LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã và đang tiến hành
cải cách theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
phát triển nền kinh tế, Việt Nam đã chú trọng phát triển mạnh cả nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ. Phát triển Khu công nghiệp (KCN) là xu hướng hiện đại của tổ
chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ. Việc tổ chức quản lý hợp lý các KCN sẽ đem
lại nhiều lợi ích: tiết kiệm đất; sử dụng chung cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông,
viễn thông…); tổ chức mối liên hệ sản xuất giữa các doanh nghiệp; xử lý chất thải, bảo
vệ môi trường…Nhưng không phải nơi nào phát triển KCN cũng thành công. Để bảo
đảm hiệu quả phát triển KCN phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó thu hút đầu tư vào
KCN là vấn đề quan trọng hàng đầu.
Theo Nghị Quyết số 22/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội,
kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 tỉnh Cần Thơ được chia tách thành tỉnh Hậu Giang
và thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương. Tỉnh Hậu Giang được xác định là tỉnh
nghèo của khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nền kinh tế sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, công nghiệp và dịch vụ hầu như chưa phát triển. Là đơn vị hành
chính mới được thành lập, Hậu Giang có rất nhiều khó khăn về tổ chức, nhân sự, kinh
tế - xã hội, vốn. Đặc biệt là khó khăn về nguồn vốn đầu tư và nguồn nhân lực, các yếu
tố hết sức quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhất là phát triển công nghiệp
và dịch vụ.
Để hòa nhập cùng với sự phát triển và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH - HĐH) đất nước, hoạt động thu hút vốn đầu tư được xem trọng vì chỉ có cách
thu hút các nguồn vốn đầu tư thì mới có thể đẩy nhanh và mạnh nền kinh tế. Có như
vậy mới tạo ra được những bước đột phá mới và có thể bỏ qua được một số giai đoạn
nghiên cứu mà tận dụng ngay những thành tựu khoa học kỹ thuật cũng như sức mạnh
của những nguồn vốn có sẵn. Nhận thấy được điều đó, từ những ngày đầu thành lập
tỉnh, nhận thức về vai trò của KCN trong phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh, lãnh
đạo tỉnh Hậu Giang đã xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trong và ngoài nước như:
lập quy hoạch phát triển các KCN, triển khai xây dựng các KCN nhằm phát triển
công nghiệp và dịch vụ tạo thành bệ phóng vững chắc cho phát triển kinh tế toàn tỉnh.
Nhưng thực tế trong thời gian vừa qua gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hút đầu tư
2
vào KCN và kêu gọi các nhà đầu tư tham gia vào đầu tư sản xuất kinh doanh tại các
KCN trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.
Từ thực tế đó, vấn đề đặt ra là làm thế nào, bằng những giải pháp gì để thu hút và
sử dụng một cách có hiệu quả vốn đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh. Xuất phát từ
thực trạng trong việc thu hút vốn đầu tư và tính cấp thiết của vấn đề này, tôi chọn đề
tài: “Thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hậu Giang giai
đoạn 2011 - 2020” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế chuyên ngành Quản trị kinh
doanh.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1 Mục tiêu chung
Vận dụng lý thuyết chung về phát triển KCN và thu hút đầu tư vào phát triển
KCN để phân tích thực trạng, xác định rõ những khó khăn, bất cập trong việc thu hút
đầu tư phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải
pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các KCN của tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn
2011- 2020.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Từ mục tiêu đó, đề tài có những mục tiêu cụ thể sau đây:
(1) Tổng quan về KCN và thu hút vốn đầu tư vào KCN.
(2) Phân tích thực trạng, tình hình thu hút vốn đầu tư vào các KCN trên địa bàn
tỉnh Hậu Giang thời gian qua.
(3) Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các
KCN của tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn 2011-2020.
3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
- Thu hút vốn đầu tư vào các KCN có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển
kinh tế của tỉnh Hậu Giang? Để phát triển có hiệu quả và bền vững các KCN cần bảo
đảm những điều kiện gì? Vị trí của thu hút vốn đầu tư trong các điều kiện ấy?
- Tình hình thu hút đầu tư vào các KCN trong thời gian qua ra sao?
- Những yếu tố chủ quan và khách quan chủ yếu nào gây khó khăn với việc thu
hút đầu tư phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh?
3
- Những giải pháp nào cần được quan tâm để góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh nhằm thu hút vốn đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh Hậu Giang trong giai
đoạn 2011 - 2020?
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề thu hút vốn đầu tư vào phát triển KCN: các nguồn vốn có thể huy động,
các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn vào phát triển KCN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: các KCN trên địa bàn HG
- Về thời gian: đánh giá thực trạng từ khi thành lập tỉnh đến năm 2010 và xác
định biện pháp thu hút vốn đầu tư đến năm 2020.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp nghiên
cứu tại bàn, phương pháp chuyên gia, phương pháp điều tra phỏng vấn…
- Nguồn tư liệu:
+ Nguồn tư liệu thứ cấp: các báo cáo của các cơ quan quản lý nhà nước, các báo
cáo của các doanh nghiệp. thông tin trên sách, báo, internet…;
+ Nguồn tư liệu sơ cấp: thu thập qua điều tra, phỏng vấn
.
6. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Đề tài tốt nghiệp dự kiến gồm có 3 chương và phần kết luận, kiến nghị:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về KCN và đầu tư phát triển KCN.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào các KCN của tỉnh Hậu Giang
trong thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các KCN
của tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn 2011 - 2020.
Phần kết luận và kiến nghị.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP VÀ ĐẦU
TƯ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP.
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của Khu công nghiệp:
1.1.1.1. Khái niệm về Khu công nghiệp:
Theo quan niệm trước đây, Khu công nghiệp (KCN) là khu vực tập trung các
hoạt động công nghiệp với mật độ khá cao. Khu vực này không có ranh giới rõ ràng,
trong khu vực này có các doanh nghiệp công nghiệp và có cả dân cư sinh sống. Vì vậy,
trong quá trình phát triển, hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp và hoạt động
của dân cư gây nên những cản trở lẫn nhau.
Với sự phát triển của các hoạt động kinh tế và sự tác động của khoa học - công
nghệ, quan niệm về KCN đã có sự thay đổi căn bản và phát triển thêm những loại hình
khu công nghiệp mới.
Theo quy định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất và Khu kinh tế ban hành tại
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ "KCN là khu
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,
có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định
tại Nghị định này". Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, mở rộng KCN đã
có trong Quy hoạch tổng thể phát triển KCN hoặc có trong Quy hoạch chung xây dựng
khu kinh tế đã được phê duyệt.
1.1.1.2. Đặc trưng của Khu công nghiệp:
Cho đến nay, các KCN đã được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia, đặc
biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa điểm và
phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nói chung các KCN có những đặc trưng sau:
Về tính chất hoạt động: là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không cần có dân cư (gọi chung là
doanh nghiệp KCN), KCN là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm
công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp.
Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống điện
5
nước, điên thoại… Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN do một
công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. ở Việt Nam những công ty
này là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh
nghiệp trong nước thực hiện. Các công ty này phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây
dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại.
Về tổ chức quản lý: Khu công nghiệp được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền quyết định thành lập và có bộ máy quản lý riêng. Trên thực tế được quản lý bởi
cơ quan chuyên trách là Ban Quản lý KCN cấp tỉnh để thực hiện các chức năng quản
lý Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KCN.
1.1.2. Vai trò của Khu công nghiệp trong phát triển kinh tế:
1.1.2.1. Phát triển công nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
KCN là trọng điểm kinh tế của địa phương, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân
sách, mở mang các ngành nghề mới, tạo việc làm cho người lao động, thu hút nguồn
lao động sẵn có ở địa phương.
Phát triển KCN sẽ là đầu tàu tăng trưởng, thúc đẩy các ngành nghề khác phát
triển. Việc quy tụ các doanh nghiệp vào các KCN sẽ hạn chế sự lãng phí quỹ đất, giúp
cho địa phương có thể tập trung nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng trong các KCN,
thu hút vốn đầu tư; các nhà đầu tư cũng giảm bớt chi phí tìm nơi đầu tư, tránh các thủ
tục hành chính rườm rà trong việc cấp phép đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.2.2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa:
KCN hình thành và phát triển sẽ góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nông nghiệp sang công nghiệp, làm tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ và
giảm tỷ trọng nông nghiệp của cả nước và của địa phương nơi có các KCN.
KCN phát triển sẽ góp phần phát triển hàng hoá trên thị trường trong và ngoài
nước, đẩy nhanh tốc độ và kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho doanh
nghiệp nhằm tái mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, tích lũy thêm kinh nghiệm
trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, làm cho các doanh nghiệp ngày càng
làm ăn có hiệu quả.
1.1.2.3. Phát huy hiệu quả những thành tựu của khoa học và công nghệ, công tác bảo
vệ môi trường được đảm bảo, tạo tiền đề cho phát triển bền vững:
6
KCN là nơi tiếp nhận chuyển giao và áp dụng có hiệu quả nhất những thành tựu
phát triển của khoa học công nghệ, áp dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ với một địa bàn tương đối rộng, được quy hoạch theo một kế hoạch và chiến lược
phát triển lâu dài của nền kinh tế; với hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương đối hiện
đại, đồng bộ; cùng với những ưu đãi mà Nhà nước dành cho các KCN trong nhập khẩu
vật tư, thiết bị, về nguồn vốn vay, về thuế… tạo điều kiện thuận lợi cho các KCN có
thể tiếp nhận công nghệ tiên tiến, hiện đại trên Thế giới, tận dụng được lợi thế của các
nước đi sau để rút ngắn dần khoảng cách về khoa học công nghệ với các nước khác.
Việc tiếp nhận khoa học công nghệ đã tạo ưu thế nổi trội của các KCN mà các khu vực
kinh tế khác ít hoặc không có cơ hội. Điểm khác biệt chủ yếu của KCN với vùng ngoài
KCN là cơ sở hạ tầng kỹ thuật KCN được xây dựng tương đối hoàn thiện và các doanh
nghiệp KCN trong quá trình sản xuất phải thực hiện nghiêm và được giám sát chặt chẽ
hơn về công tác đảm bảo vệ sinh môi trường thúc đẩy phát triển bền vững.
1.1.2.4. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động:
Mở ra các KCN để tạo nhiều cơ hội làm việc cho người lao động là một trong
những mục tiêu quan trọng của các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, KCN là
nơi thực hiện chiến lược toàn dụng lao động tại các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển.
Các KCN vừa là nơi du nhập kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh
nghiệm quản lý vừa là môi trường đào tạo huấn luyện ra những người quản lý có trình
độ cao, có bản lĩnh, kinh nghiệm và những công nhân có tay nghề cao, có ý thức tác
phong công nghiệp do được tiếp cận với những dây chuyền công nghệ tiên tiến với kỹ
thuật cao, buộc các nhà quản lý và người lao động phải tự rèn luyện và không ngừng
học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, từng bước đủ sức đáp ứng và thay thế các nhà
quản lý nước ngoài, đồng thời mức thu nhập không ngừng tăng lên tương xứng với
cương vị mới đảm nhiệm.
1.1.2.5. Tăng cường thu hút đầu tư, phát triển ngành nghề và vùng lãnh thổ:
Với những ưu đãi về giá thuê đất, về chính sách tài chính linh động và các thủ
tục hành chính giản đơn sẽ là lợi thế để các chủ đầu tư giảm thiểu chi phí đầu tư, chi
phí sản xuất kinh doanh và các chi phí hành chính. Các chủ đầu tư không mất nhiều
thời gian đi khảo cứu địa bàn, tiết kiệm thời gian để giải phóng mặt bằng, hoàn thành
các thủ tục đầu tư, xây dựng, v.v… hạn chế được rủi ro đánh mất cơ hội đầu tư.
7
Xây dựng KCN sẽ tạo điều kiện thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực công
nghiệp phụ trợ, các dịch vụ cần thiết từ dịch vụ công nghiệp, tài chính, ngân hàng,
cung cấp nguyên liệu đến dịch vụ lao động trong KCN, đồng thời việc thu hút lao
động tạo nên khu dân cư tập trung hình thành các đô thị, thành phố công nghiệp, giúp
phân bố và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của địa phương.
Xây dựng KCN sẽ kéo theo các ngành dịch vụ phục vụ đời sống cùng phát
triển, hình thành nên các khu dân cư tập trung, các khu đô thị mới và hàng loạt các
dịch vụ mới sẽ ra đời như: chợ, siêu thị, các dịch vụ bưu điện, du lịch, vận tải công
cộng, Nói cách khác, các KCN phát triển có tác dụng lan tỏa sang các khu phụ cận,
các vùng lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế theo cơ chế tác động “Vết dầu loang”,
thúc đẩy các ngành kinh tế của địa phương, vùng kinh tế và cả quốc gia.
1.1.2.6. KCN hình thành và phát triển sẽ là cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước
với nền kinh tế quốc tế:
Sự hình thành các KCN có tác dụng làm thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong
nước. KCN còn là nơi sản xuất hàng hóa xuất khẩu hướng ra thị trường thế giới, là cửa
ngõ khai thông nền kinh tế trong nước với bên ngoài, góp phần đẩy nhanh quá trình
tham gia vào phân công lao động quốc tế, hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thông qua việc thành lập KCN, nước chủ nhà muốn đẩy mạnh hoạt động ngoại
thương. Với những ưu đãi vượt trội, cơ chế quản lý thuận lợi, vị trí xây dựng KCN có
điều kiện thuận lợi cho vận chuyển, lưu thông hàng hóa sẽ giảm chi phí sản xuất, tạo
điều kiện cho việc sản xuất hàng hóa.
Tóm lại, KCN có 02 vai trò:
Đối nội: KCN là nơi thực hiện các chính sách kinh tế mới trước khi áp dụng
vào các địa phương, vùng khác của quốc gia. KCN là đầu tàu tăng trưởng kinh tế có
tác dụng lan tỏa, kéo theo sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế, là bước đột phá
chính sách kinh tế mở, hiện đại, đảm bảo phát triển bền vững.
Đối ngoại
: KCN là cửa sổ nhìn ra thế giới, là cầu nối để tiếp thu vốn, khoa học
công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.1.3. Các điều kiện bảo đảm hiệu quả phát triển Khu công nghiệp:
1
.1.3.1. Quy hoạch hợp lý các Khu công nghiệp:
8
Bản chất và mục tiêu của quy hoạch là xây dựng những định hướng lớn nhằm
làm cơ sở giúp cho các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý kinh tế vĩ mô hoạch định các
chính sách phát triển, xây dựng các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn trên lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển KCN địa phương phải gắn liền với quy hoạch phát triển
KCN vùng, quy hoạch phát triển ngành trên địa bàn và bộ phận quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội của vùng và cả nước dựa trên đầy đủ căn cứ trong khâu lựa chọn hướng
ưu tiên. Quy hoạch KCN quan trọng hơn, phải dựa trên nhu cầu phát triển, khả năng
của địa phương chứ không phải là nhiều hay ít số lượng KCN. Việc phân bố bề mặt
không gian phải hợp lý, ở những vị trí thuận lợi về giao thông, cung cấp điện, nước và
thoát nước.
Trong từng KCN phải quy hoạch cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: đường giao
thông, điện, thoát nước, cây xanh, môi trường cùng với quy hoạch các phân khu chức
năng làm cơ sở cho việc sắp xếp bố trí các doanh nghiệp cùng ngành nghề hoặc hỗ trợ,
bổ sung cho nhau.
Quy hoạch bên trong KCN phải gắn liền với quy hoạch bên ngoài khu gồm: khu
nhà ở, trường học, bệnh viện, trung tâm thương mại, thể thao,… bảo đảm bên cạnh
hoặc trong vùng có KCN hình thành các đô thị hiện đại.
Quy hoạch không phải xây dựng một lần là xong, nó phải được các cơ quan
chức năng giám sát để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với thực tế tình hình.
1.1.3.2. Lựa chọn vị trí địa lý trong phát triển các KCN:
Xác định đúng địa điểm KCN là một đảm bảo cho sự thành công. Lịch sử hình
thành và phát triển các KCN trên Thế giới cho thấy sự lựa chọn địa điểm để thành lập
KCN rất quan trọng và nó ảnh hưởng đến việc thành công của KCN. KCN thường đặt
ở vị trí giao thông thuận lợi cả đường bộ, đường hàng không, đường thủy để vận
chuyển hàng hoá dễ dàng. Ngược lại, sự chọn lựa sai vị trí xây dựng KCN thường dẫn
đến thất bại.
Vị trí địa lý được lựa chọn để xây dựng KCN giữ vai trò rất quan trọng đóng
góp vào sự thành công của KCN. Đây gần như là một điều hiển nhiên, tuy nhiên trong
thực tế không phải lúc nào cũng dễ thực hiện, có những trường hợp địa điểm kém
thuận lợi hơn về địa lý - kinh tế lại được chọn làm nơi xây dựng KCN, bởi yếu tố khác
chi phối đặc biệt là yếu tố chính trị: như mong muốn có sự phát triển đồng đều giữa
các vùng của đất nước,…
9
1.1.3.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong Khu công nghiệp:
Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong KCN bao gồm: đường giao thông, điện,
nước, viễn thông, hệ thống thoát nước, xử lý nước thải công nghiệp, cây xanh,… là nét
đặc thù của KCN. Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, là điều kiện để thu hút
đầu tư nước ngoài.
Tác động cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại để thu hút đầu tư nước ngoài: Nhà
đầu tư nước ngoài chọn địa điểm đầu tư trong KCN tiết kiệm được nhiều chi phí ngoài
doanh nghiệp như: chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá cao, phí tự xây dựng hệ
thống đường dây tải điện, đường giao thông vận tải và nhà máy, hệ thống viễn thông
v.v Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại trong KCN là một yếu tố để thu hút đầu tư nước
ngoài, nhưng đó không phải là yếu tố quyết định. Một số KCN, khu kinh tế ở nước ta,
dù đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại nhưng thu hút đầu tư nước ngoài cho đến nay
còn rất yếu. Dưới góc độ kinh tế, đây là sự lãng phí trong phân bố nguồn lực tài
nguyên đất nước.
Lựa chọn nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Một trong những yếu tố tác động
đến sự thành công của khu công nghiệp là lựa chọn chủ đầu tư để xây dựng cơ sở hạ
tầng một cách hiện đại, trước hết chủ đầu tư cần có tầm nhìn sâu rộng để lựa chọn vị
trí chiến lược xây dựng khu công nghiệp, cần có nguồn vốn tương đối dồi dào đủ để
đảm bảo xây dựng theo đúng tiến độ, cần có kinh nghiệm trong việc xây dựng, quản lý
khu công nghiệp, cũng như trong việc quảng bá, tiếp thị thu hút đầu tư nhằm từng
bước nâng cao vị thế của KCN trên thương trường.
1.1.3.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội ngoài Khu công nghiệp:
Ngoài cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cần xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội KCN. Cơ sở hạ
tầng xã hội KCN là điều kiện cần thiết để hình thành các đô thị hiện đại trong vùng có
KCN. Khu dân cư; trường học; bệnh viện; trung tâm thương mại; trung tâm thể dục,
thể thao; cơ sở phục vụ văn nghệ, giải trí,… của dân; tất cả các yếu tố đó tạo thành cơ
sở hạ tầng xã hội KCN.
1.1.3.5. Xúc tiến đầu tư phát triển Khu công nghiệp:
Một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển KCN, và là một tiêu chí
đánh giá sự thành công của KCN, đó là kết quả của công tác xúc tiến đầu tư vào KCN.
xúc tiến đầu tư là kết quả tổng hợp của chính sách vĩ mô (môi trường tổng quát) và
chính sách vi mô (thuộc vùng và địa phương và của Công ty kinh doanh phát triển hạ
10
tầng KCN). Để KCN phát triển bền vững, phải xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư,
trong đó, xây dựng môi trường đầu tư có tính cạnh tranh là phương tiện để đạt mục
tiêu thu hút đầu tư vào việc chọn lựa các dự án vào các ngành nghề sử dụng công nghệ
cao với giá trị gia tăng sản phẩm lớn.
1.1.3.6. Quản lý nhà nước với Khu công nghiệp:
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thực hiện các thủ tục
pháp lý, cũng như từng bước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các KCN,
Cơ chế hành chính từng bước được hoàn thiện theo hướng đơn giản hoá các thủ tục, bộ
máy gọn nhẹ theo cơ chế “một cửa” nhằm giảm bớt những phiền hà cũng như thời
gian và chi phí cho nhà đầu tư.
1.2. THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
1.2.1 Đầu tư và vốn đầu tư:
1.2.1.1. Khái niệm đầu tư:
Theo nhà kinh tế học P.A Samuelson thì cho rằng: [Đầu tư là một hoạt động
tạo ra vốn tư bản thật sự, theo các dạng nhà ở, đầu tư vào tài sản cố định của doanh
nghiệp như máy móc, thiết bị và nhà xưởng và tăng thêm hàng tồn kho. Đầu tư cũng
có thể dưới dạng vô hình như giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nghiên
cứu, phát minh…]” (nguồn: Kinh tế học của P.A Samuelson, Wiliam D. Norhalls, nhà
xuất bản Thống kế). Trên góc độ làm tăng thu nhập cho tương lai, đầu tư được hiểu là
việc từ bỏ tiêu dùng hôm nay để tăng sản lượng cho tương lai với niềm tin, kỳ vọng
thu nhập do đầu tư đem lại sẽ cao hơn các chi phí đầu tư.
Theo Luật Đầu tư của Việt Nam (2005), [Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng
các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động
đầu tư] (nguồn: Luật Đầu tư năm 2005, nhà xuất bản Tư pháp). Khái niệm này cho
thấy, đầu tư chỉ là việc bỏ vốn để hình thành tài sản mà không cho thấy kết quả đầu tư
sẽ thu lợi ích kinh tế như thế nào nhằm thu hút đầu tư.
Từ các khái niệm trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm như sau:
(1) Hoạt động đầu tư thường sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau và thường sử
dụng đơn vị tiền tệ để biểu hiện. Các nguồn lực để đầu tư có thể bằng tiền, bằng các
loại tài sản khác như máy móc thiết bị, nhà xưởng, công trình xây dựng khác…thuộc
nhiều hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu nhà nước, tư nhân, nước ngoài.
11
(2) Đầu tư cần phải xác định trong một khoảng thời gian nhất định (có thể nhiều
năm, tháng…). Tuy nhiên thời gian càng dài thì mức độ rủi ro cũng càng cao bởi vì
nền kinh tế luôn thay đổi, lạm phát có thể xảy ra….cũng như những nguyên nhân chủ
quan khác có ảnh hưởng đến đầu tư.
(3) Mục đích của đầu tư là sinh lời trên cả hai mặt: lợi ích về mặt tài chính -
thông qua lợi nhuận gắn liền với quyền lợi của chủ đầu tư và lợi ích về mặt xã hội -
thông qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội ảnh hưởng đến quyền lợi của xã hội hay cộng
đồng.
1.2.1.2. Khái niệm về vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi và các tài sản hợp
pháp khác để thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư
gián tiếp. Nói cách khác, vốn đầu tư cùng với lao động và đất đai là những yếu tố đầu
vào cơ bản của mọi quá trình sản xuất. Mặc dù lý thuyết kinh tế hiện đại ngày nay đề
cập vốn đầu tư theo quan điểm rộng hơn, đầy đủ hơn, bao gồm cả đầu tư để nâng cao
tri thức, thậm chí bao gồm cả đầu tư để tạo ra nền tảng, tiêu chuẩn đạo đức xã hội, môi
trường kinh doanh (nguồn vốn xã hội) cũng là những đầu tư quan trọng của quá trình
sản xuất.
Ngay cả với khái niệm khá cụ thể và rõ ràng như vậy, thì nội dung của vốn đầu
tư phát triển cũng có khá nhiều điểm cần phải lưu ý:
- Ở phạm vi doanh nghiệp và sản xuất kinh doanh hộ gia đình, vốn đầu tư bao
gồm giá trị mua sắm máy móc, nhà xưởng, tài sản lưu động và chi phí khác cho mục
đích sản xuất của chính đơn vị cơ sở đó.
- Vốn đầu tư của nhà nước bao gồm cả những chi tiêu công cộng cho hạ tầng kỹ
thuật như cầu cống, đường xá, đê điều, các công trình phúc lợi như trường học, bệnh viện.
Mặc dù nó không tạo ra lợi nhuận hay mở rộng năng lực sản xuất cho cụ thể một ngành
hay lĩnh vực nào, song hiển nhiên đây cũng là nguồn lực được sử dụng để nâng cao năng
lực của cả nền kinh tế, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy đầu tư ở doanh
nghiệp và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
- Ở phạm vi toàn quốc, vốn đầu tư phát triển không đơn thuần là phép cộng vốn
đầu tư của các doanh nghiệp và vốn đầu tư nhà nước. Phần chuyển nhượng vốn, tài sản
giữa các doanh nghiệp đương nhiên phải loại trừ vì nó không làm tăng năng lực sản
xuất của quốc gia. Tính toán chỉ tiêu vốn đầu tư ở phạm vi địa phương (tỉnh, thành)
12
thậm chí lại còn khó khăn hơn nhiều, không những nó phải loại trừ phần chuyển
nhượng tài sản, thiết bị qua sử dụng, chuyển nhượng vốn lưu động (giữa các công ty
trên địa bàn) nhưng lại được tính nếu đó là mua bán, chuyển nhượng với các doanh
nghiệp ngoài tỉnh.
1.2.2. Các nguồn vốn đầu tư phát triển Khu công nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để phát triển kinh tế xã hội cũng như để
thành lập và sản xuất kinh doanh ở KCN. Trong mọi KCN, vốn phản ánh nguồn lực tài
chính được đầu tư để phát triển các KCN. Trong quản lý tài chính các KCN cần chú ý
quản lý việc huy động vốn và sự luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các
hình thái huy động của tài sản và hiệu quả hoạt động. Nói cách khác, vốn cần được
xem xét và quản lý trong trạng thái vận động và mục tiêu hiệu quả của vốn có ý nghĩa
quan trọng nhất
.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn cho phát
triển KCN được đa dạng hóa, giải phóng nguồn tài chính trong nền kinh tế, thúc đẩy
sự thu hút vốn vào các KCN. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và thị trường
tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các KCN mở rộng khả năng thu hút vốn vào đầu tư
phát triển.
Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài.
1.2.2.1. Nguồn vốn trong nước:
* Nguồn vốn nhà nước: nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn của
ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn
đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
- Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: đây chính là nguồn chi của ngân sách
nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự
án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của
doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần có sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác
lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội vùng, lãnh
thổ, quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp.
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: cùng với quá trình đổi mới và
mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng
13
trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn này được hình thành tư các nguồn
sau:
+ Vốn ngân sách nhà nước hàng năm dành cho tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản
+ Vốn huy động theo chủ trương chính sách của Chính phủ
+ Vay vốn nước ngoài tín dụng của Chính phủ và các nguồn viện trợ cho đầu tư
phát triển
+ Vốn thu hồi nợ cho chương trình tín dụng ưu đãi của nhà nước đã đầu tư
trước đầy đã đến hạn trả nợ
- Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: được xác định là thành phần giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối
lượng vốn nhà nước khá lớn. Các doanh nghiệp nhà nước là những doanh nghiệp
thường hoạt động trong những lĩnh vực và ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế và
của đất nước nên lượng vốn của doanh nghiệp nhà nước có ảnh hưởng lớn đối với toàn
bộ nền kinh tế.
* Nguồn vốn tư nhân:
- Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tích lũy của dân cư, của các
doanh nghiệp dân doanh (công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty
cổ phần, hợp tác xã…) được đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội thực hiện hoạt động
đầu tư phát triển. Quy mô của nguồn vốn này phụ thuộc vào:
+ Trình độ phát triển của đất nước.
+ Tập quán tiêu dùng của dân cư.
+ Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và
các khoản đóng góp đối với xã hội.
1.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI):
FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ
lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia điều
hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro
và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó. FDI vào KCN được thực hiện dưới các
hình thức khác nhau: Doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn, xây dựng hạ
tầng KCN
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư phát triển Khu công nghiệp.
- Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:
14
Vị trí địa lý thuận lợi gồm các yếu tố như tuyến giao thông bộ, hàng không, bến
cảng và các điều kiện thuận lợi khác như gần các trung tâm kinh tế và đô thị. Đó là nơi tập
trung lao động kỹ thuật có chất lượng cao; tập trung các cơ sở nghiên cứu khoa học, đào
tạo, dạy nghề giúp các khu công nghiệp phát triển thuận lợi. Vị trí gần các thành phố lớn, có
sẵn hệ thống ngân hàng tài chính, sẵn có những cơ sở công nông nghiệp phụ trợ cho công
nghiệp trong KCN.
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng
đến đầu tư phát triển KCN. Nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có sẽ làm giảm chi phí
vè nguyên vật liệu như chi phí về vận chuyển, chi phí nhập khẩu, chi phí lưu kho lưu
bãi. Sự kết hợp giữa nguồn lao động rẻ với nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước sẽ
làm giảm chi phí, hạ giá thanh nâng cao khả năng cạnh tranh.
Do đó, các KCN có vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều nguồn tài nguyên thiên
nhiên sẽ thu hút được các nhà đầu tư từ đó có điều kiện để phát triển.
Cơ sở hạ tầng sẵn có sẽ giảm chi phí đầu vào, giúp doanh nghiệp có thể nhanh
chóng tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh tận dụng thời cơ cạnh tranh. Đó là
một lợi thế của đầu tư vào các KCN so với đầu tư bên ngoài KCN.
- Các yếu tố chính trị, pháp luật, kinh tế:
Pháp luật: bao gồm toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, các
quy định, cơ chế chính sách của nhà nước có tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
hay không. Hành lang pháp luật là cơ sở để hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là
các nhà đầu tư nước ngoài.
Tình hình kinh tế: tình hình kinh tế của một quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn
đến việc thu hút đầu tư. Một quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng ổn định, chỉ số lạm
phát, trượt giá . ở mức thấp sễ hấp dẫn các nhà đầu tư.
Về chính trị: một quốc gia có nền chính trị ổn định các biến động lớn về chính
trị như: chiến tranh, đình công ít xảy ra là một trong những cơ sở để thu hút các nhà
đầu tư.
Sự ổn định về chính trị xã hội là điều kiện để:
+ Đảm bảo yếu tố đầu tư lâu dài, đó là yếu tố cơ bản;
+ Điều kiện ưu đãi về vốn (nhất là ODA) các khoản vay ngân hàng;
+ Tạo điều kiện về xuất nhập khẩu sản phẩm và nguyên vật liệu đầu vào;
+ Thuận lợi trong việc tiếp nhận công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới;
15
+ Thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài.
- Vốn đầu tư trong và ngoài nước:
Về vốn đối ứng trong nước: để có thể thu hút được vốn đầu tư nước ngoài vào
KCN thì cần phải có một lượng vốn đối ứng trong nước. Mặt khác, phải thu hút được
các nguồn vốn trong nước để bù đắp chi phí về cơ sở hạ tầng, các công phụ trợ khác.
Vốn đầu tư nước ngoài: đối với các nước đang phát triển thì vốn đầu tư nước
ngoài có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển triển kinh tế nói chung và phát
triển các khu công nghiệp nói riêng.
- Thị trường:
Mức tiêu thụ của thị trường trong và ngoài nước ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển KCN. Một quốc gia có sức tiêu thụ lớn về các loại hàng hoá và dịch vụ, có mối
quan hệ ngoại thương với nhiều quốc gia trên thế giới sẽ tạo điều kiện để phát triển
mạnh mẽ các doanh nghiệp trong KCN và các doanh nghiệp ngoài KCN. Từ đó tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng đầu tư
mới vào các KCN.
- Thị trường vốn:
Thị trường vốn bao gồm: thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị
trường thuê mua tài chính, và các định chế tài chính khác (NHTM, công ty bảo
hiểm, )
Thị trường vốn là kênh bổ sung các loại nguồn vốn trung và dại hạn cho các
chủ đầu tư. Thị trường vốn mà tập trung là thị trường chứng khoán như là một trung
tâm thu gom nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi
của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, Đây là một lợi thế mà không một
phương thức huy động nào có thể làm được.
Song hình thức huy động này chưa thực sự có hiệu quả đối với hoạt động thu
hút vốn của các KCN, nhưng trong tương lai đây sẽ là hình thức thu hút vốn lớn của
các khu công nghiệp
.
Ngoài ra thu hút đầu tư phát triển KCN còn ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như:
vốn đầu tư trong nước, nhu cầu chuyển giao công nghệ, yêu cầu về bảo vệ môi trường,
chính sách của địa phương ưu đãi vào KCN, thủ tục hành chính
16
1.3. KINH NGHIỆM MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP.
1.3.1. Kinh nghiệm Bình Dương:
Bình Dương là một trong những tỉnh hàng đầu trong cả nước về thu hút đầu tư.
Các KCN phát triển nhanh và ngày càng giữ vai trò quyết định trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Bình Dương, góp phần không nhỏ vào chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng công nghiệp hóa, đa dang hóa ngành
nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Bên cạnh đó,
các KCN góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tạo thuận lợi trong việc quản lý và
thu hút các dự án đầu tư một cách tập trung, theo đúng quy hoạch, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội và đô thị một cách đồng bộ trên địa bàn.
Toàn tỉnh Bình Dương đã có 28 KCN được thành lập với tổng diện tích là
8.925,13ha, trong đó 7 KCN thuộc Khu liên hợp công nghiệp - đô thị - dịch vụ Bình
Dương với diện tích 1.717,7ha. Tính đến nay đã có trên 1.280 dự án đầu tư vào các
KCN, gồm 984 dự án có vốn đầu tư nước ngoài (với tổng vốn 6.434 triệu USD) và 296
DN trong nước (vốn đăng ký 7.412 tỷ đồng).
Bình Dương xác định, từ nay đến năm 2020, công nghiệp là ngành kinh tế chủ
lực thực hiện công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của tỉnh trong đó các KCN
đóng vai trò quan trọng, tạo động lực tập trung thu hút đầu tư, phát triển các ngành
công nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vào địa bàn tỉnh theo đúng quy hoạch, góp
phần giải quyết việc làm, nâng cao trình độ lao động địa phương và bảo vệ môi trường.
Phát triển các KCN theo hướng hình thành chuỗi các KCN cùng với sự phát triển các
khu đô thị, khu dân cư và hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội cần thiết cho toàn khu vực,
góp phần đẩy mạnh tốc độ đô thị hóa, hiện đại hóa của tỉnh một cách đồng bộ. Quy
hoạch các KCN của tỉnh phù hợp với quy hoạch phát triển vùng theo hướng kết nối
với hệ thống giao thông, sân bay, cảng biển… trong khu vực Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam. Các KCN cần tập trung thu hút các dự án đầu tư có quy mô lớn, ít thâm
dụng lao động, ưu tiên các dự án đầu tư có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ sạch,
tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Phát triển các KCN phải gắn với đảm bảo quốc
phòng, an ninh, phòng chống các loại tội phạm, đồng thời quan tâm giải quyết các vấn
đề xã hội, đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến đội ngũ công nhân lao động và bảo
vệ môi trường.
17
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, Bình Dương điều chỉnh mở rộng diện
tích 3 KCN với tổng diện tích sau điều chỉnh l 3.631ha, tăng 2.087ha. Bổ sung quy
hoạch thành lập mới 11 KCN với 8.793ha, nâng tổng số KCN của tỉnh Bình Dương
lên 39 KCN với tổng diện tích 19.834,5ha. Việc phát triển các KCN như trên là phù
hợp với quá trình lan tỏa kinh tế từ vùng Nam Bình Dương lên phía Bắc. Các KCN
đóng vai trò làm động lực thúc đẩy kinh tế, xã hội của vùng Bắc Bình Dương phát
triển theo hướng công nghiệp hóa, đồng thời xây dựng và hiện đại hóa các đô thị của
các huyện mới của tỉnh trong tương lai, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
1.3.2. Kinh nghiệm Đồng Nai:
Đồng Nai cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 km, có điều kiện tự nhiên về
thổ nhưỡng, khí hậu và điều kiện hạ tầng giao thông thuận lợi, rất phù hợp cho việc
phát triển các KCN. Hiện nay, Đồng Nai là tỉnh dẫn đầu cả nước về số lượng các
KCN. Các KCN này đều nằm lân cận đường Quốc lộ 1 và Quốc lộ 51 là các tuyến
giao thông huyết mạch, rất thuận lợi cho việc cung cấp điện, nước, giao thông vận tải,
thông tin liên lạc và nguồn nhân lực…
Trong 5 năm 2006 - 2010, Đồng Nai đã phát triển thêm 11 khu công nghiệp,
nâng tổng số khu công nghiệp được thành lập trên địa bàn tỉnh lên 30 khu với diện tích
9.573 ha. Việc hình thành và phát triển các KCN của tỉnh Đồng Nai trong thời gian
qua đã góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp dịch vụ, tăng trưởng kinh tế, hình
thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó công
nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao, đồng thời cũng tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho người lao động khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Hiện có hơn 300 nghìn lao
động đang làm việc trong các KCN.
Từ kết quả đạt được trong thời gian qua đưa Đồng Nai trở thành tỉnh đứng đầu
cả nước về phát triển KCN, Ban Quản lý các KCN rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Chính sách pháp luật về đầu tư nước ngoài của Nhà nước Việt Nam không
ngừng được cải tiến theo hướng công khai, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế,
ngày càng thuận lợi, tạo sự yên tâm, tin tưởng của nhà đầu tư vào môi trường đầu tư
của Việt Nam nói chung và Đồng Nai nói riêng. Chính sách ưu đãi về thuế cho doanh
nghiệp trong KCN là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư đến với KCN.
18
- Chính quyền địa phương luôn luôn thực hiện phương châm “Đồng hành cùng
doanh nghiệp”, xử lý kịp thời các vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Tỉnh Đồng Nai đặc biệt quan tâm đến sự phát triển KCN của tỉnh nhà; tập
trung xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng KCN hoàn thiện, chất lượng tốt là một
nhân tố quan trọng quyết định tính hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư đến với các KCN ở
Đồng Nai. Hạ tầng ngoài KCN cũng được chính quyền quan tâm xây dựng đồng bộ
với hạ tầng trong KCN để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của các nhà đầu tư.
- Công tác tiếp thị, mời gọi đầu tư cũng được chú trọng qua việc tỉnh Đồng Nai
đã lập các đoàn công tác đi xúc tiến đầu tư tại nhiều nước có nền kinh tế phát triển như
Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật, Hàn Quốc… nhằm quảng bá, kêu gọi các tập đoàn kinh tế
có tiềm năng đầu tư vào KCN và tỉnh Đồng Nai. Bên cạnh đó, chính quyền tỉnh Đồng
Nai hết sức quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp để các doanh nghiệp ổn định và phát triển, từ đó các nhà đầu tư này
là cầu nối quan trọng để quảng bá hình ảnh môi trường đầu tư hấp dẫn của Đồng Nai
đến các nhà đầu tư tiềm năng trong tương lai.
- Không ngừng nâng cao các dịch vụ phục vụ doanh nghiệp như đào tạo nguồn
nhân lực, cung cấp dịch vụ thông tin viễn thông, dịch vụ ngân hàng, vận chuyển, kho
bãi… đặc biệt chú trọng đến chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của nhà đầu
tư.
1.3.3. Kinh nghiệm Bắc Ninh:
Bắc Ninh đang tập trung mọi nguồn lực tạo điều kiện thuận lợi về hạ tầng kỹ
thuật để phát triển mạnh công nghiệp. Chủ trương tập trung đầu tư xây dựng và phát
triển các KCN là giải pháp quan trọng hàng đầu. Bắc Ninh đặc biệt coi trọng công tác
xúc tiến, thu hút đầu tư; xác định là nhiệm vụ trọng tâm quyết định sự thành công của
mỗi KCN.
Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư kết hợp vừa mời gọi nhà đầu tư theo định
hướng, quy hoạch phát triển các KCN vừa hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động triển khai dự án
và mở rộng dự án sau cấp phép đầu tư. Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư được xác định
ngay từ công tác quy hoạch các KCN, là bước cụ thể hoá chủ trương về phát triển
KCN, đồng thời hội tụ những lợi thế để biến thành nguồn lực xây dựng các KCN. Đến
nay Bắc Ninh đã hoàn thiện quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2015, định hướng
19
đến năm 2020 được Chính phủ phê duyệt 15 KCN, tổng diện tích 7.525 ha (6.541ha
KCN và 984 ha đô thị). Theo số liệu từ Ban Quản lý các KCN Bắc Ninh, đến hết tháng
6 năm 2011, các KCN tập trung của tỉnh đã thu hút 356 dự án sản xuất kinh doanh, với
tổng vốn đăng ký đầu tư hơn 2.900 triệu USD.
Việc sắp xếp các nhà đầu tư cũng được coi trọng, mỗi KCN được bố trí một vài
tập đoàn đầu tư có quy mô lớn, công nghệ kỹ thuật cao, thương hiệu khu vực và toàn
cầu để kéo theo chuỗi các nhà đầu tư vệ tinh khác, tạo lập KCN chuyên ngành và xây
dựng hình ảnh, thương hiệu cho KCN, đồng thời là cơ sở để Bắc Ninh xác lập ngành
công nghiệp mũi nhọn mà trọng tâm là công nghiệp điện tử, cơ khí chính xác, vật liệu
mới, chế biến công nghệ cao. Việc hoàn thiện quy hoạch phát triển các KCN đến năm
2015, định hướng đến năm 2020 đã góp phần vào việc phân bố, điều chỉnh lại không
gian kinh tế - xã hội của tỉnh, thể hiện rõ nhất là thúc đẩy phát triển hệ thống cơ sở hạ
tầng như: điện, nước, giao thông vận tải tạo sự phát triển đồng đều, hỗ trợ lẫn nhau
giữa khu vực phía Bắc và Nam sông Đuống.
Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư còn được tính toán, điều chỉnh hợp lý giữa đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài bảo đảm sự hỗ trợ, tương tác, thúc đẩy phát triển
nhanh, hiệu quả, bền vững các KCN. Trong tổng số các dự án được cấp phép có 205
dự án trong nước và 151 dự án vốn nước ngoài. Các dự án đầu tư trong nước tập trung
chủ yếu giai đoạn đầu khởi công xây dựng các KCN, quy mô vừa và nhỏ vào các lĩnh
vực chế biến lương thực, thực phẩm góp phần giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội
và tiền đề thu hút dự án FDI giai đoạn sau. Thực tiễn đã chứng minh, trong bối cảnh
suy thoái kinh tế thế giới ảnh hưởng đến Việt Nam, các doanh nghiệp trong KCN Bắc
Ninh vẫn đứng vững. Các dự án đầu tư trong nước vào lĩnh vực chế biến lương thực,
thực phẩm tiêu thụ tại thị trường trong nước vẫn tăng sản lượng đã bổ trợ việc làm cho
các dự án FDI vào lĩnh vực điện tử gặp nhiều khó khăn trong đầu ra dẫn đến cắt giảm
nhân công hoặc tạm ngừng sản xuất để cơ cấu lại sản phẩm, điều chỉnh thị phần. Sự
tương trợ này giúp cho các KCN Bắc Ninh luôn ổn định, phát triển, an ninh trật tự xã
hội trong và ngoài vùng phụ cận KCN được giữ vững.
1.3.4. Kinh nghiệm Hưng Yên:
Sau cuộc khủng hoảng nghiêm trọng của kinh tế toàn cầu, năm 2010 nền kinh tế
thế giới đã có dấu hiệu phục hồi khá. Tại Việt Nam nói chung và tỉnh Hưng Yên nói
riêng đã có nhiều nhà đầu tư trên thế giới đến tham quan để tìm kiếm môi trường đầu
20
tư. Tỉnh Hưng Yên đã thực hiện nhiều biện pháp hữu hiệu nhằm tạo môi trường đầu tư
thuận lợi như đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung đầu tư phát triển hạ tầng
kỹ thuật, xã hội… trong đó chú trọng phát triển các KCN tập trung nhằm tạo mặt bằng
sẵn có với đầy đủ hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại để thu hút đầu tư. Tổng số các
KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn là 9 KCN với tổng vốn đầu tư
đăng ký 7.100 tỷ đồng và 51 triệu USD; tổng diện tích đất KCN là 2.185 ha. Các dự án
đầu tư trong các KCN tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực: sản xuất, gia công các sản
phẩm điện, điện tử; sản xuất thép và các sản phẩm từ thép; cơ khí chế tạo, cơ khí chính
xác; sản xuất lắp ráp ô tô xe máy; sản xuất chế biến thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ
sản; may mặc…
Nhằm tăng cường công tác quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết kịp thời khó
khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án đầu tư trong các KCN đảm bảo theo
đúng quy định của pháp luật, tỉnh Hưng Yên đã tổ chức rà soát, giám sát tình hình
triển khai thực hiện của các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong các
KCN; đôn đốc hướng dẫn các chủ đầu tư triển khai thực hiện dự án đảm bảo đúng tiến
độ, đúng mục tiêu đăng ký, phát hiện và xử lý kịp thời các doanh nghiệp vi phạm các
quy định của pháp luật về đầu tư.
Để thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường, Ban Quản lý các KCN tỉnh Hưng
Yên đã thường xuyên đôn đốc và kiểm tra các doanh nghiệp trong KCN thực hiện
nghiêm túc đấu nối nước thải vào hệ thống nước thải chung của KCN, yêu cầu các chủ
đầu tư hạ tầng xây dựng hệ thống thu gom nước thải và quản lý việc thu gom nước thải
trong khu công nghiệp theo đúng quy định.
Để thực hiện tốt hơn nữa công tác thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh,
thời gian tới Ban Quản lý các KCN tỉnh Hưng Yên tiếp tục thực hiện tốt công tác cải
cách các thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ; tăng cường công tác vận
động xúc tiến đầu tư vào trong các KCN, thực hiện tốt quản lý về quy hoạch xây dựng,
bảo vệ môi trường KCN; tích cực hỗ trợ các chủ đầu tư hạ tầng KCN trong quá trình
triển khai dự án, đặc biệt là công tác đền bù GPMB để chủ đầu tư hạ tầng KCN sớm
đầu tư xây dựng hạ tầng KCN, tạo mặt bằng có hạ tầng hoàn chỉnh, sẵn sàng tiếp nhận
các dự án đầu tư vào trong KCN. Ban Quản lý các KCN tỉnh Hưng Yên tiếp tục chỉ
đạo và phối hợp chặt chẽ cùng các Công ty phát triển hạ tầng KCN tiến hành triển khai
21
xây dựng nhà ở cho công nhân phục vụ cho các KCN, đảm bảo cho người lao động có
nơi ăn ở ổn định và yên tâm làm việc.
1.3.5. Những bài học kinh nghiệm với Hậu Giang:
Những năm đầu chia tách, ngành công nghiệp Hậu Giang không chỉ yếu mà còn
thụ động trong đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh trên
thương trường. Nhận thức về vai trò của KCN trong phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, xác định chỉ có phát triển công nghiệp là con đường ngắn nhất để đưa Hậu Giang
thoát cảnh thuần nông, lãnh đạo tỉnh Hậu Giang đã xây dựng chiến lược thu hút đầu tư
trong và ngoài nước như: quy hoạch mạng lưới phát triển các KCN, triển khai xây
dựng các KCN nhằm phát triển công nghiệp tạo thành bệ phóng vững chắc cho phát
triển kinh tế toàn tỉnh.
Quy hoạch mạng lưới các KCN: với lợi thế về vị trí của các KCN tỉnh Hậu
Giang là nằm giáp TP. Cần Thơ, đi qua trục giao thông huyết mạch như: quốc lộ 1A,
quốc lộ Nam Sông Hậu, đường quốc lộ 61, đường Bốn Tổng Một Ngàn, đường Quản
lộ Phụng Hiệp - Cà Mau, cầu Cần Thơ, cảng Cái Cui, sân bay Cần Thơ Đó là những
điều kiện thuận lợi và cơ hội lớn của địa phương khi quy hoạch và phát triển KCN kể
cả đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Tận dụng những cơ hội đó, tỉnh Hậu
Giang đã quy hoạch và triển khai xây dựng được 02 KCN là: KCN Sông Hậu và KCN
Tân Phú Thạnh, với tổng diện tích 492.25ha, thu hút 22 nhà đầu tư với tổng vốn đăng
ký đầu tư 9.014,1 tỷ đồng và 5,2 triệu USD. Đa số các KCN này đều thuận lợi về vận
chuyển kể cả đường thủy, đường bộ và gần với địa bàn TP. Cần Thơ. Từ đó, các nhà
đầu tư có thể đến và đầu tư vào KCN tại Hậu Giang rất dễ dàng và thuận lợi.
Xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN: cơ sở hạ tầng tại các KCN trên
địa bàn tỉnh Hậu Giang được quy hoạch phù hợp với quy hoạch của tỉnh, bao gồm hệ
thống đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, bưu chính viễn thông, hệ thống cấp
thoát nước và nhà máy xử lý nước thải… Tuy nhiên, việc xây dựng cơ sở hạ tầng gặp
phải một số khó khăn, vướng mắc như sau: nguồn vốn đầu tư thiếu, công tác giải
phóng mặt bằng chậm, chưa kịp thời giao đất, giao mặt bằng cho nhà đầu tư và đơn vị
thi công để triển khai thực hiện dự án, công tác đo đạc diện tích đất không chính xác,
kiểm kê, áp giá bồi thường còn nhiều thiếu sót. Công tác vận động tuyên truyền của
địa phương cho người dân về lợi ích của dự án chưa được sâu rộng, chưa giải quyết
22
dứt điểm các hộ dân cố tình kỳ kèo,… dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài gây khó
khăn trong công tác đền bù giải tỏa, bố trí tái định cư.
Các KCN được ưu tiên đầu tư bằng chính sách thu hút vốn, lãnh đạo tỉnh đã
linh động trong thu hút, mời gọi và chọn lọc từng dự án đầu tư. Tùy theo tính chất và
tầm quan trọng của dự án mà khuyến khích và mời gọi, phân bổ dự án sao cho phù hợp
với quy hoạch, lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm vẫn được xác định là ngành
công nghiệp chủ lực của địa phương. Tập trung phát triển công nghiệp phục vụ cho
nông nghiệp, kinh tế nông thôn, chế biến nông, thủy sản và tiêu thụ sản phẩm cho
nông dân. Từng bước tăng nhanh các sản phẩm công nghiệp có sử dụng công nghệ cao
và khôi phục các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống
Lãnh đạo tỉnh còn chủ động xúc tiến, kêu gọi đầu tư, đẩy mạnh hoạt động vận
động đầu tư vào các KCN. Hậu Giang đã tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư vào tỉnh,
thu hút nhiều tập đoàn và tổng công ty lớn, các đơn vị trong và nước ngoài tham gia.
Cũng tại các hội nghị này, lãnh đạo tỉnh đã ký kết nhiều bản ghi nhớ với các tập đoàn,
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Các cơ quan chức năng đẩy mạnh công tác cải tiến thủ tục hành chính theo
hướng đơn giản, nhanh chóng, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ doanh nghiệp
vì thủ tục hành chính nhanh chóng, đơn giản giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, giảm
giá thành và doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Cơ quan quản lý nhà nước trực
tiếp các KCN thực hiện hầu hết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa là Ban Quản lý
KCN, đây là bước cải cách hành chính mạnh mẽ đang phát huy tác dụng.
23
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH HẬU GIANG
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CỦA TỈNH HẬU GIANG:
2.1.1. Điều kiện tự nhiên:
-
Vị trí địa lý:
Tỉnh Hậu Giang được thành lập ngày 01/01/2004 trên cơ sở tách ra từ tỉnh Cần
Thơ theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI.
Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh Hậu Giang
Nguồn: VP UBND tỉnh Hậu Giang
Hiện nay, tỉnh Hậu Giang có 07 đơn vị hành chính: thành phố Vị Thanh, thị xã
Ngã Bảy, các huyện Châu Thành, Châu Thành A, Phụng Hiệp, Long Mỹ và Vị Thủy,
trung tâm hành chính của tỉnh đặt tại thành phố Vị Thanh. Diện tích tự nhiên là
24
160.059ha, trong đó đất thành thị là 11.513ha, chiếm 7,2%, đất nông thôn là
148.546ha, chiếm 92,8%.
Địa giới hành chính tiếp giáp 5 tỉnh: phía Bắc giáp TP. Cần Thơ; phía Nam giáp
tỉnh Bạc Liêu; phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang; phía Đông giáp tỉnh Sóc Trăng.
Hậu Giang có vị trí địa lý rất thuận lợi nằm trên các trục tuyến giao thông thủy
bộ quan trọng của tiểu vùng Tây Nam sông Hậu, có những điểm giao lưu kinh tế lớn
với các huyện thuộc tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Kiên Giang và với đô thị trung tâm
của vùng đồng bằng sông Cửu Long là TP Cần Thơ. Vị trí địa lý thuận lợi tạo cho
tỉnh điều kiện phát triển đồng bộ các khu vực kinh tế, xây dựng các KCN theo hướng
chế biến nông ngư sản và phục vụ nông ngư nghiệp, khu dân cư đô thị và khu thương
mại tập trung tương ứng với nhịp độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của TP Cần Thơ
và toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Địa hình, đất đai, sông ngòi:
Hậu Giang có địa hình khá bằng phẳng là đặc trưng chung của vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Theo kết quả của Chương trình Quốc gia Điều tra tổng hợp vùng
đồng bằng sông Cửu Long 60-B, tỉnh Hậu Giang nằm trong vùng đồng lũ nửa mở,
bao gồm 2 dạng địa mạo là: đê tự nhiên ven sông Hậu hình thành dãi đất hẹp có địa
hình cao và các cù lao dọc theo sông Hậu; đồng bằng châu thổ chiếm gần 95% diện
tích, có địa hình bằng phẳng, thấp dần theo hướng xa sông Hậu với một số vùng trũng
cục.
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Hậu Giang là 160.059ha. Từ năm 2005 đến
2010, cơ cấu sử dụng đất của tỉnh thay đổi theo hướng tăng nhanh đất phi nông nghiệp
và giảm đất nông nghiệp. Đây là quy luật chung của quá trình công nghiệp hóa: nhóm
đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, đến 2010 đạt khoảng 131.839,9ha (82,37% diện
tích tự nhiên), giảm 7.141,1ha (giảm 5,14% so với năm 2005); nhóm đất phi nông
nghiệp tăng nhanh, năm 2010 chiếm khoảng 17,44% diện tích tự nhiên, tăng 41% so
với năm 2005; đất chưa sử dụng đến năm 2010 chỉ còn 310ha (chiếm 0,19% diện tích
tự nhiên). Điều đó cho thấy tỉnh đã hết sức chú ý tận dụng đất đai chưa sử dụng cho
sản xuất kinh doanh.
Trên địa bàn tỉnh Hậu Giang có 4 hệ thống sông lớn gồm: sông Hậu (đoạn chảy
qua tỉnh 8km), sông Cái Lớn (đoạn qua tỉnh 57km), sông Cái Tư (đoạn qua tỉnh dài
15km) và sông Nước Trong (đoạn qua tỉnh 16km), cùng với hệ thống kênh rạch khá
25
dày, trong đó có 20 tuyến kênh rạch chính vừa làm nhiệm vụ cấp nước, vừa làm nhiệm
vụ tiêu cho tỉnh. Tuy nhiên cấp nước chính vẫn là từ sông Hậu, nguồn nước này quyết
định cho phát triển nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
- Cơ sở hạ tầng:
Từ khi chia đến nay, tỉnh Hậu Giang phấn đấu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
phát triển nhanh. Nổi lên là các công trình được Trung ương đầu tư trên địa bàn như:
đường Nam Sông Hậu, quốc lộ 1A, quốc lộ 61, cầu Cái Tư, tuyến lộ Bốn Tổng - Một
Ngàn, tuyến lộ Quản lộ - Phụng Hiệp, nạo vét tuyến đường thủy quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh - Cà Mau, kênh Nàng Mau 2, dự án Ô Môn - Xà No Tỉnh đầu tư nâng
cấp, cải tạo các tuyến đường tỉnh, huyện, hệ thống đường nội ô TP Vị Thanh, Ngã
Bảy, các thị trấn, hệ thống kè Xà No, đường nối thị xã Vị Thanh - Cần Thơ, nhiều
tuyến đường về trung tâm xã và các khu, cụm công nghiệp…
- Dân số:
Tổng dân số của Hậu Giang đến 2010 là 766.311 người. Quy mô dân số tỉnh
Hậu Giang vào loại nhỏ nhất so với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long: năm
2005 chiếm 4,6%, đến năm 2010 chỉ còn 4,3% dân số cả vùng đồng bằng sông Cửu
Long.
Quy mô dân số nhỏ, song do quy mô diện tích của tỉnh nhỏ nên mật độ dân số
đạt cao, năm 2010 khoảng 478 người/km
2
gấp 1,07 lần mật độ dân số cả vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Trong khí đó nhiều tỉnh có quy mô dân số lớn hơn Hậu Giang
như Long An, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau thì mật độ dân số các tỉnh
này đều nhỏ hơn mật độ dân số bình quân cả vùng ĐBSCL.
2.1.2. Khái quát tình hình kinh tế:
2.1.2.1. Tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
- Tổng giá trị gia tăng (tổng VA):
Tổng giá trị gia tăng của Hậu Giang tính đến năm 2010 ước tính đạt 12.171 tỷ
đồng giá thực tế (hiện hành) và khoảng 6.353 tỷ đồng theo giá so sánh 1994. Nếu so
sánh quy mô tổng VA (theo giá so sánh 1994) của năm 2010 với năm 2004 (năm mới
thành lập tỉnh) gấp khoảng gần 2 lần và so với năm 2005 (năm gốc của kế hoạch 2006
- 2010) gấp gần 1,8 lần.