Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Một số giải pháp quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế huyện Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.26 KB, 79 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

MỤC LỤC

SV; Hà Việt Hưng

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

LỜI GIỚI THIỆU
Trong giai đoạn tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới của sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Tỉnh Hà Giang nói chung và Huyện
Hoàng Su Phì nói riêng đã phát huy, khai thác triệt để các tiềm năng kinh tế,
huy động tối đa mọi nguồn lực và đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Chính vì vậy, những bài học trong giai đoạn trước thực sự sẽ là những đúc rút
kinh nghiệm quý báu mang tính thực tiễn cao, những bài học quý giá, tạo cơ
sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện đến năm
2010 đạt tốc độ tăng trưởng trên 15%, góp phần vào thực hiện những thắng
lợi các mục tiêu tăng trưởng và phát triển của huyện Hoàng Su Phì.
Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2010 có
vai trò đặc biệt quan trọng nhằm hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội giai đoạn
2006-2010, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại Hội X của Đảng, Nghị quyết
Đảng bộ tỉnh khoá XIV và Nghị quyết Đảng Bộ huyện khoá XVIII đã đề ra.
Bước vào những năm tiếp theo của giai đoạn (2006-2010) của thế kỷ
XXI, thế kỷ của toàn cầu hoá và hội nhập nền kinh tế quốc tế, Huyện Hoàng


Su Phì được kế thừa những thành quả phát triển của kế hoạch 5 năm (20012005), tiếp tục phát huy những kinh nghiệm tích luỹ trong khai thác nguồn
lực, trong chỉ đạo, quản lý điều hành phát triển, trong đổi mới quản lý kinh tế
- xã hội, tận dụng được những cơ hội mới với vị thế là một huyện cửa ngõ
phía Tây của Tỉnh Hà Giang. Song, cũng phải thừa nhận rằng là một huyện
vùng cao khi mà tình hình kinh tế xã hội của tỉnh cũng đứng trước nhiều
thách thức gay gắt, trước sự biến động nhiều mặt của khu vực và thế giới,
nhân dân và chính quyền huyện Hoàng su phì đã xác định rõ những nhiệm vụ
khó khăn trong giai đoạn 5 năm (2006-2010) tiếp theo. Trong đó; Huyện cần
tập trung vào việc bảo đảm ổn định vững chắc về chính trị, an ninh biên giới
và trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế toàn diện và bền vững, nâng cao

SV; Hà Việt Hưng

2

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

đời sống vật chất và văn hoá tinh thần cho nhân dân các dân tộc trong Huyện.
Với vai trò quan trọng của Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn hiện nay. Em quyết định chọn đề tài:
“Một số giải pháp quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế huyện Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang đến năm 2010”.

Nội dung và kết cấu của luận văn bao gồm;


Lời giới thiệu;
Chương I: Quản lý Nhà nước và tăng trưởng kinh tế
Chương II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế Huyện Hoàng Su
Phì và vai trò Quản lý Nhà nước của Huyện
Chương III: Giải pháp quản lý Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế Huyện Hoàng Su Phì đến năm 2010.
Kết luận;

SV; Hà Việt Hưng

3

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

Chương I
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ HUYỆN
I. Tăng trưởng kinh tế huyện.
1. Khái niệm.
Tăng trưởng kinh tế Huyện là một khái niệm bao quát cả ba lĩnh vực:
tăng trưởng giá trị, tăng trưởng dân số và tăng trưởng vật chất. Đây là ba khía
cạnh có quan hệ mật thiết, luôn luôn liên kết và tác động lẫn nhau. Tăng
trưởng kinh tế là nhân tố có tính chất quyết định đối với sự phát triển của
huyện. Do đó, nắm bắt rõ và sâu sắc khái niệm về tăng trưởng kinh tế huyện
là điều kiện cần thiết nhất nhằm phát triển các đề xuất về sau. Ba điểm cơ bản
và chủ yếu của Huyện là tính cách không gian khu vực của sự thống nhất hữu

cơ, của thực thể kinh tế, thực thể xã hội và thực thể vật chất, các ngành kinh
tế, dân số và kiến trúc. Tuy nhiên xét về mặt lịch sử phát triển của huyện và
phương thức trưởng thành của huyện thì thực thể huyện trước hết là thực thể
kinh tế. Tựu chung lại, tăng trưởng kinh tế huyện gồm:
Thứ nhất: Kinh tế huyện là hệ thống kinh tế xã hội gồm các ngành
kinh tế có đặc trưng cơ bản là tập trung về địa lý, tiến bộ về công nghệ,
chuyên môn hoá hệ thống tổ chức và hiệu quả kinh doanh cao, chúng không
chỉ phân bố ở các ngành sản xuất vật chất và các ngành kinh doanh như; Công
nghiệp, Thương nghiệp, Xây dựng, Giao thông vận tải, mà còn gồm các
ngành sinh hoạt xã hội như dịch vụ, du lịch, tiền tệ, tài chính, bảo vệ môi
trường, phúc lợi xã hội. Đó là tính đa dạng hoặc tính chất khác nhau về chất
của huyện, đồng thời cũng là toàn bộ cơ sở của tăng trưởng kinh tế huyện.
Thứ hai: Kinh tế huyện là tập hợp của cải xã hội với các loại dạng
xét theo khía cạnh nội dung vật chất, không chỉ bao gồm các yếu tố sản
xuất vật chất như đất đai, tài nguyên, vốn, sức lao động, công nghệ và

SV; Hà Việt Hưng

4

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

thông tin; mà còn bao gồm các yếu tố sinh hoạt hoặc yếu tố sản xuất vật
chất gián tiếp như các loại hàng hoá lưu động, các loại kiến trúc và các
công trình công cộng, phúc lợi xã hội không ngừng biến đổi trong huyện,

đây là tế bào vật chất của huyện.
Thứ ba: Ở các giai đoạn phát triển khác nhau của kinh tế huyện, điều
kiện môi trường kinh tế xã hội khác nhau, tăng trưởng giá trị, tăng trưởng dân
số và tăng trưởng vật chất có ý nghĩa khác nhau đối với quá trình phát triển
kinh tế huyện.
Tính tiên tiến của quá trình tăng trưởng kinh tế huyện, không chỉ có
tính hợp lý của tỷ lệ các yếu tố vật chất và tính hiệu quả cao của việc sản xuất
ra các ngành sản xuất vật chất, mà còn ở tính tiên tiến và tính hợp lý của
phương thức kết hợp toàn bộ các ngành kinh tế huyện, nhất là giữa các ngành
sản xuất với các ngành kết cấu hạ tầng, cũng như ở sự ăn khớp giữa các ngành
kinh tế chủ đạo với toàn bộ các ngành kinh tế của huyện.
Tăng trưởng giá trị, tăng trưởng dân số và tăng trưởng vật chất của
huyện luôn quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Các ngành kinh tế
hiện đại đều mang tính dung hoà kinh tế - xã hội rõ ràng, đặc tính này được
biểu hiện tập trung ở sự phát triển của tổng hợp hoá, thông tin hoá, xã hội hoá
của các ngành trong huyện và sự tăng cường mức độ quan hệ giữa chúng.
Điều này không thể không đưa chúng ta đến chỗ chúng ta phải suy nghĩ và
nhận thức lại đối với cơ chế tăng trưởng kinh tế của huyện và chính sách đối
với các ngành kinh tế trong toàn địa bàn.
2. Ý nghĩa.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các huyện trong
phạm vi tỉnh, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn phát triển
của bản thân huyện đó.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kinh tế, các mục tiêu chỉ ra phương

SV; Hà Việt Hưng

5

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)



Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

hướng và yêu cầu số lượng cho các hoạt động quản lý của Nhà nước nhằm
giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản nhất như; Tăng trưởng kinh tế,
rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xoá đói
giảm nghèo, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế…v.v, những mục tiêu này
phải thể hiện một cách tập trung, những biến đổi quan trọng nhất về lượng và
chất của nền kinh tế và đời sống xã hội, những mốc mới phải đạt được trên
con đường tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này càng có ý nghĩa quan
trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến
kịp và hội nhập với các nước phát triển.
3. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế huyện
3.1. Chỉ tiêu chung đánh giá tăng trưởng kinh tế.
Đo lường tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề có tính bản
chất của việc phân tích kinh tế huyện. Cũng như muốn tìm hiểu sự thật về một
sự vật thì phải làm rõ mối quan hệ biến đổi về mặt số lượng của các nhân tố
ảnh hưởng đến nó. Về điểm này, các nhà kinh tế học phương tây đã làm được
nhiều việc. Nhưng đặt trong sự phát triển kinh tế như nước ta hiện nay, thì
còn xa mới có đủ điều kiện để tiến hành phân tích thuần tuý về mặt số lượng.
Sự tăng trưởng của một nền kinh tế được biểu hiện ở sự gia tăng sản
lượng hàng năm do nền kinh tế đó tạo ra. Vì vậy, số đo chung sự tăng trưởng
kinh tế huyện nói riêng và tăng trưởng kinh tế quốc dân nói chung thường bao
gồm các đại lượng: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân
(GNP), sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP), thu nhập quốc dân sản xuất
(NI), thu nhập quốc dân sử dụng (NDI). Trong đó, GDP và GDP bình quân
đầu người là số đo được áp dụng rộng rãi nhất trong việc phân tích tăng

trưởng kinh tế.
GDP là đại lượng dùng để đo sản lượng ròng hay giá trị gia tăng của
một nền kinh tế bằng cách đo lường hàng hoá và dịch vụ được mua bằng tiền,

SV; Hà Việt Hưng

6

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

không tính phần sản lượng không được mua vào và bán ra.
3.2. Các chỉ tiêu đo lường sự tăng trưởng kinh tế của huyện.
Số đo tăng trưởng kinh tế là một vấn đề cốt lõi của kinh tế học lý luận.
Số đo cụ thể sự tăng trưởng kinh tế hết sức đa dạng, tuỳ theo các mục đích
khác nhau của sự phân tích mà sử dụng các đại lượng khác nhau. Tốc độ tăng
trưởng của một nền kinh tế bất kỳ được biểu hiện ở mức tăng phần trăm hàng
năm sản lượng của nó, vì vậy xét về mặt nguyên tắc để đo lường sự tăng
trưởng kinh tế huyện thì phải tiến hành phân tích mối quan hệ hàm số giữa
mức sản lượng với các nhân tố chế ước nó. Sự phân tích được bắt đầu từ hàm
sản xuất sau:
Sản lượng = f (vốn sản xuất, số lượng lao động, tài nguyên thiên
nhiên, kỹ thuật công nghệ)
Theo hàm sản xuất trên thì có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sản
lượng nhưng trong thực tiễn khi phân tích sự tăng trưởng kinh tế huyện phải
chú ý nhiều hơn đến nhân tố vốn sản xuất. Quan trọng là các nhân tố sau:

3.2.1. Lượng tăng nhu cầu và lượng tăng đầu tư: Sự gia tăng đầu tư
được thực hiện thông qua hai hình thức.
+ Một là nhu cầu hàng hoá trên thị trường kéo giá cả lên cao, nó trở
thành tín hiệu chỉ đạo của việc đầu tư không đủ cho ngành đó, trong điều kiện
sử dụng đầu tư còn chưa đầy đủ, có thể gia tăng đầu tư tự chủ (tự đầu tư của
ngành, doanh nghiệp ).
+ Hai là, đầu tư tự chủ dẫn đến sự mở rộng cơ cấu nhu cầu của các
ngành và các doanh nghiệp khác, phát sinh sự gia tăng đầu tư dẫn xuất.
3.2.2. Hiệu suất công nghệ: Hiệu suất công nghệ ở đây đại diện cho sự
ảnh hưởng lớn hay nhỏ của hình thái công nghệ và trình độ tiến bộ công nghệ
kết tinh trong đầu tư đối với sự tăng trưởng kinh tế. Do đó trong toàn bộ quá

SV; Hà Việt Hưng

7

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

trình tăng trưởng kinh tế huyện, hiệu suất công nghệ không chỉ biểu hiện
thành hệ số điều tiết của năng suất đầu tư mà còn trực tiếp là một yếu tố của
tăng trưởng kinh tế. Thậm chí có trường hợp, tác dụng của nâng cao hiệu suất
công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế huyện, biểu hiện thành bội số của tác
dụng nâng cao hiệu suất đầu tư.
3.2.3. Sự tổn thất của sức sản xuất đầu tư. Nguyên nhân gây ra sự tổn
thất này là:

+ Sự hạn chế của việc cung cấp các yếu tố phi vốn. Tài nguyên thiên
nhiên, sức lao động;
+ Sự tổn thất của việc thay thế đầu tư, lợi ích cơ hội;
+ Sự tổn thất của việc cung cấp đồng bộ vốn (vốn tiền tệ, vốn hàng
hoá) hoặc là sự tổn thất của việc đầu tư sai lầm do cơ chế điều phối đầu tư
buông lỏng gây ra.
+ Sự biến đổi của nhu cầu thị trường cũng có thể làm cho quy mô và cơ
cấu đầu tư đã được hình thành không thể hoàn toàn thích ứng với sự biến đổi
đó, dẫn đến giảm thiểu tỷ suất hiện thực của năng suất đầu tư. Mặc dù như
vậy, ở đây vẫn coi các loại tổn thất nói trên là một hiện tượng không bình
thường, mà thực ra hiện nay vẫn chưa có cách để tính toán chuẩn xác.
3.2.4. Hiệu quả ngoại vi và tài chính công cộng. Hiệu quả ngoại vi có
nghĩa là huyện cho phép người đầu tư khi đề ra quyết sách có thể xem nhẹ sự
chênh lệch giữa hiệu quả xã hội với hiệu quả doanh nghiệp. Hiệu quả ngoại vi
có thể là một lại lợi ích hoặc là một loại giá thành, vì vậy về mặt lý luận nó
được chia ra thành (ngoại vi tích cực và ngoại vi tiêu cực).
Đặc tính của hiệu quả ngoại vi do hoạt động đầu tư của doanh nghiệp
trực tiếp gây ra, nhưng xã hội lại hưởng thụ thành quả hoặc gánh chịu toàn bộ
hậu quả. Ở đây tài chính công cộng giữ vai trò quyết định, sự điều tiết của

SV; Hà Việt Hưng

8

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý


chính sách cũng có tác dụng tương đối lớn.
4. Các điều kiện để tăng trưởng.
4.1. Tầm quan trọng của mục tiêu tăng trưởng.
Tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao có nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
nước ta. Không có tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, chúng ta sẽ không biết
bắt đầu từ đâu để rút ngắn cự ly với các nước trong khu vực càng không thể
đuổi kịp các nước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế trong hệ thống mục tiêu quản lý nhà nước về kinh
tế cần có sự thống nhất giữa chất lượng và số lượng. Tỷ lệ phần trăm tăng
trưởng chỉ là biểu hiện bên ngoài, ẩn dấu sau nó là chất lượng của tăng trưởng
kinh tế. Ngoài ra tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng cân bằng. Mục tiêu
tăng trưởng kinh tế phải chú trọng đến sự tăng trưởng cân bằng của các ngành
kinh tế. Tuy nhiên điều đó cũng không phủ nhận một số ngành nào đó có sự
ưu tiên tăng trưởng. Nhìn bề ngoài, mục tiêu tăng trưởng kinh tế và mục tiêu
ổn định kinh tế là xung đột với nhau. Tuy nhiên trong thực tế điểm liên kết
của hai mục tiêu quản lý này là ở chỗ cân bằng. Không có cân bằng, mục tiêu
tăng trưởng kinh tế sẽ đi theo hướng phản diện, mục tiêu ổn định kinh tế cũng
không biết đi từ đâu mà bàn.
Theo nhà kinh tế học người Anh Batơn đề ra ba điều kiện đảm bảo cho
sự tăng trưởng kinh tế đó là:
- Mức độ tương tự của cơ cấu kinh tế đô thị với cơ cấu kinh tế quốc
dân. Tính tương tự này quyết định bởi độ nhạy cảm của kinh tế đô thị đối với
tổng mức kinh tế quốc dân.
- Tính co giãn về thu nhập của sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của đô thị.
Tính co giãn thu nhập tương đối lớn chứng tỏ thu nhập quốc dân của đô thị có
thể tăng trưởng càng nhanh so với thu nhập quốc dân của cả nước, còn tính co

SV; Hà Việt Hưng


9

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

giãn thu nhập tương đối nhỏ nói lên rằng sự tăng trưởng của xuất khẩu hàng
hoá đô thị gặp nhiều khó khăn.
- Tính linh hoạt và tính nhạy cảm đối với sự biến động của nền kinh tế
cần xây dựng một hệ thống các ngành kinh tế linh hoạt, năng động thì mới có
thể thích ứng đầy đủ với yêu cầu biến đổi của thị trường không ngừng đổi mới
và hợp lý hoá hệ thống tổ chức các ngành kinh tế.
Như vậy, các điều kiện tác động tới tăng trưởng kinh tế huyện có thể
tựu chung xem xét dưới hai khía cạnh sau:
4.2. Xét theo khía cạnh tình trạng kinh tế và trình độ phát triển của
các ngành kinh tế xung quanh huyện.
Huyện, thị xã hay đô thị với tính cách là một thực thể kinh tế mở cửa
nó có mối liên hệ kinh tế rộng rãi với khu vực xung quanh Huyện, cùng với
khu vực xung quanh không chỉ hình thành chỉnh thể của hệ thống sản xuất,
mà còn hình thành mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ, thông tin tương đối độc
lập. Trong mối liên hệ kinh tế với khu vực xung quanh huyện do điều kiện
kinh tế ưu việt của mình, nó có tác dụng thu hút và tác dụng khuyếch tán to
lớn đối với các khu vực xung quanh. Các điều kiện kinh tế chủ yếu là:
- Hình thức công nghiệp hiện đại tiến bộ, có thể sản xuất chuyên môn
hoá và hợp tác hoá, có hiệu quả kinh tế tương đối cao.
- Điều kiện kỹ thuật tiên tiến, làm cho huyện có ưu thế cạnh tranh, do
vậy có thể thu hút vào huyện một số lượng lớn tài nguyên.

- Hệ thống thương mại, tiền tệ hoàn thiện, làm cho huyện trở thành thị
trường tài nguyên về sản phẩm rất lớn, do đó trở thành nơi tập trung các
nguồn tài nguyên của khu vực.
- Hệ thống dịch vụ hoàn hảo, tăng cường công năng và nâng cao hiệu
suất của huyện.

SV; Hà Việt Hưng

10

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

Mặt khác, tăng trưởng kinh tế huyện lại chịu sự ảnh hưởng của tình
trạng kinh tế và trình độ phát triển của các ngành kinh tế của khu vực xung
quanh. Không chỉ kinh tế huyện gặp phải có sự cạnh tranh của khu vực xung
quanh đối với tài nguyên và các yếu tố sản xuất, hơn nữa trình độ phát triển
các ngành kinh tế của khu vực xung quanh cũng ảnh hưởng đến thị phần
chiếm lĩnh thực tế của huyện.
4.3. Xét theo khía cạnh trình độ tương quan của kinh tế huyện với
huyện và với nền kinh tế quốc dân, ảnh hưởng tới tốc độ và tính ổn định
của tăng trưởng kinh tế huyện.
Do tính tương quan của kinh tế huyện với huyện, thị xã và nền kinh tế
quốc dân, sẽ từ hai mặt ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế huyện.
Thứ nhất; sự khác biệt giữa trình độ chuyên môn hoá các ngành kinh tế
huyện với cơ cấu các ngành kinh tế quốc dân. Sự khác biệt này không chỉ ảnh

hưởng đến thị phần mà huyện chiếm lĩnh trong thị trường quốc nội, đồng thời
cũng ảnh hưởng đến độ nhạy cảm của kinh tế huyện. Nói chung, nền kinh tế
huyện với trình độ chuyên môn hoá cao, có tính độc lập lớn và sức cạnh tranh
thị trường mạnh, nhưng tính co giãn kém và thích ứng thị trường yếu.
Thứ hai; tính không ăn khớp giữa chu kỳ đổi mới các ngành kinh tế
quốc dân sẽ giảm bớt sự ảnh hưởng của đại tuần hoàn đầu tư trong nước đối
với sự tăng trưởng kinh tế huyện, đồng thời cũng lan truyền đến sự biến đổi
tính co giãn thu nhập của sản phẩm xuất khẩu của huyện. Bởi lẽ, thị trường
thống nhất quốc nội với chu kỳ đổi mới kinh tế quốc dân trên mức độ lớn là
ăn khớp với nhau, cơ cấu của nhu cầu thị trường về căn bản quyết định bởi cơ
cấu và mức thu nhập, nhưng chịu sự ảnh hưởng rất lớn của hệ thống sản xuất.
(Sơ đồ minh hoạ)

SV; Hà Việt Hưng

11

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp
ĐẦU VÀO

Khoa: Khoa học quản lý
SỰ CÂN BẰNG

ĐẦU RA

CỦA THỊ TRƯỜNG


Mức thu nhập
Giá tiêu dùng
Các chính sách kinh tế

- Cầu
B
A

Vốn sản xuất
Lao động
Tài nguyên
Khoa học, công nghệ
Quản lý tổ chức
Quy mô sản xuất
……………….

B
- Cung

Tổng
sản
phẩm
quốc
nội

A

Sơ đồ1; Mối quan hệ các nhân tố kinh tế của sự tăng trưởng

II. Vai trò cơ bản của Nhà nước trong tăng trưởng kinh tế

Xét về lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng; Thị trường là
yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa
tổng mức cung và tổng mức cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc
làm, tỷ lệ thất nghiệp, mức giá, tỷ lệ lạm phát, đó là cơ sở để giải quyết ba vấn
đề cơ bản của nền kinh tế.
Mặt khác, một chiều hướng nổi bật trong lịch sử hiện đại là vai trò ngày
càng tăng của Chính phủ trong đời sống kinh tế. Việc mở rộng kinh tế thị
trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước không chỉ vì thị trường có

SV; Hà Việt Hưng

12

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

những khuyết tật, mà còn vì xã hội đặt ra mục tiêu mà thị trường dù có hoạt
động tốt cũng không thể đáp ứng được.
Theo Samuelson, trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại, Nhà nước có 4
chức năng chính cơ bản: Thiết lập khuôn khổ pháp luật; xác định chính sách
ổn định kinh tế vĩ mô; tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu
quả kinh tế. Theo ông, Nhà nước cần tạo ra môi trường ổn định để cho các
doanh nghiệp và các hộ gia đình có thể tiến hành sản xuất và trao đổi sản
phẩm một cách thuận lợi.
Nhà nước cũng cần đưa ra những sản phẩm một cách thuận lợi. Chính
phủ cũng cần đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế và những

hướng ưu tiên cần thiết cho từng thời kỳ và sử dụng các công cụ như thuế
quan, chương trình tín dụng, trợ giá để hướng dẫn các ngành, các doanh
nghiệp hoạt động.
Nhà nước cũng thường xuyên tìm cách duy trì công ăn, việc làm ở mức
cao bằng cách đưa ra cách chính sách thuế, chi tiêu và tiền tệ hợp lý. Đồng
thời, khuyến khích một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vững chắc, chống lạm phát
và giảm ô nhiễm môi trường. Nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập của
cải giữa các doanh nghiệp và các hộ gia đình thông qua thuế thu nhập, thuế tài
sản và những biện pháp khác. Chính phủ cũng thực hiện các hoạt động phúc
lợi công cộng như cung cấp phúc lợi cho người già, người tàn tật và những
người thất nghiệp. Tóm lại, các vai trò to lớn của Nhà nước đối với tăng
trưởng kinh tế gồm bốn vấn đề chủ yếu:
1. Vai trò định hướng phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường thuần tuý, cơ chế thị trường không thể giải
quyết có hiệu quả những vấn đề cơ bản, những khuyết tật nảy sinh trong quá
trình hoạt động. Nó chỉ có thể được giải quyết bằng sự can thiệp của Nhà
nước thông qua các loại hình kế hoạch và các công cụ quản lý khác nhau. Để

SV; Hà Việt Hưng

13

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

các thành phần kinh tế có thể phát triển nhanh và bền vững mặt khác lại

không đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò to lớn của Nhà nước
lại càng được khẳng định hơn bao giờ hết.
Vai trò định hướng phát triển kinh tế là vai trò quan trọng nhất của Nhà
nước đối với tăng trưởng kinh tế. Nhà nước phải căn cứ vào điều kiện kinh tế
của từng thời kỳ nhất định để tiến hành lựa chọn chính xác mục tiêu phát triển
kinh tế và phương án thực thi cho thời kỳ nhất định trong tương lai. Cụ thể là
Nhà nước phải lựa chọn mục tiêu chung dài hạn của phát triển kinh tế trong
một thời kỳ dài và các biện pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu chung dài
hạn đó cùng với những kế hoạch trong từng giai đoạn cụ thể. Xuất phát từ góc
độ toàn cục, tổng thể mà Nhà nước xác định phương hướng, quy mô, cơ cấu
và tốc độ phát triển nền kinh tế quốc dân, phối hợp và điều hoà sự phát triển
của các ngành, các lĩnh vực, các khu vực.
Bên cạnh việc kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quốc gia
còn phải gắn kết hài hoà lợi ích khu vực và lợi ích tổng thể đất nước, khắc
phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
Sự can thiệp của Nhà nước nhằm ổn định và phát triển kinh tế đã được
thừa nhận cả về mặt lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế ở các nước trên thế
giới song các hình thức và phương pháp can thiệp của các Chính phủ lại rất
khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại là Chính phủ phải làm như thế nào để cân
đối tổng cung cầu xã hội và cơ cấu sản xuất xã hội không chỉ trong bộ phận
mà là trong tổng thể, không chỉ trong ngắn hạn và hình thức mà còn trong dài
hạn và cơ bản, trong định hướng phát triển chung của cả quốc gia. Đây là
phương hướng chỉ đạo quan trọng của phát triển lâu dài và ổn định của nền
kinh tế; là hạt nhân của quản lý kinh tế, xuyên suốt quá trình quản lý nền kinh
tế, là cơ sở để thực hiện và phát huy các chức năng khác của quản lý kinh tế.

SV; Hà Việt Hưng

14


Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

2. Vai trò tạo môi trường cho tăng trưởng kinh tế.
Nền kinh tế thị trường chứa đựng trong nó xu thế hội nhập khu vực và
hội nhập thế giới. Hội nhập đem đến cho nền kinh tế quốc dân những cơ hội
phát triển, song cũng không ít khó khăn thách thức. Nhất là đối với các quốc
gia có nền kinh tế đang phát triển, còn thua kém những nước phát triển về
nhiều phương diện như Việt Nam thì vai trò của Nhà nước để tạo ra môi
trường thuận lợi, ưu đãi để tăng trưởng kinh tế là hết sức cần thiết.
Nếu không có sự can thiệp hữu hiệu của Nhà nước bằng các chính sách
đối ngoại thì sẽ không có được các nguồn lực nước ngoài kể cả vốn, công
nghệ, thị trường và kinh nghiệm quản lý, đồng thời khó có thể khắc phục
được những bất cập do hội nhập sinh ra, kể cả những vấn đề kinh tế, văn hoá
và chủ quyền quốc gia.
Nhà nước phải thiết lập đồng bộ hệ thống pháp luật và thi hành nhất
quán các chính sách đã ban hành để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho
các nhà kinh doanh trong, ngoài nước yên tâm sản xuất kinh doanh, chú trọng
bảo đảm sự hoạt động bình thường của các loại thị trường hàng tiêu dùng, tư
liệu sản xuất, bất động sản, vốn, sức lao động…, vì đây là những yếu tố rất
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng kinh tế của một đất nước.
Vai trò tạo môi trường cho tăng trưởng kinh tế của Nhà nước quy định
rõ chức năng và cơ cấu tương ứng của các phân hệ của hệ thống tổ chức và
quản lý nền kinh tế, làm cho các phân hệ, bộ phận này ăn khớp với nhau, phối
hợp chặt chẽ hình thành hệ thống quản lý kinh tế nhằm mục tiêu chung là tăng
trưởng, phát triển lâu dài bền vững cho nền kinh tế quốc dân.

3. Vai trò hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế
Hạn chế độc quyền, khuyến khích cạnh tranh, giải quyết thoả đáng vấn
đề ngoại ứng kể cả những ngoại ứng tích cực và tiêu cực thì chỉ có Nhà nước
với các công cụ quyền lực trong tay mới có thể thực hiện được. Nền kinh tế

SV; Hà Việt Hưng

15

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

quốc dân có tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ hay không? không thể chỉ có sự
nỗ lực phấn đấu của riêng các thành phần kinh tế bởi vì các chủ thể này chỉ
chạy theo lợi nhuận tối đa của họ mà còn rất cần sự can thiệp với vai trò hỗ
trợ của Nhà nước. Nhà nước ở đây với vai trò là tài phán viên và huấn luyện
viên của thị trường sẽ tạo ra sân chơi bình đẳng, công bằng trong cạnh tranh
để tạo điều kiện tốt nhất cho các thành phần kinh tế phát huy tác dụng, thúc
đẩy phát triển nhanh và bền vững.
Nhà nước phải vận dụng tổng hợp, linh hoạt các phương pháp hành
chính, kinh tế, giáo dục và pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp để điều tiết các
quan hệ kinh tế giữa các cấp, các khâu, các ngành, các khu vực của nền kinh
tế quốc dân, dẫn dắt hành vi của các chủ thể vi mô theo định hướng chung của
toàn bộ nền kinh tế vĩ mô.
Vai trò hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế có vai trò quan trọng trong việc
thực thi kế hoạch kinh tế quốc dân. Nền kinh tế được sự hỗ trợ bởi những

công cụ, kế hoạch, chính sách của Nhà nước sẽ phát triển đầy đủ, bền vững và
nhanh chóng hơn.
4. Vai trò cung cấp các dịch vụ công.
Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá công cộng không được cung cấp
đầy đủ, bởi vậy vai trò của Nhà nước trong vấn đề này là rất quan trọng. Đối
với các lĩnh vực hoạt động công cộng với đặc trưng tiêu dùng công như; Quốc
phòng, An ninh, bảo vệ môi trường, Văn hoá, Khoa học kỹ thuật, Y tế, Giáo
dục, giao thông, thông tin… Thị trường không thể phát huy tác dụng, do đó
Chính phủ cần phải có sự can thiệp. Những hàng hoá công cộng khó có thể
được cung cấp đầy đủ cho mọi người thông qua hệ thống thị trường tư nhân là
vì: Mọi người trong xã hội đều có nhu cầu, do tính chất sử dụng miễn phí của
hàng hoá công cộng và do lợi ích riêng của người sản xuất hàng hoá công
cộng ít hơn nhiều và phục vụ lợi ích toàn xã hội. Chính vì vậy mà hầu như

SV; Hà Việt Hưng

16

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

không tồn tại khái niệm doanh nghiệp tư nhân sản xuất hay cung cấp hàng
hoá công cộng cho xã hội. Có chăng thì điều đó là rất hiếm và hãn hữu. Qua
đó ta có thể thấy được tầm quan trọng đến mức nào của Nhà nước trong lĩnh
vực này.
Sự can thiệp của Chính phủ nhằm đảm bảo hàng hoá công cộng được

thực hiện thông qua hai phương thức chủ yếu.
Thứ nhất; Nhà nước trực tiếp cung cấp những hàng hoá này thông qua
các cơ quan và tổ chức của mình, đó là các cơ quan và các doanh nghiệp Nhà
nước.
Thứ hai; Nhà nước gián tiếp cung cấp những hàng hoá công cộng thông
qua định hướng và chính sách nhằm thu hút các tổ chức trong xã hội tham gia
vào việc cung cấp các hàng hoá công cộng cho xã hội.

III. Các công cụ quản lý Nhà nước.
Một nền kinh tế vận hành một cách bình thường, và điều kiện truyền
dẫn tác động quản lý của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận
hợp thành của nó như là các huyện, tỉnh. Chính vì vậy mà hệ thống các công
cụ đó có tác dụng to lớn trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, góp phần nâng cao hiệu suất của hoạt động quản lý kinh tế
quốc dân.
Cũng giống như tất cả các huyện khác trên địa bàn Hà giang hay cả
nước. Huyện Hoàng Su Phì trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển cần phải
áp dụng toàn bộ hệ thống các công cụ quản lý kinh tế quốc dân một cách toàn
diện và vân dụng linh hoạt. Đó là điều kiện cần thiết để xây dựng một nền
kinh tế phát triển theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa mà Nhà nước ta đã xây
dựng trong giai đoạn qua.
Để quản lý nền kinh tế quốc dân, Nhà nước phải sử dụng các công cụ
quản lý của mình với tư cách là vật truyền dẫn các tác động quản lý của chủ
SV; Hà Việt Hưng

17

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)



Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

thể quản lý xã hội lên các đối tượng quản lý và khách thể quản lý. Như vậy,
các công cụ quản lý kinh tế quốc dân chính là các phương tiện hữu hình hoặc
vô hình mà Nhà nước dùng để tác động lên các chủ thể kinh tế nhằm đạt được
các ý đồ, mục tiêu của mình. Chính nhờ các công cụ quản lý mà Nhà nước
truyền tải được các ý định và ý chí của mình lên mỗi con người, mỗi hệ thống
trên toàn bộ các vùng đất nước và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở
bên ngoài.
Các công cụ quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước nói chung, các công
cụ điều hành nền kinh tế quốc dân nói riêng bao gồm các quyết định quản lý
điều hành, được phân thành các loại kế hoạch; pháp luật, chính sách kinh tế,
….
1. Công cụ kế hoạch
Kế hoạch Nhà nước là một hệ thống, bao gồm tất cả các khâu, các giai
đoạn hoạt động từ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hàng năm, chương trình,
dự án. Chính vì vậy nâng cao chất lượng kế hoạch hoá là một đòi hỏi mang
tính cấp bách không thể không giải quyết trong giai đoạn hiện nay. Do đó, cần
phải tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin kinh tế - xã hội, phân
tích và dự báo xu hướng vận động, phát triển của nền kinh tế quốc dân và của
xã hội.
Kế hoạch là tập hợp các mục tiêu và phương thức để đạt được mục tiêu.
Lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải làm gì? Làm như
thế nào? Làm bằng công cụ gì? Khi nào làm và ai làm? Mặc dù chúng ta ít khi
tiên đoán chính xác được tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát
có thể phá vỡ cả những kế hoạch tốt nhất đã có, nhưng nếu không có kế hoạch
thì các sự kiện sẽ diễn ra một cách ngẫu nhiên và ta sẽ mất đi khả năng hành
động một cách chủ động.

Kế hoạch xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn khách quan và do đó

SV; Hà Việt Hưng

18

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

mục đích của nền sản xuất xã hội là sản xuất ra tối đa của cải vật chất đáp
ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của mọi thành viên trong xã hội. Bởi vậy
nhận thức và vận dụng những quy luật khách quan là điều kiện bắt buộc để
bảo đảm tính hiện thực và tính có căn cứ khoa học của các giải pháp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, kế hoạch Nhà nước là lấy đường
lối, chính sách của Đảng làm căn cứ cơ bản, xem thị trường là đối tượng và là
căn cứ quan trọng nhất; kết hợp với kế hoạch hoá với vận dụng cơ chế thị
trường. Điều đó hoàn toàn có nhiều chuyển biến tích cực và phát triển hơn về
chất so với kế hoạch Nhà nước thời bao cấp, kế hoạch mới mang tính định
hướng và tổng quát, điều tiết gián tiếp thông qua các đòn bẩy kinh tế, hướng
vào hiệu quả kinh tế - xã hội, kết hợp kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân với
kế hoạch phát triển xã hội, cân đối hài hoà phương hướng, mục tiêu phát triển
với nguồn lực, phương tiện thực hiện phương hướng, mục tiêu đã định.
Để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công
tác kế hoạch cần được đổi mới theo hướng: Tập trung sức xây dựng chiến
lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình và dự án lớn
cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực; chuyển dần sang kế hoạch 5 năm

là chính, có phân ra chỉ tiêu từng năm, giảm nhẹ khối lượng công việc lập và
xét duyệt kế hoạch hàng năm. Kế hoạch Nhà nước phải bao quát các ngành,
các vùng, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Trong quá trình lập kế hoạch
có thể xuất hiện những sự thay đổi không lường trước về điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội, xuất hiện những khả năng mới về ứng dụng những thành tựu
của tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn, những biện pháp giải quyết
từng vấn đề riêng biệt trong từng giai đoạn của sự phát triển… Do đó cần
thiết và có khả năng điều chỉnh một số điểm trong lập kế hoạch đã thông qua
trước đây.
Như vậy công cụ kế hoạch cũng như quá trình lập kế hoạch không thể

SV; Hà Việt Hưng

19

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

chấm dứt bằng việc lựa chọn các giải pháp phương án tối ưu thông qua hệ
thống những chỉ tiêu và nhiệm vụ cân đối với nhau, có tính chất pháp lệnh và
được phân công cụ thể mà đòi hỏi còn phải có giai đoạn phân tích quá trình
thực hiện kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch có tính đến những kết quả thu
được trong quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch, sự tác động của những nhân
tố mới và sự thay đổi những điều kiện trong nước cũng như tình hình kinh tế chính trị bên ngoài. Có như vậy, kế hoạch mới trở thành một công cụ quản lý
nhà nước hữu hiệu và phát huy toàn bộ tính ưu thế tuyệt đối của nó.
Hệ thống kế hoạch của Nhà nước bao gồm những loại kế hoạch cơ bản

sau:
- Chiến lược: Là hệ thống các đường lối và biện pháp chủ yếu nhằm
đưa hệ thống đạt đến các mục tiêu dài hạn. Nội dung của chiến lược bao
gồm:
+ Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà hệ thống sẽ thực
hiện trong một thời gian đủ dài,
+ Các mục tiêu dài hạn cơ bản của hệ thống và
+ Các phương thức chủ yếu để đạt được những mục tiêu đó.
Sau một thời gian chiến lược, hệ thống phải đạt tới một trình độ phát
triển vượt bậc với những mục tiêu đặc trưng cho trình độ này.
- Các kế hoạch trung hạn; (thường là 5 năm) để cụ thể hoá các mục
tiêu, giải pháp được lựa chọn trong chiến lược. Kế hoạch trung hạn là loại kế
hoạch rất quan trọng, là định hướng khung cho quá trình phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
- Các chương trình mục tiêu: Được xây dựng rất phổ biến nhằm xác
định đồng bộ các mục tiêu, các chính sách, các bước cần tiến hành, các nguồn
lực cần sử dụng để thực hiện một số ý đồ lớn, một mục đích nhất định nào đó
của Nhà nước. Chương trình thường gắn với các ngân sách cần thiết.
SV; Hà Việt Hưng

20

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

- Các chương trình: Có thể là những chương trình lớn và dài hạn như

chương trình bảo tồn và phát triển nền văn hoá dân tộc hay chương trình
trung hạn nhằm đào tạo lại cán bộ quản lý… Một chương trình lớn thường
bao gồm nhiều chương trình bộ phận và được giao cho những đơn vị khác
nhau thực hiện.
- Các kế hoạch năm: Là sự cụ thể hoá nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược, kế hoạch trung hạn, vào kết
quả nghiên cứu, điều chỉnh các căn cứ xây dựng kế hoạch cho phù hợp với
điều kiện của năm kế hoạch.
- Các dự án: Nhằm triển khai, thực thi các chương trình mục tiêu.
2. Công cụ pháp luật.
Nhà nước nào muốn tồn tại, phát triển và hoạt động có hiệu quả thì
không thể không áp dụng và điều chỉnh linh hoạt loại hình công cụ quan trọng
này. Để thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và hình thành đồng bộ
khuôn khổ pháp lý cần thiết cho nền kinh tế quốc dân hoạt động theo cơ chế
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước cần phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo một trình
tự pháp lý nhất định.
Pháp luật đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội và
mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành, đấu tranh phòng ngừa và
chống lại các tội phạm và các vụ việc vi phạm pháp luật; mọi hành động xâm
phạm lợi ích quốc gia, quyền lợi hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử
lý theo pháp luật. Chính vì tính nguyên tắc của nó mà các văn bản quy phạm
pháp luật bao gồm nhiều chủng loại, song tóm lại có thể gộp thành 2 nhóm
lớn như sau:
- Các văn bản Luật: Bao gồm Hiến pháp và luật. Các văn bản luật do
Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà xã hội

SV; Hà Việt Hưng

21


Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

chủ nghĩa Việt Nam ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản nhất,
quan trọng nhất và ổn định nhất. Chúng có hiệu lực pháp lý trên toàn bộ lãnh
thổ và có giá trị pháp lý cao nhất so với các văn bản dưới luật.
- Các văn bản dưới Luật: Bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật có
giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản luật, đồng thời nội dung của chúng không
được trái với các văn bản luật. Trong đó lại chia ra các văn bản dưới luật
mang tính chất luật và các văn bản pháp quy.
+ Các văn bản dưới luật mang tính chất luật bao gồm: Nghị
quyết của Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch Nước.
+ Các văn bản pháp quy gồm: Nghị quyết, Nghị định của Chính
phủ; Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định, chỉ thị, thông
tư của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; Nghị quyết, quyết định,
chỉ thị của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp.
Trong xã hội ngày nay Nhà nước pháp quyền, các quan hệ xã hội chủ
yếu được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật. Pháp luật trở thành công
cụ tối quan trọng của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý
sự vận hành của nền kinh tế xã hội theo mục tiêu đã định.
Tại điều 12, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(năm 1992) đã dẫn: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Vì vậy, để phát huy vai trò của công cụ pháp luật trong quản lý kinh tế
quốc dân, đi đôi với việc xây dựng và ban hành pháp luật, cần tăng cường

công tác tổ chức thực thi pháp luật. Vì Pháp luật bao gồm một hệ thống các
quy phạm có tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành và được Nhà nước
đảm bảo thực thi trong một thời gian dài để điều chỉnh quan hệ xã hội. Nên
muốn toàn dân hiểu và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật thì công tác quan
trọng đầu tiên là phải chú trọng phổ cập pháp luật rộng rãi, phát triển các hình

SV; Hà Việt Hưng

22

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

thức dịch vụ pháp lý; mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo các
luật gia, nhất là luật gia về kinh tế; kiện toàn bộ máy thực thi và kiểm tra việc
thực thi pháp luật. Hiệu lực thực thi pháp luật phụ thuộc tương đối lớn vào
tình hình vận dụng các hình thức thực thi pháp luật:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực thi pháp luật trong đó chủ thể
pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: Là hình thức thực thi pháp luật trong đó chủ thể
pháp luật thực hiện nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể
pháp luật có thể thực hiện hay không thực hiện quyền được pháp luật trao,
chứ không bị ép buộc phải thực hiện.
- Áp dụng pháp luật: Là hình thức thực thi pháp luật mang tính tổ chức,
quyền lực của Nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan Nhà nước và

người có thẩm quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền
theo trình tự, thủ tục do Nhà nước quy định nhằm cá biệt hoá những quy
phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể.
Vì là một công cụ đặc thù và hết sức quan trọng để Nhà nước dùng điều
hành nền kinh tế quốc dân, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt
buộc chung do Nhà nước đặt ra, bảo vệ và thực hiện nhằm mục tiêu duy trì và
phát triển xã hội nói chung, kinh tế nói riêng theo các đặc trưng xã hội mong
đợi.
Pháp luật của mỗi nước là một tổng thể quy phạm pháp luật và chế định
pháp lý thuộc nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước; trong
đó có tác động trực tiếp là pháp luật kinh tế. Pháp luật kinh tế là tổng hợp
những quy phạm pháp luật, những chế định pháp lý do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đặt ra trong các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội về quản lý kinh tế và kinh doanh trong và ngoài xã hội, các
quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các doanh nghiệp với nhau
SV; Hà Việt Hưng

23

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

trong hoạt động kinh doanh, các quan hệ giữa doanh nghiệp với người lao
động mà doanh nghiệp thuê mướn, sử dụng và các quan hệ xã hội khác (sử
dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường thiên nhiên…)
Việc sử dụng công cụ pháp luật để điều hành nền kinh tế quốc dân bao

gồm:
- Xây dựng và thực thi hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý kinh
tế, bao gồm:
+ Các yếu tố cần chi phối để quản lý sự phát triển kinh tế - xã hội trên
mọi phương diện, bảo đảm cho xã hội, phát triển ổn định, an toàn, bền vững.
+ Các quy định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan
thuộc bộ máy hành chính nhà nước về kinh tế từ Trung ương đến tận cơ sở
bao gồm: Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các Bộ, các cơ quan thuộc Chính
phủ; chính quyền địa phương các cấp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước
được thành lập theo luật định.
+ Các quy định chế độ công vụ và các quy chế công chức trong quản lý
kinh tế.
- Hệ thống các chế định về tài phán hành chính: Nhằm giải quyết
những mâu thuẫn phát sinh, khiếu tố, khiếu nại và sự vi phạm pháp luật của
các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước đối với công dân, đối với các tổ
chức xã hội trong các hoạt động kinh tế.
- Hệ thống các thủ tục hành chính: Nhằm giải quyết các mối quan hệ
giữa Nhà nước với công dân, với các tổ chức xã hội trong và ngoài nước trong
các hoạt động kinh tế. Hệ thống các thủ tục hành chính trong điều hành kinh
tế quốc dân tạo ra hệ thống dịch vụ mềm, hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế
được phát triển thuận lợi, giải phóng mọi trở ngại cho lực lượng sản xuất
trong nước phát triển. Đây đang là một vấn đề bức xúc được đặt ra cho bộ
máy quản lý nhà nước về kinh tế của mọi người.
3. Công cụ chính sách.
Chính sách điều hành nói chung, chính sách kinh tế nói riêng là tổng
SV; Hà Việt Hưng

24

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)



Luận văn tốt nghiệp

Khoa: Khoa học quản lý

thể các quan điểm, các chuẩn mực, các biện pháp, các thủ tục mà Nhà nước
sử dụng nhằm tác động lên đối tượng và khách thể quản lý để đạt được những
mục tiêu kinh tế trong số các mục tiêu chiến lược chung của đất nước một
cách tốt nhất sau một thời gian đã định.
Các quan điểm chính là các nguyên tắc thể hiện bản chất của một chế
độ xã hội được dùng để xem xét mọi vấn đề đặt ra trong tiến trình xây dựng
đất nước, đánh mất nó Nhà nước sẽ bị tiêu diệt, xã hội sẽ biến mất.
Các quan điểm còn là kim chỉ nam, chỉ đạo tất cả các hoạt động của các
phân hệ (địa phương, ngành). Nó là chuẩn mực để khi tiến hành lựa chọn các
mục tiêu, người ta không được phép gây tổn hại tới mục tiêu chung, lợi ích
chung của cả đất nước.
Thực tế đã chỉ rõ, để tiến hành quản lý xã hội, Nhà nước phải giải quyết
triển khai thực hiện rất nhiều mục tiêu khác nhau nhằm giải quyết các vấn đề
khác nhau theo các trình tự ưu tiên khác nhau. Như vừa phải lo phát triển kinh
tế, vừa phải chăm lo đến vấn đề an ninh - quốc phòng. Vừa phải giải quyết
vấn đề lo vốn để phát triển vùng dân tộc miền núi, vừa chăm lo sự nghiệp y
tế, giáo dục và nâng cao dân trí…
Như vậy, một hệ thống chính sách đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát
triển của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử nhất định sẽ là bảo đảm vững
chắc cho sự vận hành bình thường, hữu hiệu của nền kinh tế thị trường. Nhờ
đó mà có thể khơi dậy được các tiềm năng, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các
nguồn lực, phát huy tính tích cực, sáng tạo và ý chí vươn lên làm cho dân
giàu, nước mạnh của các tầng lớp dân cư. Ngược lại, chỉ cần một chính sách
sai lầm sẽ gây ra phản ứng tiêu cực dây chuyền đến các chính sách khác, cũng

như đến các bộ phận khác nhau của hệ thống công cụ quản lý kinh tế quốc
dân, kết quả là dẫn đến là giảm thiểu hiệu suất tác động của hệ thống chính
sách, làm suy yếu động lực phát triển kinh tế xã hội.
Chính sách kinh tế của mỗi nước, về thực chất, là một chủ trương tương
đối dài của Nhà nước để sử dụng các nguồn lực và cơ hội nhằm hướng dẫn,
SV; Hà Việt Hưng

25

Lớp; Quản lý kinh tế -K36 (ĐK)


×