để giải thích các hiện
tượng có thể xảy ra trong thực tiễn ở những điều kiện cho trước.
14
BTVL là phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn luyện tư duy, bồi
dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho HS bởi vì giải BTVL là hình thức làm
việc căn bản của HS. Trong quá trình giải BTVL học sinh phải phân tích điều kiện
trong đề bài, tự xây dựng những lập luận, thực hiện việc tính toán khi cần thiết phải
tiến hành cả thí nghiệm, xác định sự phụ thuộc hàm số giữa các đại lượng để kiểm tra
kết luận của mình. Trong những việc làm cụ thể đó tư duy lôgic, tư duy sáng tạo của
HS được nâng cao. Có nhiều BTVL không chỉ dừng lại trong phạm vi vận dụng
những kiến thức đã học mà còn giúp HS bồi dưỡng tư duy sáng tạo. Đặc biệt là BT
giải thích các hiện tượng, BT thí nghiệm.
BTVL là phương tiện ôn tập và củng cố kiến thức đã học một cách sinh động và
có hiệu quả.
Thông qua việc giải BTVL có thể rèn luyện được các đức tính tốt như: tính độc
lập, tính sáng tạo, tính cẩn thận, kiên trì, vượt khó. Giải BT là một trong những hình
thức làm việc tự lực của HS. Trong quá trình làm BT, do phải tự mình phân tích các
điều kiện của đầu bài, tự xây dựng những lập luận, kiểm tra và phê phán những kết
luận mà HS rút ra được nên tư duy của HS được phát triển, năng lực làm việc của họ
được nâng cao, tính kiên trì được phát triển.
BTVL là phương tiện để kiểm tra đánh giá kiến thức, kĩ năng của một HS một
cách chính xác.
Tóm lại: Đối với môn Vật lí ở trường phổ thông, BTVL đóng một vai trò hết sức
quan trọng, việc hướng dẫn HS làm BTVL là một hoạt động dạy học, là một công việc
khó khăn, ở đó bộc lộ rõ nhất trình độ của người giáo viên Vật lí trong việc hướng dẫn
hoạt động trí tuệ của HS, vì thế đòi hỏi người giáo viên và cả HS phải học tập và lao
động không ngừng.
BTVL sẽ giúp HS hiểu sâu hơn những qui luật Vật lí, những hiện tượng Vật lí.
Thông qua các BT ở các dạng khác nhau tạo điều kiện cho HS vận dụng linh hoạt
những kiến thức để tự lực giải quyết thành công những tình huống cụ thể khác nhau
thì những kiến thức đó mới trở nên sâu sắc hoàn thiện và trở thành vốn riêng của HS.
Trong quá trình giải quyết các vấn đề, tình huống cụ thể do BT đề ra HS phải vận
dụng các thao tác tư duy như so sánh phân tích, tổng hợp khái quát hoá.... để giải
quyết vấn đề, từ đó sẽ giúp giải quyết, giúp phát triển tư duy và sáng tạo, óc tưởng
tượng, tính độc lập trong suy nghĩ, suy luận.... Nên BTVL gây hứng thú học tập cho
15
HS, giúp HS rèn luyện các kỹ năng, mở rộng kiến thức, tầm nhìn và phát triển nhân
sinh quan một cách toàn diện hơn [25].
1.4.2. Phân loại BTVL theo mục đích sử dụng
Theo mục đích sử dụng BT để bồi dưỡng HSG thì có thể phân chia BTVL gồm các
loại sau:
a. BT rèn luyện - nâng cao
Có thể đưa ra một số đặc trưng của BT rèn luyện nâng cao như sau [25]:
- Có angôrit giải
- Áp dụng các kiến thức xác định đã biết để giải
- Dạng BT theo khuôn mẫu nhất định
- Tình huống quen thuộc
- Có tính tái hiện
- Yêu cầu khả năng đề xuất, đánh giá ở mức vừa phải.
b. BT sáng tạo
b.1. Cơ sở lý thuyết của BT sáng tạo [23; 43]
Sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái
đã có. Sáng tạo là HĐ đặc thù chỉ có con người mới mới có để tạo ra những giá trị tinh
thần, vật chất mới. Sáng tạo cần cho bất cứ lĩnh vực nào trong cuộc sống, lao động của
con người ở mọi cấp độ từ vĩ mô đến vi mô.
Các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về tâm lý học sáng tạo đã chỉ ra rằng:
mỗi người điều tiềm ẩn khả năng sáng tạo lớn hoặc nhỏ. Nếu được bồi dưỡng, rèn
luyện thường xuyên, đúng phương pháp thì tiềm năng sáng tạo sẽ bộc lộ, phát triển và
sáng tạo ra giá trị vật chất hoặc tinh thần lớn cho nhân loại, hoặc chí ít cũng cải tạo
nâng cao chất lượng cuộc sống của chính mình, góp phần xây dựng xã hội ngày càng
tiến bộ; nếu không được bồi dưỡng rèn luyện thì tiềm năng sáng tạo sẽ dần mai một
hoặc không có điều kiện bộc lộ.
Kết luận đó thực sự có ý nghĩa đối với dạy học trong nhà trường. Một trong bốn
nhiệm vụ của dạy học các môn khoa học là phát triển tư duy ở HS năng lực tư duy
gồm: Tư duy logic, tư duy sáng tạo, tư duy đặc thù của bộ môn, tạo cơ sở cho việc bồi
dưỡng năng lực giải quyết vấn đề. Nhiệm vụ này được Phạm Văn Đồng gói gọn trong
câu nói đầy ý nghĩa: “Dạy là phải gõ vào trí thông minh của HS”, “Nghề dạy học là
nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo”. Trong thực tiễn cuộc vận động đổi
16
mới phương pháp dạy học hiện nay, vấn đề “Dạy thế nào để bồi dưỡng tư duy sáng
tạo” là câu hỏi được nhiều người quan tâm.
Cơ sở lý thuyết của BT sáng tạo trong dạy học Vật lí là sự giống nhau về bản chất
của HĐ nhận thức khoa Vật lí và HĐ học tập Vật lí. Bản chất đó thể hiện tính mới mẻ
trong nhận thức: Đối với nhà Vật lí học “cái mới” tìm ra là phát minh khoa học mà
nhân loại chưa ai biết, còn đối với HS khám phá “cái mới” đối với bản thân mình, và
“cái mới” là bản chất của sự sáng tạo.
Trong Vật lí học, V.G. Ra-zu-mốp-xki trình bày quá trình sáng tạo dưới dạng chu
trình như sau:
Mô hình giả
định
Hệ quả logic
Sự kiện
Thực nghiệm
Quá trình sáng tạo diễn ra theo chu trình gồm 4 giai đoạn như trên, trong đó khó
khăn nhất, đòi hỏi sự sáng tạo cao nhất là giai đoạn từ những sự kiện khởi đầu đề xuất
mô hình giả thuyết và giai đoạn đưa ra phương án thực nghiệm để kiểm tra hệ quả suy
ra từ mô hình giả thuyết. Trong giai đoạn này không có con đường suy luận logic mà
chủ yếu dựa vào trực giác, ở đây tư duy trực giác giữ vai trò quan trọng, bắt buộc phải
đưa ra một phỏng đoán mới, một giải pháp mới chưa hề có, một HĐ sáng tạo thực sự.
Dựa vào chu trình sáng tạo khoa học trong Vật lí học, sự tương tự về bản chất của
quá trình nhận thức của HS khi học tập Vật lí và của nhà Vật lí học khi nghiên cứu
Vật lí, có thể xây dựng những BT sáng tạo về Vật lí. Đây là một khái niệm khá mới
của lý luận dạy học Vật lí ở nước ta, còn ít được đề cập hoặc nếu có thì còn sơ sài
chưa thành hệ thống và khó vận dụng.
b.2. Khái niệm BT sáng tạo [25]
BT Vật lí sáng tạo có thể được mô tả theo mô hình sau đây:
BT luyện tập
BT sáng tạo
- Có angôrit giải
- Đi tìm angôrit giải
- Áp dụng các kiến thức xác định đã biết để - Vận dụng linh hoạt, sáng tạo từ kiến
giải
- Dạng BT theo khuôn mẫu nhất định
- Tình huống quen thuộc
- Có tính tái hiện
- Không yêu cầu khả năng đề xuất, đánh giá
17
thức cũ
- Không theo khuôn mẫu nhất định
- Tình huống mới
- Có tính phát hiện
- Yêu cầu khả năng đề xuất, đánh giá
b.3. Các dấu hiệu của BT sáng tạo [23; 46]; [25]
b.3.1. Dấu hiệu 1: BT có nhiều cách giải
Khi giải các BTVL HS phải dựa vào các đại lượng đã cho trong BT. Mỗi đại
lượng Vật lí có nhiều mối liên hệ với các đại lượng khác, khi thực hiện giải các BT
loại này làm cho HS biết nhìn nhận vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau. Điều này giúp
cho các em có thể phát triển được tính mềm dẻo và linh hoạt khi đứng trước một BT
hay một vấn đề thực tiễn và có thể chọn được phương án giải quyết vấn đề nhanh
nhất.
b.3.2. Dấu hiệu 2: BT có hình thức tương tự nhưng có nội dung biến đổi
Loại BT này thường có nhiều câu hỏi, ở câu hỏi thứ nhất thường là một BT luyện
tập, các câu hỏi tiếp theo có hình thức tương tự, nếu vẫn áp dụng phương pháp tương
tự như trên sẽ dẫn đến bế tắc vì nội dung câu hỏi đã có sự biến đổi về chất.
b.3.3. Dấu hiệu 3: BT thí nghiệm
BT về thí nghiệm Vật lí gồm BT thí nghiệm định tính và BT thí nghiệm định
lượng. BT thí nghiệm định tính yêu cầu thiết kế thí nghiệm theo một mục đích cho
trước, thiết kế một dụng cụ ứng dụng Vật lí hoặc yêu cầu làm thí nghiệm theo chỉ dẫn
quan sát và giải thích hiện tượng xảy ra. BT thí nghiệm định lượng gồm BT đo đạc
các đại lượng Vật lí, minh hoạ lại quy luật Vật lí bằng thực nghiệm.
b.3.4. Dấu hiệu 4: BT thiếu hoặc thừa dữ kiện
Trong BT loại này có tác dụng phát huy những ý tưởng độc đáo của HS trong
việc nhìn nhận các vấn đề trong BT. Để giải quyết được vấn đề của BT loại này HS
cần phải có sự phát hiện ra những điều chưa hợp lý và có được sự lý giải cần thiết. BT
này còn gặp trong trường hợp HS cần có ý tưởng để đề xuất hoặc thiết kế vận dụng
kiến thức để đạt được yêu cầu nào đó của cuộc sống hay kỹ thuật.
b.3.5. Dấu hiệu 5: BT nghịch lí, ngụy biện
Đây là BT trong đề bài chứa đựng một sự ngụy biện nên dẫn đến nghịch lý: kết
luận rút ra mâu thuẫn với thực tiễn hay mâu thuẫn với nguyên tắc, định luật Vật lí đã
biết.
Các dấu hiệu 4 và 5 có tác dụng bồi dưỡng tư duy phê phán, phản biện cho HS;
giúp cho tư duy có tính độc đáo, nhạy cảm.
b.3.6. Dấu hiệu 6: BT hộp đen
18
Theo M.Bun-xơ-man bài toán hộp đen gắn liền với việc nghiên cứu đối tượng mà
cấu trúc bên trong là đối tượng nhận thức mới (chưa biết), nhưng có thể đưa ra mô
hình cấu trúc của đối tượng nếu cho các dữ kiện “đầu vào”, “đầu ra”. Giải bài toán
hộp đen là quá trình sử dụng kiến thức tổng hợp, phân tích mối quan hệ giữa dữ kiện
“đầu vào”, “đầu ra” để tìm thấy cấu trúc bên trong của hộp đen.
Tính chất quá trình tư duy của HS khi giải bài toán hộp đen tương tự với quá
trình tư duy của người kỹ sư nghiên cứu cấu trúc chiếc đồng hồ mà không có cách nào
tháo được chiếc đồng hồ đó ra; anh ta phải đưa ra mô hình cấu trúc của đồng hồ, vận
hành mô hình đó, điều chỉnh mô hình cho đến khi hoạt động của mô hình giống như
chiếc đồng hồ thật, thì khi đó mô hình sáng tạo của người kỹ sư phản ánh đúng cấu
tạo của chiếc đồng hồ thật. Chính vì vậy bài toán hộp đen ngoài chức năng giáo dưỡng
còn có chức năng bồi dưỡng năng lực sáng tạo.
b.3.7. Dấu hiệu 7: BT nghiên cứu, thiết kế
HS có thể sử dụng các kiến thức đã học ở trường Phổ thông để tiến hành nghiên
cứu, thiết kế, chế tạo những những ứng dụng đơn giản vào cuộc sống khoa học kỹ
thuật. Đối với các BT loại này HS phải vừa vận dụng các kiến thức đã học và kiến
thức thực tiễn để thiết kế chế tạo các thiết bị, dụng cụ ứng dụng trong thực tiễn. Các
em phải tiến hành tính toán để thiết kế và chế tạo, trong các phương án có được các
em phải lựa chọn phương pháp tối ưu để đạt được kết quả tốt nhất. Đây là loại BT có
đặc điểm rèn luyện cho HS tính thực tiễn cao, có tác dụng tốt trong việc phát triển tư
duy cho HS.
1.4.3. BT Vật lí với việc bồi dưỡng HSG
* Vai trò của BT đối với việc bồi dưỡng HSG [18; 188]
+ BT giúp cho HS ôn tập, đào sâu, mở rộng kiến thức.
Trong giai đoạn xây dựng kiến thức HS đã nắm được cái chung các khái quát
của các khái niệm, định luật và cũng là các khái niệm trừu tượng. Trong các BT HS
phải vận dụng những kiến thức khái quát, trừu tượng đó vào những trường hợp cụ thể
rất đa dạng, nhờ thế mà HS nắm được những biểu hiện rất cụ thể của chúng trong thực
tế và phạm vi ứng dụng của chúng. Ngoài những ứng dụng quan trọng trong kỹ thuật
BT Điện học giúp cho HS thấy được những ứng dụng muôn hình muôn vẻ trong thực
tiễn của các kiến thức đã học.
Vật lí học không phải chỉ tồn tại trong óc chúng ta dưới dạng những mô hình
trừu tượng do ta nghĩ ra, mà là sự phản ánh trong óc chúng ta thực tế phong phú, sinh
19
động. Tuy nhiên các khái niệm, định luật Vật lí thì rất đơn giản, còn biểu hiện của
chúng trong tự nhiên thì rất phức tạp, bởi vì các sự vật, hiện tượng có thể bị chi phối
bởi nhiều định luật, nhiều nguyên nhân đồng thời hay liên tiếp chồng chéo lên nhau.
BT sẽ giúp luyện tập cho HS phân tích để nhận biết những trường hợp phức tạp đó.
BTVL là một phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức sinh động. Khi giải BT, HS
phải nhớ lại các kiến thức đã học, có khi phải sử dụng tổng hợp các kiến thức của
nhiều chương, nhiều phần của chương trình.
+ Giải BT là một trong những hình thức làm việc tự lực cao của HS
Trong khi làm BT, do phải tự mình phân tích các điều kiện của đầu bài, tự xây dựng
những lập luận, kiểm tra và phê phán những kết luận mà HS rút ra được nên tư duy
của HS được phát triển, năng lực làm việc tự lực nâng cao, tính kiên trì được phát
triển. Cần lưu ý rằng việc rèn luyện cho HS giải các BT Vật lí không phải là của dạy
học. Mục đích cơ bản đặt ra khi giải BTVL là làm cho HS hiểu sâu sắc hơn những quy
luật Vật lí, biết phân tích những ứng dụng của chúng vào những vấn đề thực tiễn, vào
tính toán kỹ thuật và cuối cùng phát triển tư duy, năng lực giải quyết vấn đề
+ Giải BT góp phần làm phát triển tư duy sáng tạo của HS
Có nhiều BT điện học không chỉ dừng lại trong phạm vi vận dụng những kiến
thức đã học mà còn giúp bồi dưỡng cho HS tư duy sáng tạo. Đặc biệt là những BT
giải thích hiện tượng, BT thí nghiệm, BT thiết kế dụng cụ rất có ích về mặt này.
+ Giải BT là một phương tiện để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của HS: BT
vật lí cũng là một phương tiện có hiệu quả để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức
của HS. Tùy theo cách đặt câu hỏi kiểm tra, ta có thể phân loại được các mức độ nắm
vững kiến thức của HS, khiến cho việc đánh giá chất lượng HS được chính xác.
1.5. Các yêu cầu hệ thống BT bồi dưỡng HSG
Để đạt kết quả trong công tác bồi dưỡng HSG, việc xây dựng hệ thống BT là rất
quan trọng, quyết định. Hệ thống BT bồi dưỡng HSG ngoài việc đạt các yêu cầu hệ
thống BT Vật lí nói chung, còn phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Theo Phạm Thị Phú:
- Phải nâng cao, mở rộng kiến thức, kỹ năng cho HS trong phạm vi phù hợp (không
quá tải). Để đảm bảo tiêu chí này GV cần căn cứ đề thi HSG phạm vi 4 năm để nắm
được phổ kiến thức sử dụng trong đề thi đó, BT bồi dưỡng HSG phải bao quát được
các kiến thức đó.
- Phải phát triển tư duy HS, phát triển tư duy logic, tư duy toán học, tu duy Vật lí,
20
muốn vậy phải có BT định tính, định lượng, dạy luyện tập nâng cao, BT thí nghiệm để
rèn luyện óc quan sát, kết hợp tư duy lý thuyết và tư duy thực nghiệm.
- Phải bồi dưỡng nềm yêu thích Vật lí cho HS; HSG phải yêu thích đam mê môn
học vì chính nội dung môn học chứ không vì điểm số, vì vậy hệ thống BT phải có sức
cuốn hút HS vào các HĐ thực tiễn, sáng tạo, phải có BT có nội dung thực tế, nội dung
lịch sử, BT thiết kế chế tạo để HS làm kỹ sư thiết kế thi công.
1.5.1. BT là phương tiện phát hiện HSG
- Những BT mang tính chất rèn luyện, nâng cao và sáng tạo, thoạt nhìn nó rất mới
lạ với những BT thông thường, buộc HS phải suy nghĩ phân tích cặn kẽ thì mới có thể
giải được.
- Những BT có tính chất nâng dần từ mức cơ bản đến nâng cao và sáng tạo giúp HS
phát triển tư duy và rèn kỹ năng phân tích, tổng hợp.
1.5.2. Luyện tập giải BT cá nhân ở nhà
- Việc HS tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục và giáo dưỡng.
- Công việc học tập của HS ở nhà có những đặc điểm riêng sau:
+ Tiến hành trong một thời gian ngắn, không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo
viên, mặc dù đấy là công việc do chính giáo viên giao cho HS phải tự mình hoàn
thành, tự kiểm tra công việc mình làm.
+ Công việc này được thực hiện tuần tự theo hứng thú, nhu cầu, niềm yêu thích và
năng lực của HS.
+ Dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác.
- Việc giao bài làm một cách có hệ thống đảm bảo cho việc học tập của HS có một
quy luật chặt chẽ, nhờ đó mà HS có thể tự lực giải quyết các BT khó, vì đã có sự
chuẩn bị ở các BT dễ. Việc HS hoàn thành tốt các BT ở nhà không những chỉ giúp các
em nắm vững tri thức đã học cũng như rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, mà còn
giúp các em chuẩn bị tốt nhất cho việc tiếp thu kiến thức mới. Vì thế bên cạnh những
bài làm phục hồi, luyện tập và sáng tạo trên cơ sở kiến thức đã học cần phải giao cho
HS những bài làm mang những yếu tố chuẩn bị cho việc tiếp thu tri thức mới.
- Có thể giao BT về nhà cho HS bằng nhiều hình thức:
+ Giao BT trong thời gian truy bài đầu giờ.
+ Giao BT sau tiết học.
+ Giao BT theo hệ thống BT SGK, SBT, sách tham khảo…
+ Giao BT theo dạng, theo chuyên đề.
21
- Một biện pháp quan trọng nữa để đảm bảo công tác hướng dẫn học ở nhà có kết
quả là cần có những biện pháp kiểm tra, động viên, khích lệ kịp thời và phù hợp:
+ Kiểm tra vở ghi, vở BT.
+ Cho điểm khuyến khích những HS có nhiều cố gắng hoặc chuyển biến trong học
tập, ...
- Thông qua việc giải BT cá nhân ở nhà sẽ giúp HS có kỹ năng phân tích xem phải
vận dụng công thức nào và nối liên hệ giữ dữ kiện đã cho trong đề bài với nhiều công
thức liên quan để vận dụng công thức cho phù hợp và giải BT được nhanh chóng, từ
đó sẽ rèn luyện được kỹ năng và giúp HS nắm vững và khắc sâu kiến thức đã học.
1.5.3. Giải BT theo nhóm (thiết kế, chế tạo)
BT theo nhóm là những BT mang tính tổng hợp, đòi hỏi có sự kết hợp của nhiều
yếu tố, nhiều mối liên hệ thì mới có thể giải được.
“Dạy học theo nhóm nhỏ là phương pháp dạy học trong đó GV sắp xếp HS thành
những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên, mà
theo đó HS trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và cùng nhau phối hợp làm việc để hoàn
thành nhiệm vụ của nhóm” [25]
Định nghĩa này nhấn mạnh một số điểm sau [25]:
- Dạy học theo nhóm ở đây được coi là một phương pháp dạy học.
- Những người tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ và phối
hợp lẫn nhau. Nói cách khác là tồn tại tương tác “mặt đối mặt” trong nhóm HS.
- HS trong nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là
phải có sự phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong
nhóm cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào công việc của
những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các thành
viên trong nhóm thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm.
1.6. Thực trạng bồi dưỡng HSG Vật lí ở một số trường THCS huyện Lấp Vò tỉnh
Đồng Tháp
1.6.1. Giới thiệu về thi HSG môn Vật lí THCS ở huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Hàng năm, vào khoảng tháng 12 huyện Lấp Vò tổ chức thi chọn HSG môn Vật lí
THCS, có 13/13 trường có đội tuyển tham dự, với tổng số khoảng hơn 40 HS tham
dự.
Ví dụ: Kỳ thi năm 2011 – 2012 có 42 HS dự thi, số HS đạt giải là 23/42, chiếm tỉ lệ
22
54,76%, còn thấp so với chỉ tiêu quy định là 60% thí sinh đạt giải cho mỗi môn ở các
kỳ thi HSG các cấp.
1.6.2. Đề thi chọn HSG môn Vật lí THCS cấp Huyện Lấp Vò, cấp Tỉnh Đồng Tháp
từ năm 2008 – 2011
Để xây dựng được hệ thống BT bồi dưỡng HSG đảm bảo các yêu cầu ở mục 1.5 cần
phải khảo sát đánh giá nội dung, kiến thức, mức độ khó của đề thi trong 4 năm gần
đây. Trong phụ lục 1b, 1c chúng tôi giới thiệu 04 đề thi tuyển chọn HSG Vật lí THCS
huyện Lấp Vò và cấp tỉnh Đồng Tháp. Sau đây là phân tích, đánh giá:
23
a. Đề thi cấp Huyện Lấp Vò
Đề thi
năm
1. Kiến thức
học
2007–
2008
4. Sự
2. Công
cụ toán
3. Mức độ phức tạp
học
đa dạng
5. Sự sáng
của các
tạo của BT
loại BT
Đề thi BT trong đề
Phổ kiến thức bao gồm các phần Cơ học,
. Đề thi có nội dung rõ ràng, tường minh
Nhiệt học lớp 8 và phần Điện học lớp 9.
. Số đơn vị kiến thức không nhiều, chỉ có các ở
Trong đó vượt khả năng của chương trình
đơn vị kiến thức về: Công cơ học, phương trình bình
luyện
tập
là phần Cơ học 8: Nội dung vượt là: Tính
cân bằng nhiệt, định luật Ohm, mạch nt, thường,
nâng
cao,
hiệu suất của mặt phẳng nghiêng (Câu
mạch //, công suất điện, hiệu suất máy cơ.
1b); mạch điện có 04 Đtr (Câu 5); có 05 Chủ yếu
Đtr (Câu 3)
Phổ kiến thức bao gồm các phần: Cơ
mức ở mức độ
chưa đa chưa có BT
dạng.
hay
dùng
các
. Đề thi có nội dung rõ ràng, tường minh
Đề thi ở BT trong đề
học, Nhiệt học lớp 8 và phần Điện học
. Số đơn vị kiến thức tương đối nhiều, gồm đơn mức đa ở mức độ
lớp 9.
vị kiến thức về: Vận tốc, lực đẩy Ácsimet, dạng.
luyện
2008 - Trong đó vượt khả năng của chương trình
trọng lượng, lực cơ học, công cơ học, hiệu suất,
nâng cao, có
2009
là phần Cơ học 8: Nội dung vượt là câu
phương trình cân bằng nhiệt, định luật Ohm,
BT hay
3b có sử dụng đến công thức hiệu suất;
mạch nt, mạch //.
tập
mạch điện có 04 Đtr (Câu 5).
2009 -
Phổ kiến thức bao gồm các phần: Cơ
2010
học, Nhiệt học lớp 8 và phần Điện học
. Đề thi có nội dung yêu cầu rõ ràng.
Đề thi ở BT trong đề
. Số đơn vị kiến thức nhiều, gồm các đơn vị mức đa ở mức độ
24
lớp 9.
kiến thức về: Vận tốc, phương trình cân bằng dạng.
luyện
tập
Trong đó vượt khả năng của chương trình
nhiệt, năng suất toả nhiệt, hiệu suất, công cơ
nâng cao, có
là phần kiến thức có sử dụng đến công
học, định luật Ohm, mạch nt, mạch //, công
BT hay
thức hiệu suất (Câu 3, 5), năng suất tỏa
thức Đtr của dây dẫn hình trụ tròn đồng chất
nhiệt (đã giảm tải)
Phổ kiến thức bao gồm các phần: Cơ
tiết diện đều, định luật Jun – Len-xơ.
. Đề thi có nội dung yêu cầu rõ ràng.
học, Nhiệt học lớp 8 và phần Điện học
. Số đơn vị kiến thức rất nhiều, gồm các đơn vị mức đa ở mức độ
lớp 9.
kiến thức về: Vận tốc, thể tích hình khối, khối dạng,
luyện
tập
2010-
Trong đó vượt khả năng của chương trình
lượng riêng, trọng lượng riêng, phương trình phức
nâng
cao,
2011
là phần kiến thức: Cơ học lớp 8 (Câu 1,
cân bằng nhiệt (ở mức vận dụng cao), công tạp
sáng tạo, và
Câu 2); Nhiệt học lớp 8 (Câu 3); mạch
suất điện, định luật Ohm, mạch nt, mạch //,
nhiều
điện có 04 Đtr (Câu 5)
công thức Đtr của dây dẫn hình trụ tròn đồng
hay.
Đề thi ở BT trong đề
BT
chất tiết diện đều, định luật Jun – Len-xơ, điện
năng tiêu thụ, biến trở.
b. Đề thi cấp Tỉnh Đồng Tháp
Đề thi
1. Kiến thức
2. Công
năm
cụ toán
học
học
3. Mức độ phức tạp
4. Sự
5. Sự sáng
đa dạng tạo của BT
của các
25