Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC
I. Khái niệm triết học
Với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất, Triết học ra đời vào khoảng
thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên tại một số trung tâm văn
minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp. Khi mà:
Lao động đã phát triển tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống
hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận.
Con người đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn
hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa.
Đã có rất nhiều các định nghĩa khác nhau của các nhà triết học trên thế
giới về triết học. Tuy nhiên, khái quát lại Triết học là hệ thống lý luận chung
nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người
trong thế giới đó.
Đầu thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt hoàn toàn với quan
niệm triết học là "khoa học của mọi khoa học" và xác định đối tượng nghiên
cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên
lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Quan niệm macxit cho rằng: "Triết học là một trong
những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất
của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học
về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy".
II. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
* Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học
Trong cuộc sống của con người và xã hội loài người, thế giới quan đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ thống quan niệm về thế giới, con
người tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới
như một thấu kính, qua đó con người nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện
tượng của thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ đó, xác định thái
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
độ, cách thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là
tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế quan, làm cho thế
giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế
giới quan của triết học.
Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời một lĩnh vực
đặc thù của khoa học lý thuyết và triết học – đó là phương pháp luận. Phương
pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc
tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai
trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên
tắc trong việc xác định phương pháp, là một lý luận về phương pháp.
* Vai trò của triết họ đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận
Triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể, nó
là thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho
các khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt được và vạch ra
phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn luôn gắn
liền với các thành tựu khoa học hiện đại, là sự khái quát các thành tựu khoa
học mang lại, đồng thời đóng góp vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa
học hiện đại.Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ
đang đạt được nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời
sống xã hội thì việc nắm vững thế giới quan và phương pháp luận duy vật
biện chứng càng có ý nghĩa quan trọng.
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
III. Phân kỳ lịch sử triết học
Nghiên cứu sự phát triển của triết học, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy
sự phân hóa phát triển giữa hai vùng Đông Tây. Nếu như thời kỳ cổ đại Triết
học phương Đông phát triển mạnh thì các giai đoạn sau triết học phương
Đông chỉ là sự kéo dài của các tư tưởng. Khác hẳn với phương Đông, triết học
phương Tây lại đặc biệt nở rộ từ thời kỳ trung cổ và không ngừng phát triển
trong các thời kỳ sau như thời kỳ phục hung, cận đại…đóng góp rất nhiều cho
sự phát triển của hệ thống lý luận triết học. Một bộ phận không kém phần
quan trong trong triết học phương Tây mà ta không thể không kể đến đó là
triết học các nước Tây Âu thời kỳ cận đại và triết học cổ điển Đức.
Nổi bật trong triết học Tây Âu thời kỳ cận đại (thế kỷ thứ XVII-XVIII)
là sự phát triển của triết học duy vật và cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật
với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Đây là thời điểm ra đời của rất nhiều các hệ
thống lý luận về thế giới và về con người, là nền móng vững chắc cho sự phát
triển của triết học.
Mặc dù Đức là một nước Tây Âu nhưng sự phát triển của triết học tại
đây lại tạo nên một sắc thái mới trong sự phát triển của triết học Tây Âu khi
phát triển theo lập trường duy tâm. Đỉnh cao là triết học Hêghen, tư tưởng
xem triết học như là một hệ thống phổ biến của tri thức khoa học, mà trong đó
các ngành khoa học cụ thể chỉ là những mắt khâu của triết học.
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
CHƯƠNG II. SỰ KHÁC NHAU CĂN BẢN GIỮA TRIẾT
HỌC TÂY ÂU CẬN ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
I. Về điều kiện ra đời
Là một hình thái ý thức xã hội, sự hình thành và phát triển của triết học
gắn liền với các điều kiện kinh tế xã hội, khoa học tự nhiên. Chính vì vậy,
nghiên cứu tư tưởng triết học Tây Âu cận đại và triết học cổ điển Đức không
thể tách rời việc nghiên cứu điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học tự nhiên đã
sinh ra nó.
Thời cận đại thế kỷ XVII - XVIII ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai cấp tư
sản đã giành được thắng lợi chính trị: điển hình như Cách mạng tư sản Hà
Lan (1560-1570), Cách mạng tư sản Anh (1642-1648), Cách mạng tư sản
Pháp (1789-1794)… Thời kỳ này phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị, nó đã đặt ra những
yêu cầu mới cho khoa học và kỹ thuật phát triển. Đây là thời kỳ khoa học tự
nhiên bắt đầu phân ngành mạnh, hình thành các bộ môn độc lập như: toán
học, vật lý học, hóa học…Đặc trưng của khoa học thời kỳ này là khoa học tự
nhiên thực nghiệm, điều này dẫn tới việc nhìn nhận đối tượng nhận thức trong
sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển…
Điều kiện kinh tế - xã hội nước Đức cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX
lại trái ngược với Tây Âu. Nước Đức vẫn là một quốc gia phong kiến, lạc hậu
về kinh tế, chính trị.
Về xã hội, giai cấp tư sản mới ra đời còn non yếu mọi mặt. Quần chúng
lao động bất bình với chế độ đương thời. Trong khi đó ở Tây Âu, chủ nghĩa tư
bản đã hình thành ở nhiều nước, đã đem lại một nền sản xuất phát triển mở
đầu cho nền văn minh công nghiệp, khẳng định tính chất ưu việt của chủ
nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến.
Sự lạc hậu của nước Đức, sự phát triển của các nước Tây Âu về kinh tế xã hội, sự phát triển của khoa học đã thức tỉnh sự phản kháng của giai cấp tư
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
sản Đức và đòi hỏi giai cấp tư sản Đức phải có cách nhìn mới về tự nhiên, xã
hội và về con người. Giai cấp tư sản Đức muốn làm cách mạng tư sản như các
nước Tây Âu, muốn xây dựng nền triết học theo yêu cầu mới, song do mới ra
đời còn yếu kém về số lượng, kinh tế và chính trị nên họ giữ lập trường cải
lương trong việc giải quyết những vấn đề của đất nước.
II. Sự khác nhau căn bản về nội dung giữa triết học Tây Âu cận đại
và triết học cổ điển Đức
Chính sự khác nhau về điều kiện kinh tế - xã hội đã làm cho triết học
Tây Âu cận đại và triết học cổ điển Đức có sự khác nhau rõ rệt. Điều này
được thể hiện cụ thể như sau:
1. Tư tưởng về nguồn gốc thế giới
Triết học Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII gắn liền với những thành tựu của
khoa học tự nhiên. Các yếu tố của vũ trụ được xem xét một cách siêu hình.
Mọi hiện tượng tự nhiên được giải thích bằng sự tác động qua lại của lực hấp
dẫn và lực đẩy giữa các phần tử vật thể. Các phần tử vật thể luôn bất biến, các
thay đổi chỉ là trạng thái không gian và tập hợp của chúng. Mọi sự phân biệt
về chất giữa các vật thể đều quy giản về sự phân biệt về lượng, mọi vận động
đều quy về sự dịch chuyển vị trí trong không gian. Từ sự hiểu biết ấy dẫn tới
họ đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động vật chất chỉ là vận động
cơ học, nguyên nhân vận động do bên ngoài. Kế thừa quan điểm nguyên tử
luận cổ đại, các nhà triết học tự nhiên thời kỳ này coi nguyên tử là phân tử
nhỏ nhất không thể chia, chưa thấy được vận động là thuộc tính cố hữu của
nguyên tử.
Trong khi đó, lý luận về bản thể của triết học cổ điển Đức chứa đựng
đầy mâu thuẫn. Có duy vật, duy tâm và nhị nguyên. Điển hình là nhà triết học
Cantơ (1724-1804). Một mặt ông thừa nhận thế giới các “vật tự nó” tồn tại
khách quan có thể tác động lên các giác quan của con người. Mặt khác, ông
cho rằng các vật thể mà ta nhận thấy được lại không liên quan gì đến thế giới
các “vật tự nó”, chúng chỉ là các hiện tượng phù hợp với cảm giác và tri giác
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
do lý tính con người tạo ra – nghĩa là con người chỉ biết hiện tượng bề ngoài
mà không hiểu được bản chất đích thực của sự vật. Về triết học duy tâm điển
hình có Hêghen (1770-1831). Ông cho rằng nguồn gốc của mọi sự vật, hiện
tượng tự nhiên và xã hội là ý niệm tuyệt đối. Trong khi đó Phoiơbắc (18041872) là một trong những nhà duy vật vô thần. Ông chứng minh rằng thế giới
là thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập
với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ triết học nào. Do đó cơ sở tồn tại
của giới tự nhiên nằm ngay trong lòng giới tự nhiên.
Lý luận về bản thể và bản tính thế giới của các nhà triết học Tây Âu cận
đại luôn gắn với các thành tựu của khoa học. Chính vì thế chủ nghĩa duy vật
thời kỳ này phát triển mạnh mẽ. Chẳng hạn Bêcơn (1561-1626) coi vật chất là
tổng hợp các hạt, coi tự nhiên là tổng hợp những vật thể các chất lượng khác
nhau. Vật chất có nhiều tính chất nên vận động có tính đa dạng, dạng cơ bản
là vận động cơ học. TômátHốpxơ (1588-1679) thừa nhận thế giới vật chất tồn
tại khách quan không do thần thánh tạo ra, không phụ thuộc vào ý thức. Thế
giới vật chất, theo ông là thế giới của những vật riêng lẻ, mọi sự vật đều được
quy về quan hệ số lượng cơ học, toán học. Đến thế kỷ XVIII, các nhà duy vật
Pháp đã có công phát triển triết học duy vật, vô thần lên một bước mới. Họ
thừa nhận vật chất, giới tự nhiên có trước, vĩnh cửu và vô tận, không ai sáng
tạo ra và không ai có thể tiêu diệt. Vận động gắn liền với vật chất và nhờ vận
động và giới tự nhiên luôn chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Tuy nhiên theo họ vận động chỉ là sự chuyển dịch vị trí của các vât thể trong
không gian. Điđrô (1713 – 1784) cho rằng trong quá trình vận động và phát
triển vật chất, giới tự nhiên sẽ chọn lọc những gì giúp cho nó ngày càng hoàn
thiện, đồng thời đào thải những gì khó thích nghi. Đây là quan điểm rất tiến
bộ và đến ngày nay nó vẫn còn đúng trong cuộc sống của chúng ta.
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
2. Tư tưởng nhận thức
Triết học Tây Âu cận đại ra đời trong điều kiện khoa học tự nhiên được
tách ra khỏi triết học và phát triển. Nhưng vấn đề cần là làm sao tìm cho được
phương pháp khoa học chung của nhận thức và phải khái quát, hệ thống hóa
các khoa học đã tách ra. Điều đó dẫn đến nhiệm vụ trọng tâm của Triết học
cận đại là lý luận nhận thức, là tìm ra phương pháp của Tri thức chân lý cho
tất cả các khoa học.
Các nhà triết học hăng hái đi tìm phương pháp chân lý cơ bản của nhận
thức và các phương pháp ấy sẽ dẫn con người đến chân lý vĩnh hằng, đầy đủ
và tuyệt đối. Cơ sở của phương pháp mới ấy được các nhà Triết học xem là
“Kinh nghiệm cảm tính” ( Bêcơn, Hốpxơ, Lốccơ), hoặc là “lý tính nó mang
lại trí thức logic toán học – diễn dịch không bị quy định bởi kinh nghiệm của
con người ( Đềcáctơ, Lépnich, Xpinoda…).
• Những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm cho rằng nguồn gốc duy
nhất của tri thức là kinh nghiệm. Kinh nghiệm liên quan đến cảm tính, cảm
giác, tri giác, biểu tượng.
• Những người theo chủ nghĩa duy lý cho rằng kinh nghiệm dựa trên
cảm giác con người không thể trở thành cơ sở phương pháp chung cho mọi
khoa học được. Tri giác và cảm giác là ảo.
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
Thành tựu lớn nhất của nền triết học cổ điển Đức là phép biệp chứng,
triết học cổ điển Đức đã tìm cách giải quyết mâu thuẫn bên trong lý luận nhận
thức mà triết học Tây Âu cận đại chưa tìm ra.
Cantơ là người sáng lập phép biện chứng cổ điển Đức đồng thời ông đã
góp phần quan trọng trong sự phát triển Phép biện chứng với tư cách là lôgic
và phương pháp luận. Ông cho rằng lý tính của con người có khát vọng xâm
nhập vào lĩnh vực “vật tự nó” để đạt tới tri thức tuyệt đối vượt ra ngoài giới
hạn của kinh nghiệm cảm tính, điều đó nảy sinh những mâu thuẫn và ông đã
nêu ra bốn mâu thuẫn. Nhận xét vấn đề này Hêghen cho rằng không phải chỉ
có bốn mâu thuẫn mà trên thực tế mỗi khái niệm, mỗi phạm trù đều mang tính
chất mâu thuẫn…
Triết học, theo Hêghen là sự xem xét đối tượng một cách có suy nghĩ.
Đối tượng của triết học theo ông là trùng với đối tượng của Tôn giáo đó là
khách thể tuyệt đối vô hạn Thượng đế. Thành tựu quan trọng của triết học
Hêghen là phương pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về
sự phát triển. Mặc dù ông đã có công nêu ra các phạm trù và quy luật cơ bản
của phép biện chứng nhưng là phép biện chứng duy tâm.
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
3. Tư tưởng con người
Triết học Tây Âu cận đại tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo của những
thế kỷ phục hưng: Khi khuynh hướng lý tính được coi là cơ sở để cải tạo cuộc
sống hiện tại, các nhà triết học khai sáng liên kết lại, lấy việc truyền bá trí
thức tốt đẹp một cách rộng rãi cho mọi người làm nhiệm vụ của chính mình.
Trong thời kì này các nhà triết học đấu tranh vì thắng lợi của “ vương
quốc trí tuệ” trên cơ sở tự do chính trị, bình quyền. Họ coi “ ánh sáng tự nhiên của
trí tuệ” là phương pháp cơ bản và độc lập với cuồng tín tôn giáo để nhận thức
thế giới, để hoàn thiện xã hội và đời sống xã hội. Trong khái niệm “lý trí” bao
gồm cả nội dung nhân đạo, họ coi đấu tranh vì những quyền lợi mà thiên
nhiên ban tặng cho mình là “con người tự nhiên”.
Mặt khác họ cũng cho rằng bản tính của con người vốn không ác. Sở dĩ xã
hội có cái ác là do sự khiếm khuyết của các quan hệ xã hội và nền giáo dục
không đứng đắn. Con người được giáo dục đứng đắn tức là sự khai sáng. Con
người được giáo dục đứng đắn sẽ trở thành “kẻ ích kỷ sáng suốt với nguyên tắc
của nó là hãy tự lo liệu cuộc sống cho mình và cho người khác cũng được sống”.
Theo nguyên tắc này, một chế độ thích hợp là chế độ đảm bảo sự bình đẳng của
mọi công dân, không phụ thuộc vào tầng lớp, dân tộc... Một chế độ như vậy mở
ra khả năng làm lợi cho mọi người, ít bị đau khổ và thỏa mãn một cách tối đa,
không làm thiệt hại đến những quyền lợi cá nhân của các người khác.
Triết học cổ điển Đức kế thừa sự lý giải về những vấn đề muôn thuở:
con người từ đâu đến? vai trò, vị trí của con người trong thế giới và tương lai
của con người như thế nào trong lịch sử triết học từ cổ đại đến cận đại thì triết
học cổ điển Đức thừa nhận con người là một chủ thể đồng thời lại là kết quả
của quá trình hoạt động của mình; khẳng định thực tiễn cao hơn lý luận... Bản
thân lịch sử là phương thức tồn tại của con người, vì vậy con người mang bản
chất xã hội.
Trước những thành tựu mới của phương thức sản xuất tư bản, các nhà
triết học cổ điển Đức đã đề cao sức mạnh trí truệ của con người, song do ảnh
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
hưởng của phương pháp siêu hình, sự đề cao ấy đến mức cực đoan. Cantơ,
Hêghen đã thần thánh hóa năng lực của con người tạo nên quan niệm duy
tâm, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội là kết quả hoạt
động của con người. Phoiơbắc tuy không đề cao như vậy, quy triết học về
nhân bản học nhưng hiểu con người chỉ theo nghĩa trần tục bằng xương bằng
thịt nên gặp hạn chế trong triết học của mình là duy vật máy móc.
Tuy nhiên thành tựu cơ bản của triết học cổ điển Đức về con người là nó
khẳng định tư duy, ý thức chỉ phát triển trong chừng mực con người nhận
thức và cải tạo thế giới, con người là chủ thể đồng thời là kết quả hoạt động
của một thời đại lịch sử nhất định của nền văn minh do chính mình tạo ra.
Triết học cổ điển Đức nghiên cứu lịch sử nhân loại, nghiên cứu quan hệ của
con người với tự nhiên theo quan niệm biện chứng.
4. Tư tưởng về đạo đức
Đạo đức học thời Tây Âu cận đại thế kỉ XVII - XVIII được phát triển
dường như quay trở về tư tưởng đạo đức học Hy Lạp cổ đại. Nó làm sống lại
tư tưởng đạo đức Êpiquya, diễn giải đạo đức như là hiện tượng của chủ quan
cá nhân, đồng thời như là một quan hệ khách quan hiện thực. Các nhà đạo
đức học thời cận đại có tham vọng xây dựng một mô hình tư tưởng nhằm liên
hợp và hệ thống lại những nhân tố đạo đức được nghiên cứu trong thời cổ đại
và trung cổ.
Ví dụ: Môngtenhơ (1533-1592) đã chống lại nguyên tắc đạo đức tôn
giáo; kiên trì những nguyên tắc đạo đức của Êpiquya: Ông cho rằng trong đức
hạnh của con người sự khoan khoái là mục đích và sự khoan khoái tinh thần
là điểm trung tâm của đạo đức học. Tômát Hốpxơ (1588 – 1679) cho rằng chủ
nghĩa ích kỷ và đấu tranh giữa người với người là những đặc điểm phổ biến
của bản chất con người. Những xu hướng ích kỷ của người này chống lại
những xu hướng ích kỷ của người khác tạo ra cuộc chiến tranh của mọi người
chống mọi người. Do đó, con người cần chuyển từ trạng thái tự nhiên sang
trạng thái xã hội hay trạng thái nhà nước. Vì vậy, ông đã gắn liền đạo đức học
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
với đạo đức về nhà nước và pháp quyền. Từ đó ông rút ra những nguyên tắc
đạo đức học…
Vào thời khai sáng, tư tưởng đạo đức có bước phát triển mới. Các nhà
duy vật Pháp thế kỉ XVIII đã phát triển đạo đức duy vật và đẩy mạnh cuộc
đấu tranh chống tư tưởng đạo đức thần học tôn giáo, họ cho rằng con người
không phải sinh ra là có đạo đức. Đạo đức nảy sinh dưới sự tác động của môi
trường xã hội, trước hết là chính trị và pháp luật. Môi trường chính trị pháp
luật quyết định chiều hướng phát triển những phẩm chất đạo đức của con
người. Từ đó học kết luận rằng con người cần thay đổi điều kiện xã hội nếu
muốn đạt đến đạo đức cao cả.
Triết học cổ điển Đức: Bước phát triển mới trong đạo đức học được ghi
nhận bằng học thuyết đạo đức của các nhà Triết học thời kỳ này như Cantơ,
Hêghen, Phoiơbắc.
•
Cantơ đã thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa chuẩn mực đạo đức với
hệ thống luật pháp, khẳng định được tính tất yếu của cơ sở pháp lý đối với
chuẩn mực đạo đức, đạt tiêu chí đạo đức trong mối liên hệ hữu cơ với pháp
quyền. Đồng thời tư tưởng đạo đức của Cantơ chứa đựng nhiều tư tưởng nhân
đạo sâu sắc. Nhưng bên cạnh đó hạn chế của đạo đức học Cantơ là còn mang
tính chất duy tâm, duy lý, chưa đánh giá đúng mức sự tác động và hạn chế
của kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Đối với hoạt động đạo đức, đồng thời
còn thể hiện tính không tưởng, phi lịch sử, phi giai cấp khi ông khuyên mọi
người không kể giai cấp, quốc gia, dân tộc… hãy theo mệnh lệnh tuyệt đối.
•
Hêghen: Ông đã trình bày các phạm trù đạo đức, đặc biệt là phạm trù
cái thiện – cái ác trong những mâu thuẫn nội tại và sự chuyển hóa giữa chúng
với nhau; Ông đã nhìn thấy trong quá trình phát triển của lịch sử, trong những
điều kiện cụ thể cái ác có thể trở thành cái thiện và cái thiện cũng có thể trở
thành cái ác. Nhưng mặt hạn chế của ông là đã coi Nhà nước lý tưởng là Nhà
nước quân chủ Phổ.
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
•
Phoiơbắc: Ông đã phê phán tư tưởng đạo đức của Cantơ, Hêghen và
khắc phục lại tư tưởng nhất nguyên duy vật thế giới và con người. Đạo đức
học của ông trở về với luận đề cho rằng, tìm thấy đạo đức từ bản chất con
người, nhiệm vụ của đạo đức là phải khám phá ra con đường đi tới xác định
được sự hài hòa giữa nghĩa vụ và hạnh phúc, hài hòa các lợi ích con người
nhưng cái sai lầm của ông là đã quy mọi quan hệ của con người vào quan hệ
đạo đức, ông lấy sự yêu thương lẫn nhau giữa mọi người và nguyện vọng tự
nhiên của con người muốn có hạnh phúc là nguyên tắc cơ bản.
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN
Khi nghiên cứu Triết học Tây Âu thời cận đại ta thấy rằng nổi bật
trong thời kỳ này là sự phát triển của triết học duy vật và cuộc đấu tranh
của chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Trong khi đó,
nước Đức cũng là một nước Tây Âu và là một quốc gia phong kiến cát
cứ điển hình, lạc hậu về kinh tế, chính trị. Tình trạng cát cứ ấy đã gây trở
ngại đối với sự phát triển kinh tế. Về xã hội, giai cấp tư sản mới ra đời
còn non yếu mọi mặt; quần chúng lao động bất bình với chế độ đương
thời. Nhưng sự phát triển của triết học tại đây lại tạo nên một sắc thái
mới khi phát triển theo lập trường duy tâm mà đỉnh cao là triết học
Hêghen, tư tưởng xem triết học như là một hệ thống phổ biến của tri
thức khoa học, mà trong đó các ngành khoa học cụ thể chỉ là những mắt
khâu của triết học.
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học
Sự khác nhau căn bản giữa Triết học Tây Âu cận đại và Triết học Đức
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lịch sử triết học, Nxb Tư tưởng – Văn hóa, H. 1992. T.1
2. Giáo trình triết học, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội 2008
3.
4.
5. . . .
Nhóm 4
Tiểu luận Triết học