Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp Vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 93 trang )

trờng đại học kinh tế quốc dân
khoa đầu t


khoá luận tốt nghiệp
Đề tài:
thu hút vốn đầu t vào các khu công nghiệp
vùng kinh tế đông nam bộ: thực trạng và giải pháp

Sinh viên thực hiện
Chuyên ngành
Lớp
Khoá
Hệ
Giáo viên hớng dẫn

: phạm thanh huyền
: KINH Tế ĐầU TƯ
: ĐầU TƯ B
: 46
: chính quy
: ths. phan thu hiền

Hà Nội - 2008


LỜI CAM ĐOAN
Toàn bộ nội dung và số liệu trong luận văn là do tác giả tự thu thập
và tự viết, không sao chép từ bất kỳ chuyên đề, luận văn nào khác ngoài
các tài liệu tham khảo như đã trích dẫn và được ghi trong phụ lục.
Hà Nội, ngày 5 tháng 6 năm 2008


Sinh viên thực hiện

Phạm Thanh Huyền


MỤC LỤC
PHỤ LỤC


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Nguyên câu

Viết tắt

Công nghiệp hoá

CNH

Hiện đại hoá

HĐH

Khu công nghiệp

KCN

Khu chế xuất

KCX


Sản xuất kinh doanh

SXKD

Trách nhiệm hữu hạn

TNHH

Triệu USD

Tr.USD


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 1.12. Đầu tư nước ngoài vào các KCN vùng kinh tế Đông Nam Bộ phân
theo hình thức đầu tư đến hết 2007..................................................................42
Bảng 1.13. Đầu tư trong nước vào các KCN Vùng kinh tế Đông Nam Bộ phân
theo loại hình doanh nghiệp đến hết năm 2007................................................43


Khóa luận tốt nghiệp

6

LỜI MỞ ĐẦU
Vùng kinh tế Đông Nam Bộ bao gồm 8 tỉnh và thành phố gồm TP. Hồ
Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Ninh Thuận và Binh Thuận là vùng kinh tế năng động, có tốc độ phát
triển cao về công nghiệp, thương mại, dịch vụ, trong đó đóng góp đáng kể vào

việc thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp là các khu công nghiệp. Tính
đến hết 2007 các tỉnh vùng kinh tế Đông Nam Bộ đã có tới 77 KCN với số
dự án và vốn đầu tư đăng ký vào trong các KCN gần bằng một nửa so với cả
nước. Việc phát triển các KCN đã góp phần vào nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của vùng như tăng thu ngân sách nhà nước, cải thiện trình độ công
nghệ, nâng cao tay nghề cho người lao động, giải quyết việc làm cho hàng
chục vạn lao động trực tiếp và lao động gián tiếp vào làm việc trong các khu
công nghiệp.
Mặc dù đem lại nhiều kết quả tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội,
song quá trình phát triển và thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp vùng
kinh tế Đông Nam Bộ đã bộc lộ một số tồn tại như: ô nhiễm môi trường,
thiếu quỹ đất dành cho việc sản xuất, cơ sở hạ tầng trong và ngoài các KCN
còn thiếu đồng bộ, việc thu hút vốn đầu tư còn mang tính tự phát… Do đó cần
phải có những giải pháp để khắc phục những tồn tại trên.
Vì vậy em chọn đề tài : Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp
Vùng kinh tế Đông Nam Bộ: Thực trạng và giải pháp
Phạm vi của đề tài này tập trung đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu
tư vào các khu công nghiệp Vùng kinh tế Đông Nam Bộ thời gian từ
2002-2007

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

7

Bố cục của đề tài gồm hai phần chính:
Chương I: Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp

Vùng kinh tế Đông Nam Bộ giai đoạn 2002-2007
Chương II: Phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh thu hút
vốn đầu tư vào các khu công nghiệp Vùng kinh tế Đông Nam Bộ
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu nhưng đề tài của em không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự đóng góp của các thầy cố giáo
để em hoàn thành đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo- ThS. Phan Thu Hiền, TS Trần Ngọc
Hưng Vụ phó- Vụ quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cùng các anh chị chuyên viên của Vụ đã giúp em hoàn thành chuyên đề
này.
Em xin chân thành cảm ơn!

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

8

CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ GIAI ĐOẠN 20022007

1.1. Khái quát thực trạng thu hút vốn đầu tư vào các khu công
nghiệp Việt Nam.
1.1.1. Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp
Ở miền Bắc, trong những năm hòa bình lập lại, đã thành lập một số
KCN, cụm công nghiệp như: KCN gang thép Thái Nguyên, KCN hóa chất

Việt Trì, cụm công nghiệp Thượng Đình ở Hà Nội. Ở Miền Nam, dưới chế
độ cũ đã bắt đầu thành lập các KCN; khu kỹ nghệ Biên Hòa, khu kỹ nghệ Trà
Nóc ( Cần Thơ). Song ý tưởng thành lập KCN theo phương thức hiện nay,
phù hợp với thông lệ quốc tế, chỉ xuất hiện sau khi luật đầu tư nước ngoài
được thông qua vào cuối năm 1987. Bước vào thập kỷ 90, tình hình thế giới
có nhiều diễn biến phức tạp, khiến cho nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó
khăn. Liên Xô sụp đổ, các nước Đông Âu tan rã và Hội đồng tương trợ kinh
tế giải thể làm thay đổi quy mô và hoạt động kinh tế. Do hậu quả trên, đến
năm 1991, Viện trợ từ Liên Xô cũ và các nước Đông Âu bị chấm dứt. Thị
trường xuất nhập khẩu đột ngột bị thu hẹp gây nhiều tổn thất cho các cơ sở
làm hàng xuất khẩu, nhất là hàng nông sản và nông sản chế biến. Mặt khác,
Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận gây cản trở cho sự phát triển hợp tác quốc tế
của nước ta với các nước và các tổ chức tài chính quốc tế.
Thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa,
chúng ta đã vượt qua những khó khăn thách thức, từng bước phá vỡ thế bao
vây, cấm vận, mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài. Một trong những lĩnh

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

9

vực hoạt động kinh tế đối ngoại được mở ra là thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Trong thời gian ngắn từ cuối những năm 1987 sau khi Luật Đầu tư
nước ngoài được Quốc hội khóa VIII thông qua đến năm 1991 ta đã tạo được
làm són tu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ.

Cùng với chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, KCX đầu
tiên của Việt Nam được ra đời vào năm 1991 nhằm tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu. Cũng trong khoảng thời gian 1991-1995 nền kinh
tế nước ta vẫn có những chuyển biến tích cực, đạt được tốc độ tăng trưởng
khá cao, liên tục và tương đối toàn diện, đưa đất nước ta ra khỏi khủng
hoàng kinh tế- xã hội, tạo tiền đề cần thiết để chuyến sang thời kỳ mới theo
hướng CNH, HĐH.
KCN theo mô hình mới ra đời cùng với chính sách đổi mới mở cửa do
Đại hội Đảng lần VI năm 1986 khởi xướng. Tại Hội nghị Đại biểu giữa
nhiệm kỳ khóa VII năm 1994 nêu: “ Quy hoạch các vùng, trước hết là các địa
bàn trọng điểm, các KCX, KKT đặc biệt, KCN tập trung” để thực hiện chiến
lược, quy hoạch và phân bố KCN, Nhà nước quyết định chủ trương phát triển
công nghiệp tập trung vào KCN theo quy hoạch đã được xác định. Phát triển
KCN nhằm đáp ứng các mục tiêu tạo đà tăng trưởng công nghiệp, tăng nguồn
hàng xuất khẩu, tạo thêm việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo
quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu
tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Đồng
thời phát triển KCN cũng để thúc đẩy cac cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát
triển, làm cơ sở cho việc phát triển các vùng công nghiệp, phát triển lực lượng
sản xuất.
Từ mô hình KCX đầu tiên được thành lập vào năm 1991, đến ngày
23/12/1994 KCN Nomura ( Hải Phòng) là KCN đầu tiên được thành lập ở
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp


10

Việt Nam. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng về CNH, HĐH, khai
thông và phát huy nội lực ngày 28/12/1994 Chính Phủ đã ban hành Nghị Định
192/CP kèm theo quy chế KCN và từ mốc thời gian này KCN phát triển
nhanh về số lượng và chất lượng.
Đến cuối tháng 12/2007, cả nước đã có 183 KCN được Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 43.678 ha, trong đó
diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 29179 ha.
Các KCN, được phân bố theo hướng vừa tập trung đẩy mạnh phát triển
công nghiệp ở các vùng có lợi thế và tiềm năng, vừa tạo điều kiện để các địa
phương có ít lợi thế hơn có động lực để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
154 KCN được Thủ tướng Chính phủ thành lập đến tháng 12/2007 phân
bố trên 55 tỉnh, thành phố trên cả nước.
Bảng 1.1. Phân bố KCN theo vùng đến tháng 12/2007
Vùng

Số lượng

Diện tích

KCN
KCN (ha)
Đồng bằng Sông Hồng
39
9.201
Đông Bắc Bắc Bộ
14
2.801

Tây Bắc
1
71
Bắc Trung Bộ
7
779
Duyên hải Nam Trung Bộ
15
3.583
Tây nguyên
4
645
Đông Nam Bộ
77
21.800
Đồng bằng Sông Cửu Long
26
4.763
Cả nước
183
43.687
Nguồn: Vụ Quản lý KCN và KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trên cơ sở tương quan về điều kiện và tiềm năng phát triển công nghiệp
của các vùng kinh tế, các địa phương, KCN, được phân bố tập trung ở các

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B



Khóa luận tốt nghiệp

11

Vùng có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển như Đồng bằng sông Hồng,
Đông Nam Bộ, duyên hải miền Trung; các tỉnh, thành phố thuộc Chiến lược
phát triển công nghiệp các vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, miền Trung và
phía Nam. Riêng 3 Vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm tới 60% số lượng KCN,
cả nước (110 KCN); Vùng Đồng bằng Sông Hồng, Đông Nam Bộ và Duyên
hải Nam Trung Bộ chiếm 71,5% (131 KCN).
Bảng 1.2. Tình hình phát triển KCN cả nước đến hết năm 2007
Giai đoạn

Đơn vị

Chỉ tiêu
Tổng số KCN

Giai đoạn

Giai đoạn

Giai đoạn

1991-1995

1996-2001

2002-2007


Tổng số

Khu

12

56

127

183

Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn
Tổng diện tích tự nhiên

%
Ha

2.358

466
11.128

226
32.550

43.678

Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn
Diện tích bình quân 1 KCN


%
Ha

197

472
199

292
256

238

Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn

%

-

101

129

Nguồn: Vụ Quản lý KCN và KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Quy mô các KCN đa dạng và phù hợp với từng điều kiện và trình độ
phát triển cụ thể của mỗi địa phương. Quy mô trung bình của các KCN đến
12/2007 là 238 ha. Các vùng có điều kiện tương đối khó khăn, ít có lợi thế
phát triển công nghiệp được bố trí các KCN có quy mô trung bình các KCN,
KCX thấp hơn, như vùng Tây Nguyên (111,28ha), vùng Tây Bắc Bắc (71 ha).

Các vùng có điều kiện phát triển công nghiệp được bố trí các KCN có quy mô
trung bình cao hơn, như Đông Nam Bộ (283,3 ha), Đồng bằng sông Hồng
(235,9 ha).
Các KCN được thành lập và phát triển phù hợp với mục tiêu của kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội . Kế hoạch 5 năm 1991-1995 là giai đoạn đầu
và thí điểm phát triển KCN, số lượng các KCN được thành lập trong giai đoạn
này là 12 KCN, với tổng diện tích tự nhiên 2.358 ha. Sau giai đoạn này, việc
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

12

thành lập các KCN, được đẩy nhanh, cụ thể trong giai đoạn 1996-2001 thành
lập 56 KCN, với tổng diện tích tự nhiên 11.128 ha, tăng 4,72 lần về số lượng
và 4,72 lần về diện tích so với giai đoạn 1991–1995; giai đoạn 2002-2007
thành lập thêm 127 KCN, với tổng diện tích 32.550 ha, tăng 126% về số
lượng và 192% về diện tích so với giai đoạn năm 1996-2001.
Các KCN, được hình thành và phát triển phù hợp với quy hoạch xây
dựng và phát triển KCN, cả nước và định hướng phát triển và phân bố công
nghiệp của địa phương. Phần lớn các KCN, thuộc Danh mục các KCN, ưu
tiên thành lập đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các
Quyết định số 519/TTg ngày 6/8/1996, số 713/TTg ngày 30/8/1997 và số
194/1998/QĐ-TTg ngày 01/10/1998 (với tổng số 56 KCN,dự kiến thành lập)
đã được thành lập và đi vào hoạt động. Các Quy hoạch KCN, đã được phê
duyệt và triển khai là một bước cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VII về quy
hoạch vùng, địa bàn trọng điểm và khu công nghiệp, khu chế xuất. Cơ chế

triển khai quy hoạch KCN, được tiến hành một cách linh hoạt, vừa theo quy
hoạch được duyệt vừa bổ sung vào quy hoạch các KCN, phù hợp với tình
hình phát triển và nhu cầu sử dụng đất công nghiệp của các địa phương.
1.1.2. Tổng quan tình hình thu hút vốn đầu tư vào các khu công
nghiệp Việt Nam.
Sau 17 năm xây dựng và phát triển với nhiều chính sách ưu đãi đặc biệt,
cùng với cơ chế quản lý đặc thù, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản thuận tiện
hơn so với bên ngoài, và hệ thống kết cầu hạ tầng khá thuận lợi, các KCN đã,
đang thực sự là địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Rất nhiều
doanh nghiệp thuộc đủ mọi thành phần kinh tế, bao gồm doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, và doanh nghiệp ngoài quốc
doanh… đã đầu tư vào KCN.
Bảng 1.3: Tình hình thu hút đầu tư vào khu công nghiệp cả nước
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

Chỉ tiêu

Đầu tư trong nước
Đầu tư nước ngoài
Tổng vốn

13

Vốn đầu tư sản xuất kinh doanh


tổng vốn
(tr.USD)

Vốn đầu
tư xây
dựng
CSHT
(tr.USD)

Số dự
án

15.936
31.714
47.650

3.600
1.842
5.442

3070
3020
5.058

Số dự án

Số vốn

Tỷ trọng
(%)

50,4
49,6
100

Số vốn
(tr.USD)
12.336
29.872
42.208

Tỷ trọng
(%)
29
71
100

Nguồn: Vụ Quản lý KCN và KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1.1.2.1. Thu hút vốn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng
Các KCN tại Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển ban
đầu nên lượng vốn xây dựng cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định và chiếm tỉ
trọng lớn, dần dần lượng vốn này có xu hướng giảm tương đối so với lượng
vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh tăng mạnh tại các KCN đã hoàn thành
xây dựng cơ bản. Hết giai đoạn 2002- 2007, cả nước có 111 KCN đã cơ bản
xây dựng xong cơ sở hạ tầng và 72 khu đang thực hiện xây dựng cơ bản theo
hình thức cuốn chiếu, cho thuê để sản xuất kinh doanh những phần đã hoàn
thành xây dựng cơ bản
Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Với chủ trương khuyến khích và tạo
mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệpViệt Nam thuộc mọi thành phần
kinh tế, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ
tầng kỹ thuật khu công nghiệp. Trong khu công nghiệp, các doanh nghiệp

phát triển hạ tầng tiến hành xây dựng các công trình hạ tầng sau đó cho các
doanh nghiệp thuê lại. Cho đến nay cả nước đã có 183 dự án đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, trong đó có 31 dự án đầu tư nước ngoài với
tổng vốn hạ tầng đăng ký là: 1.872 triệu $ và 152 dự án đầu tư trong nước với
tổng vốn đăng ký là 57.600 tỷ đồng.
Biểu đồ 1: Tỷ trọng giữa vốn đầu tư cơ sở hạ tầng trong nước và
vốn đầu tư cơ sở hạ tầng nước ngoài
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

14

Nguồn: Vụ Quản lý KCN và KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Xét về tỷ trọng : Vốn trong nước chiếm 66%, giai đoạn đầu chủ yếu là
nguồn vốn ngân sách, hiện nay đã áp dụng chính sách giao đất cho doanh
nghiệp thầu xây dựng cơ sở hạ tầng nên tỉ trọng đầu tư của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh bắt đầu tăng, tuy còn nhiều bất cập về giâ trị gia tăng sau
khi xây dựng cơ sở hạ tầng và hiệu quả xây dựng. Vốn nước ngoài chiếm
34% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và có xu hướng tăng lên trong
thời gian tới, giữ vai trò quan trọng trong việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng các
KCN theo tiêu chuẩn quốc tế, làm tăng sức hấp dẫn của KCN đối với các nhà
đầu tư.
1.1.2.2. Thu hút vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Đầu tư nước ngoài: So với các dự án đầu tư ngoài KCN các dự án đầu tư
vào KCN triển khai nhanh và thuận lợi hơn. Hình thức đầu tư nước ngoài tại
các KCN là đầu tư trực tiếp. Do đó, khi đề cập đến đầu tư nước ngoài vào

KCN trong khuôn khổ luận văn này ta chỉ đề cập đến hình thức đầu tư trực
tiếp không bao hàm đến hình thức đầu tư gián tiếp. Có thể nói với các chính
sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi về hạ tầng kinh tế – kỹ thuật các
KCN ngày càng là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Số dự án đầu tư
nước ngoài và tổng vốn đăng ký vào KCN dần được mở rộng và đặc biệt tăng
trưởng với tốc độ cao trong thời kỳ 2002-2007. Thời kỳ này đánh dấu sự phục

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

15

hồi của nền kinh tế khu vực và thế giới sau khủng hoảng kinh tế ở châu Á,
đầu tư nước ngoài vào KCN tăng vượt bậc với tổng vốn thu hút được lên tới
18558 triệu USD ( tăng 149%), tổng số vốn vào sản xuất kinh doanh đạt 9841
triệu USD, chiếm tỷ lệ 97,9% tổng số vốn và tăng 174% so với thời kỳ 19962000, trung bình năm thu hút 3711 triệu USD.
Giai đoạn 2002-2007 các KCN, đã thu hút được 3.020 dự án có vốn đầu
tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 29.872 triệu USD.
Tỷ trọng tổng vốn đăng ký của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong
KCN trong tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trên cả nước tăng dần qua các
năm và đạt mức 42.3% năm 2007.
Đầu tư trong nước: Để phát huy nội lực Nhà nước thực hiện chủ trương
huy động mọi thành phần kinh tế trong nước. Tuy vậy, đến nay các doanh
nghiệp trong nước đầu tư vào KCN đa số là doanh nghiệp thành lập từ trước,
do nhu cầu mở rộng sản xuất, cần di dời từ ngoài vào trong KCN hoặc thành
lập thêm cơ sở sản xuất trong KCN. Giai đoạn đầu xây dựng KCN do chủ

quan chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc phát huy nguồn vốn trong
nước, xem nhẹ việc thu hút các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào KCN nên
số dự án và tổng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước rất hạn
chế. Sau khủng hoảng tài chính khu vực chúng ta đã nhận ra được vai trò tầm
quan trọng và tất yếu của khu vực vốn trong nước, dòng vốn trong nước tăng
rõ rệt. Số lượng các dự án có vốn đầu tư trong nước đã vượt so với dự án có
vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể đến hết giai đoạn 2002-2007, các KCN đã thu
hút được 3070 dự án chiếm 50,4% tổng số dự án với tổng số vốn đăng ký là
12.336 triệu USD chiếm 41% tổng vốn đầu tư vào các KCN của cả nước.
Tiềm lực này cần được kích thích tăng trưởng hơn nữa để nâng cao năng lực
sản xuất và tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước.
1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển các KCN Vùng kinh tế Đông
Nam Bộ
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

16

1.2.1. Nhân tố thuận lợi
1.2.1.1. Vị trí địa lý:
Vùng kinh tế Đông Nam Bộ có vị trí địa lý kinh tế rất thuận lợi cùng
với những thành quả phát triển đã đạt được tạo ra lợi thế so sánh ở mức hàng
đầu của cả nước và cũng có thể đọ với nhiều nước trong khu vực Đông Nam
Á: vùng Đông Nam Bộ có điều kiện thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn hơn các
vùng khác; nằm trên các trục giao thông quan trọng của quốc tế và khu vực,
có nhiều cửa ngõ ra vào, có nhiều khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài

nước để đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Đông Nam Bộ là vùng đã đạt trình độ
phát triển kinh tế tương đối cao hơn và vượt trước nhiều mặt so vói các vùng
khác trong cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm lớn về kinh tế, công
nghiệp, thương mại, dịch vụ, khoa học kỹ thuật, đầu mối giao thông và giao
lưu quốc tế lớn của cả nước, có lực lượng lao động dồi dào, tay nghề khá, có
nhiều cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ đang đóng góp tích cực
cho sự phát triển của cả khu vực phía Nam. Đồng thời có hệ thống đô thị, các
khu công nghiệp đang trong quá trình phát triển mạnh. Vũng Tàu là thành phố
cảng và dịch vụ nằm ở “Mặt tiền Duyên Hải” phía Nam, là cầu nối và “cửa
ngõ” lớn giao thương với thế giới. Thành phố Biên Hoà và khu vực dọc theo
QL51, thị xã Thủ Dầu Một và khu vực Nam Sông Bé có điều kiện rất thuận
lợi để phát triển công nghiệp. Đông Nam Bộ lại có trục đường giao thông
xuyên Á ra biển và tiếp giáp với khu vực các nước Đông Nam Á đang phát
triển năng động.
1.2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội
Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2015 vừa được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt sẽ là cơ sở để đưa các KCNcủa vùng phát triển đúng
hướng và đồng bộ. Do tính chất tập trung về mặt không gian phân bố, nên các
KCN trong vùng và các tỉnh lân cận sẽ có nhiều lợi thế hơn trong việc xây
dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển liên kết thành một tổ hợp công
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

17

nghiệp hiện đại lớn trong vùng.

a. Diện tích đất sử dụng trong KCN
Dự báo đến năm 2020, các dự án đầu tư vào các KCN vùng Đông Nam
Bộ sẽ lấp đầy khoảng trên 70% diện tích đất công nghiệp cho thuê; trong đó,
KCN của các tỉnh Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương sẽ có thể lấp đầy
trên 80% diện tích đất công nghiệp cho thuê. Với đà phát triển như hiện tại,
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng Đông Nam Bộ sẽ trở thành trung
tâm công nghiệp - đô thị - thương mại - dịch vụ lớn nhất cả nước với các tổ
hợp công nghiệp lớn, hiện đại. Vì vậy, trong thời kỳ từ 2010 - 2020 sẽ xuất
hiện xu hướng chọn lọc đầu tư vào trong các KCN, tại các tỉnh, thành phố lớn
và sự phân chia ngành nghề, lĩnh vực đầu tư trong các KCN sẽ rõ rệt hơn. Các
KCN trong vùng sẽ hình thành các khu vực riêng biệt tập trung một hoặc một
số nhóm ngành có liên qua với nhau. Ngoài ra, tính đến năm 2020, việc thành
lập mới các KCN và ngay cả việc đầu tư vào các KCN tại một số khu vực, địa
bàn thuộc các tỉnh Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ bị
hạn chế hơn bởi các cấp chính quyền nhận thấy rằng mật độ đầu tư và mật độ
tập trung công nghiệp tại một khu vực hoặc địa bàn nào đó quá lớn sẽ ảnh
hưởng tới điều kiện môi trường và sinh hoạt của người dân.
Dự báo đến năm 2020, vùng Đông Nam Bộ sẽ không còn nhiều quỹ đất
dành cho thành lập và xây dựng các KCN mới mà chủ yếu tập trung vào khai
thác hiệu quả sử dụng đất của các KCN hiện tại. Vì vậy, trong giai đoạn hiện
tại, nếu sử dụng một cách lãng phí, không hiệu quả quỹ đất dành cho phát
triển các KCNsẽ ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển các KCN giai đoạn về
sau này. Do vậy, nhận thức được sức ép nêu trên, trong giai đoạn từ nay tới
năm 2015, tiến tới năm 2020, các tỉnh, thành phố sẽ tập trung vào nâng cao
hiệu quả sử dụng đất trong các KCNhiện có bằng cách hạn chế đầu tư dàn
trải, tập trung phát triển hạ tầng hiện tại, giải phóng triệt để mặt bằng xây
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B



Khóa luận tốt nghiệp

18

dựng KCN và tăng cường thu hút đầu tư vào các KCN.
b. Nguồn nhân lực:
Dự báo đến năm 2020, Việt Nam sẽ có nguồn nhân lực dồi dào với trình
độ kỹ thuật, tay nghề được nâng cao, xuất hiện nhiều lao động bậc cao và
chuyên gia công nghệ cao được đào tạo bài bản. Nguồn nhân lực này sẽ chủ
yếu tập trung tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, trong đó vùng kinh tế Đông
Nam Bộ sẽ có xu hướng tập trung cao hơn, do đó đây là một điều kiện thuận
lợi để đáp ứng nhu cầu về lao động bậc cao của các doanh nghiệp kỹ thuật cao
đầu tư vào Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực đáp ứng cho các
doanh nghiệp tại khu vực này vào năm 2020 mạng lưới đào tạo nghề sẽ phải
được mở rộng. Khi đó, phát triển các KCN phải đi kèm với phát triển hệ
thống đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người dân ở những khu vực có
đất bị thu hồi làm KCN.
Dân số nước ta thuộc độ tuổi lao động có tỷ lệ tương đối cao và có xu
hướng trẻ hoá, vì vậy đây là nguồn lao động dồi dào cho phát triển kinh tế xã
hội và là nguồn cung lao động lý tưởng đối với các doanh nghiệp nước ngoài.
Đội ngũ lao động dồi dào, trẻ hoá, có trình độ cùng với giá cung lao động vừa
phải sẽ là một trong các yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài quyết định
đầu tư vào Việt Nam khi lượng lượng lao động tại các nước đầu tư (như Nhật
Bản, Hàn Quốc,...) đang có xu hướng già hoá và giá nhân công đắt đỏ. Trong
khi đó, lượng lao động này lại tập trung nhiều nhất tại vùng kinh tế vùng
Đông Nam Bộ là một điều kiện thuận lợi của vùng so với các vùng khác. Tuy
nhiên mật độ người lao động tập trung ngày càng nhiều tại các KCN vùng
kinh tế Đông Nam Bộ, kéo theo sự đòi hỏi về phát triển hạ tầng xã hội tại

những khu vực tập trung đông dân cư và người lao động, do đó việc hình
thành các khu đô thị mới, các trường học, nhà ở cho người lao động là tất yếu.
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

19

c. Xu hướng đầu tư:
Trong tương lai, các KCN thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và TP.
Hồ Chí Minh trong tương lai sẽ tập trung những doanh nghiệp sản xuất chính và
các KCN thuộc các tỉnh còn lại sẽ có xu hướng tập trung các doanh nghiệp sản
xuất phụ trợ, gia công sản xuất cho các doanh nghiệp sản xuất chính.
Sự phát triển về hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông của vùng sẽ kéo
theo mức độ tập trung các dự án về công nghệ thông tin, viễn thông (như sản
xuất phần cứng máy tính, phần mềm, thiết bị kỹ thuật số,...). Dự kiến đến năm
2020, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ sẽ là trung tâm phát triển công nghệ thông
tin của cả nước, trong đó TP. Hồ Chí Minh là địa phương dẫn đầu. Các dự án
công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ sinh học sẽ được tập trung nhiều
hơn vào khu vực TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. Các tỉnh
còn lại như Tây Ninh, Bình Phước, Ninh Thuận kém hơn về cơ sở hạ tầng,
chưa có điều kiện thu hút các dự án kỹ thuật cao thì sẽ tập trung vào phát triển
các KCN thu hút những dự án sử dụng nhiều lao động như sản xuất da giầy,
hàng dệt may, chế biến thực phẩm,...
Dự báo đến năm 2020, tốc độ phát triển cao của ngành công nghệ thông
tin, Internet, viễn thông, truyền hình sẽ giúp xúc tiến, quảng bá tốt hơn hình
ảnh đầu tư vào các khu công nghiệp trên cả nước cũng như của vùng. Đây là

một lợi thế lớn đối với chủ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp khi ứng dụng triệt
để các ứng dụng mới vào thu hút đầu tư.
Các cơ quan hành chính sẽ áp dụng triệt để các ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác đơn giản hoá, hiện đại hoá các thủ tục hành chính
liên quan đến cấp phép đầu tư vào các khu công nghiệp. Dự kiến giai đoạn từ
2010 đến 2020, các tỉnh Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương sẽ đi đầu
trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc đơn giản hoá thủ tục
hành chính và cấp phép đầu tư. Đây cũng là lợi thế lớn của vùng so với các
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

20

vùng còn lại trên cả nước.
d. Cải cách thủ tục hàng chính:
Việc phân cấp, uỷ quyền cho các tỉnh, thành phố ngày càng cao sẽ tạo
điều kiện cho các địa phương tập trung vào đẩy mạnh thu hút đầu tư, đơn giản
hoá các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư đầu tư
vào các KCN trong vùng. Ngoài ra, với việc nhận thức đúng đắn của các cấp
chính quyền các tỉnh, thành phố về tính chất quan trọng của việc thu hút đầu
tư và thúc đẩy sự phát triển của các KCN, từ đó nhận được sự hỗ trợ tích cực
của các cơ quan này sẽ là những yếu tố thuận lợi cho các nhà đầu tư khi đầu
tư vào trong vùng.
Đến năm 2020, Việt Nam sẽ bổ sung thêm nhiều Luật và các văn bản
hướng dẫn Luật có tác động thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngoài ra, sự phát triển của hệ thống pháp luật liên quan đến chống tham

nhũng, tiêu cực trong quản lý hành chính nhà nước sẽ góp phần cải thiện đáng
kể cung cách làm việc, phục vụ doanh nghiệp của các cơ quan cấp phép. Với
môi trường đầu tư minh bạch, hệ thống chính sách thống nhất, rõ ràng, không
chồng chéo và hệ thống chính trị ổn định sẽ là đòn bẩy để các nhà đầu tư
nước ngoài tập trung sự quan tâm đến Việt Nam nhiều hơn nữa.
1.2.2. Nhân tố không thuận lợi
Mật độ dân cư tăng lên, sự phát triển đô thị hoá theo chiều rộng của các
tỉnh, thành phố sẽ hình thành nhiều đô thị vệ tinh nằm rải rác xung quanh các
KCN. Đến năm 2020 các KCN trong vùng sẽ phải nằm xen lẫn với các khu
đô thị, khu dân cư mới, vì vậy mức độ ô nhiễm ảnh hưởng tới đời sống người
dân sẽ tăng lên. Tác động từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của cộng đồng dân cư lân cận
như ô nhiễm môi trường, ô nhiễm chất thải, tiếng ồn, khói bụi,... do đó chắc

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

21

chắn sẽ phát sinh nhiều mâu thuẫn giữa người dân xung quanh khu công
nghiệp và các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Như đã đề cập ở trên, do mức độ tập trung công nghiệp và đầu tư quá lớn
sẽ khiến các cấp chính quyền của các tỉnh Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bà
Rịa - Vũng Tàu phải hạn chế đầu tư vào một số khu vực trên địa bàn, đặc biệt
là hạn chế phát triển các KCN. Việc này có tác dụng tích cực là phân bố lại
đầu tư sang các khu vực khác, các tỉnh khác trong vùng, song cũng ảnh hưởng

không nhỏ tới tình hình thu hút đầu tư vào các KCN, của chính các tỉnh, thành
phố này. Nếu không có quy hoạch tốt ngay từ bây giờ về mặt phân bố dự án
trong KCN thì sẽ dẫn đến sự chồng chéo, lộn xộn về ngành nghề các dự án
trong cùng một KCN, khi đó các nhà đầu tư mới sẽ từ chối đầu tư vào các
KCN trong vùng vì sự lộn xộn của các doanh nghiệp trong KCN có thể ảnh
hưởng tới việc đầu tư của các dự án lớn.
Vấn đề ô nhiễm môi trường: Sự tập trung các đô thị và các khu công
nghiệp, dân cư, du lịch, thương mại trên một phạm vi hẹp làm tăng lượng
nước sử dụng. Đồng thời cũng đã thải ra một lượng nước lớn không qua xử lí
làm ô nhiễm nhiều dòng chảy hạ lưu. Chỉ đoạn cuối các sông ở địa phận
VKTTĐPN đã phải nhận lượng nước thải: 600.000 m3/ngày nước thải sinh
hoạt và sản xuất công nghiệp củ thành phố Hồ Chí Minh, 20.000 m3/ngày
nước thải sinh hoạt của thành phố Biên Hoà, 200 m3/ngày nước thải công
nghiệp có chứa nhiều loại hoá chất độc và kim loại nặng của khu công nghiệp
Biên Hoà, 2000-3000 m3/ngày từ mỗi cụm công nghiệp trên trục đường 51 và
20.000 m3/ngày nước thải sinh hoạt và công nghiệp của thành phố Vũng Tàu.
Phần lớn hệ thống kênh rạch trong khu vực thành phố Hồ Chí Minh như Thị
Nghè, Tham Luông, Lò Gốm, kênh Tẻ, kênh Bến Nghé bị ô nhiễm với màu
mốc đen ngòm, rác rưởi lềnh bềnh.
Vấn đề ô nhiễm không khí, tiếng ồn của các đô thị cũng đã ở mức báo
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

22

động. Đặc biệt không gian đô thị quá chật hẹp trong khi chưa tận dụng chiều

cao, kiến trúc đô thị không thống nhất, chắp vá càng làm khó khăn quá trình
cấp thoát nước và cấp điện, nhất là ở thành phố Hồ Chí Minh.Đến năm 2020,
quy định về tiêu chuẩn môi trường trong các khu công nghiệp sẽ rất khắt khe
và nghiêm ngặt. Vì vậy, những doanh nghiệp không đạt tiêu chuẩn môi
trường quy định sẽ phải đối mặt với việc bị phạt nặng hoặc giải thể doanh
nghiệp nếu không nâng cấp hệ thống xử lý nước, khí thải.
Song song với sự phát triển hệ thống hạ tầng của các KCN thì giá thuê
đất trong các KCN năm 2020 cũng tăng lên, vì vậy các KCN phải đối mặt với
sự cạnh tranh gay gắt không chỉ ngay trong vùng mà với các tỉnh bên ngoài
vùng, thậm chí với một số nước có KCN.
Nếu không khẩn trương triển khai ngay từ bây giờ công tác đền bù, giải
phóng mặt bằng thì đến năm 2020, các chủ đầu tư hạ tầng sẽ phải đối mặt với
việc tăng chi phí xây dựng khi giá cả vật liệu xây dựng, nhiên liệu ngày càng
tăng, chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng ngày càng lớn.
Song hành cùng với sự phát triển về trình độ, tay nghề của người lao
động tính đến 2020 thì giá nhân công cũng tăng lên tương ứng. Các doanh
nghiệp phải đối mặt với tình trạng chi phí lao động tăng cao, vì vậy lợi thế so
sánh về giá nhân công không còn hấp dẫn đối với các dự án đầu tư sử dụng
nhiều lao động.
Trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, việc thực hiện các các
cam kết khi gia nhập WTO, AFTA và các cam kết khác sẽ buộc Nhà nước
Việt Nam phải bãi bỏ những ưu đãi riêng dành cho các doanh nghiệp đầu tư
vào trong KCN. Ngoài ra, sự cạnh tranh từ các quốc gia trong khu vực và trên
thế giới có địa điểm, môi trường đầu tư tương tự Việt Nam ngày càng trở nên
gay gắt hơn khiến các KCN phải đối mặt nhiều khó khăn hơn trong tương lai.

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B



Khóa luận tốt nghiệp

23

1.3. Một số bài học kinh nghiệm của một số nước trong việc thu hút
vốn đầu tư vào các khu công nghiệp
1.3.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của Trung Quốc
Từ Đại hội lần thứ XIII, Đảng Cộng Sản Trung Quốc thực hiện chủ
trương trong thực hiện đại hóa.
Trung Quốc ngày nay trở thành một nước có nền kinh tế lớn trên thế giới
và hứa hẹn trong thế kỷ 21 sẽ là một cường quốc kinh tế. Một trong những
giải pháp giúp nên kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng đó là xây dựng
các đặc khu kinh tế.
Năm 1979, bốn đặc khu kinh tế đầu tiên của Trung Quốc được thành lập
bao gồm: Thẩm Quyến, Xà Khẩu, Chu Hải ( tỉnh Quảng Đông) và Hạ Môn
(tỉnh Phúc Kiến). Sau khi thử nghiệm mô hình đặc khu kinh tế ở hai tỉnh
Quảng Đông và Phúc Kiến thành công (giai đoạn 1979- 1986); Trung Quốc
mở rộng việc áp dụng các chính sách này ra 14 thành phố ở duyên hải tiếp tục
áp dụng chính sách này trong khu khai phát Phổ Đông (Thượng Hải) năm
1990; Trung Quốc áp dụng chính sách mở cửa tới các tỉnh vùng nội phận
(tháng 6-1992). Việc tìm hiểu xây dựng các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc từ
đó rút ra những bài học kinh nghiệm rất cần thiết trong việc phát triển các
KCN trong vùng kinh tế Đông Nam Bộ và cả nước.

Sử dụng chính sách phát triển vùng ưu tiên trong các đặc khu kinh tế
trước, nếu thành công mới mở rộng các vùng khác. Điểm chủ yếu trong sử
dụng chính sách phát triển vùng ưu tiên là chấp nhận sự khác biệt trong chính
sách đối với các vùng có điều kiện phát triển trước rồi mới từ đó mở rộng
chính sách ưu tiên đến các vùng có điều kiện tiếp theo. Cuối cùng thực hiện

một chính sách chung cho các vùng của cả nước.

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

24

Bài học lựa chọn vùng ưu tiên, áp dụng chính sách khác biệt phát triển
cho vùng theo các mục tiêu của Trung Quốc vẫn còn mang tính giá trị và đầy
ý nghĩa đối với sự phát triển các vùng kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
1.3.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của Đài Loan
Hơn 4 thập kỷ qua, phát triển công nghiệp luôn là động lực cho phát
triển kinh tế của Đài Loan, trong đó các KCN giữ một vị trí quan trọng. Các
chính sách phát triển KCN luôn thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế
khác nhau, chuyển dịch dần từ mô hình sản xuất tập trung truyền thống sử
dụng nhiều lao động sang hình thức các KCN công nghệ cao, tạo ra nhiều giá
trị tăng thêm.
Chính những chính sách thông thoáng, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, hỗ
trợ tài chính, khuyến khích phát triển kinh tế đã đem lại những kết quả to lớn
cho phát triển kinh tế Đài Loan trong những thập niên vừa qua.
Quá trình phát triển các KCN của Đài Loan khởi điểm từ những chính
sách ban đầu chỉ đơn thuần tạo mặt bằng để xây dựng các xí nghiệp công
nghiệp được kết hợp với chính sách phát triển cân đối theo vùng và nâng cao
chính sách phát triển kinh tế.
Việc thu hút đầu tư phát triển công nghiệp đầu tư vào các KCN được thể
hiện bằng các quy định pháp luật đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước

( tính đồng bộ của các quy định pháp luật, thủ tục đơn giản, ưu đãi thuế, đảm
bảo quyền sở hữu, quyền chuyển lợi nhuận về nước). Điều đáng chú ý là sự
ổn định về pháp luật đầu tư, trung bình khoảng 7 năm mới có sửa đổi bổ sung
luật. Trường hợp cần thiết mới điều chỉnh và chỉ dừng lại ở những chi tiết
mang tính kỹ thuật.
Để khuyến khích thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, Đài Loan áp
dụng các biện phát cụ thể sau.
-Có ưu đãi về thuế và tín dụng cho nhà đầu tư trong nước và cả Hoa kiều
SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


Khóa luận tốt nghiệp

25

vay vốn dài hạn với lãi suất cố định khoảng 6,2%/năm, miễn giảm thuế lợi tức
cho các ngành khuyến khích đầu tư, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 5 năm
cho các nhà đầu tư mới, đối với các công ty mới thành lập được miễn thuế lợi
tức cho 50% sản lượng trong một năm ( sau khi đã hết thời hạn ) miễn thuế 5
năm cho doanh nghiệp đầu tư bên ngoài chuyển vào khu công nghiệp, được
cho vay ưu đãi và được giảm 20% mức thuế và thu nhập doanh nghiệp phải
nộp trong một số năm.
- Đảm bảo đủ điện cung cấp trong khu công nghiệp. Cho phép nhà đầu
tư trong và ngoài nước đầu tư xây dựng nhà máy điện cùng với hệ thống cung
cấp điện của nhà nước.
1.3.3. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của Malaysia
Malaysia bắt đầu xây dựng KCN ( gọi chung là khu thương mại tự do) từ
những năm 1970, sau khi có “ luật về khu thương mại tự do” năm 1971. Từ

KCN đầu tiến BayanLaps ( diện tích 135ha) xây dựng năm 1972 tại Penang.
Sau 20 năm đến nay Malaysia đã có 10 khu công nghiệp lớn với tổng diện
tích 1720ha nằm xen kẽ với các khu công nghiệp tập trung ở các bang
Penang, Perack, Selangor, Malaca, Sohor không kế hàng trăm “ kho hàng sản
xuất theo giấy phép” là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nằm ngoài
KCN nhưng được hưởng mọi quy chế dành cho khu công nghiệp thực chất là
KCN con với quy mô vài doanh nghiệp nằm rải rác khắp nơi trong nước.
Malayisa là một trong những nước xây dựng KCN thành công trên thế
giới. Nhiều công ty xuyên quốc gia có tầm cỡ trên thế giới của Mỹ, Nhật, Tây
Âu, Đài Loan, Singapore đã đặt cơ sở tại Malaysia. Các khu công nghiệp của
Malaysia đã là hạt nhân cho việc sản xuất và phát triển nhanh chóng nghành
công nghiệp non trẻ của Malaysia ( chiếm 30% GDP) và chiếm 2/3 hàng xuất
khẩu, cũng như tạo công ăn việc làm ( chiếm 1/5 lao động toàn quốc).
Để thu hút đầu tư trong nước cũng như nước ngoài trong tình hìnhcác

SV: Phạm Thanh Huyền

Lớp: Đầu Tư 46B


×