Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa ở các tỉnh miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.19 KB, 74 trang )

PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm của doanh nghiệp Nhà nước
Trên quan điểm kế thừa và đổi mới Luật DNNN năm 2003, điều 4 khoản 22
và khoản 1 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “DNNN là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh trong đó
Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”. Như vậy, đối tượng doanh nghiệp thuộc
DNNN đã được mở rộng ra, trong mọi trường hợp, dù doanh nghiệp được thành lập
theo hình thức nào, chỉ cần có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu Nhà nước sẽ được
coi là DNNN.
1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước
- Chủ đầu tư: là Nhà nước hoặc Nhà nước cùng với các tổ chức, cá nhân
khác.
- Sở hữu vốn: Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (100%) hoặc sở hữu phần
vốn góp chi phối (trên 50% nhưng dưới 100% vốn điều lệ).
- Hình thức tồn tại: doanh nghiệp nhà nước có nhiều hình thức tồn tại. Nếu
doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ thì có các loại hình
doanh nghiệp như: công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách
nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước.
Nếu doanh nghiệp do nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ thì có thể tồn tại dưới
các loại hình doanh nghiệp sau: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Trách nhiệm tài sản: doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trong phạm vi
tài sản của doanh nghiệp. Nhà nước chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài sản
góp vốn vào doanh nghiệp.

1



- Tư cách pháp lý: doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân.
- Luật áp dụng: các công ty nhà nước đã thực hiện chuyển đổi thành công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ tổ chức và hoạt động theo luật doanh
nghiệp. Các loại doanh nghiệp nhà nước khác tổ chức và hoạt động theo luật doanh
nghiệp.
1.1.1.3. Các hình thức đổi mới doanh nghiệp Nhà nước
Gồm: giao, bán, khoán, cho thuê, cổ phần hóa.
- Bán doanh nghiệp bao gồm:
+ Bán toàn bộ hoặc bộ phận doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, công ty thành
viên hạch toán độc lập không phụ thuộc vào quy mô vốn nhà nước trong các trường
hợp sau:
a) Thuộc diện bán doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
trong Đề án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp 100% vốn nhà nước;
b) Thuộc diện cổ phần hóa trong Đề án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước nhưng không thực hiện cổ phần hóa được.
+ Bán đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, áp dụng đối
với các đơn vị hạch toán phụ thuộc của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước, công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc các trường
hợp sau:
a) Thuộc diện bán bộ phận doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt trong Đề án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nhưng không
ảnh hưởng đến hoạt động và khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bộ phận doanh
nghiệp còn lại;
b) Thuộc diện cổ phần hóa bộ phận doanh nghiệp trong Đề án tổng thể sắp xếp
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nhưng không thực hiện cổ phần hóa được.
- Giao doanh nghiệp: là việc chuyển sở hữu không thu tiền đối với doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước, công ty thành viên hạch toán độc lập thành sở hữu của
tập thể người lao động trong doanh nghiệp có phân định rõ sở hữu của từng người.
(sau đây gọi chung là giao doanh nghiệp) khi đáp ứng các điều kiện sau:

a) Giá trị tổng tài sản ghi trên sổ kế toán dưới 15 tỷ đồng;

2


b) Không có lợi thế về đất đai;
c) Thuộc diện giao doanh nghiệp trong Đề án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp
100% vốn nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc đã tiến hành bán
nhưng không bán được.
- Khoán kinh doanh đối với một doanh nghiệp nhà nước (gọi tắt là khoán kinh
doanh): là phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước mà bên nhận khoán được
giao quyền quản lý doanh nghiệp, có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu, bảo đảm
các điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán. [1]
- Cho thuê một doanh nghiệp nhà nước (gọi tắt là cho thuê doanh nghiệp): là
hình thức chuyển giao cho người nhận thuê quyền sử dụng tài sản và lao động trong
doanh nghiệp theo các điều kiện ghi trong hợp đồng thuê. [2]
1.1.1.4. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Xét về mặt thực chất, CPH chính là phương thức thực hiện xã hội hóa sở hữu,
chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành
công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp
với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
CPH DNNN là quá trình chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Hay
nói cách khác, CPH là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu đối với DNNN nhằm thu
hút các nguồn vốn và kinh nghiệm tổ chức sản xuất từ các nhà đầu tư và người lao
động. Đồng thời, nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ quản lý và phân phối
sản phẩm.
CPH ở nước ta không phải là tư nhân hóa, không biến các công ty cổ phần
thành công ty của số ít cổ đông của một số cá nhân mà làm cho đông đảo những
người lao động đều có cổ phần, trở thành người chủ thật sự của công ty.
1.1.1.5. Vai trò của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với
định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta. Ngoài mục tiêu nâng cao
1[ ] Điều 2, Điều 3 Nghị định Số: 109/2008/NĐ-CP
2[ ] Nghị định số 80/2005/NĐ-CP về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN

3


hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước, chủ trương này còn giúp người công
nhân lao động trực tiếp tại các xí nghiệp trở thành cổ đông, tức là đồng chủ sở hữu
thực sự của xí nghiệp cổ phần, chứ không phải là những người làm chủ trên danh
nghĩa (hình thức) như trước đây. Ngoài ra cổ phần hóa DNNN còn tác động đến tất
cả các mặt của đời sống xã hội, người lao động, nền kinh tế, chủ sở hữu, nhà nước.
- Đối với nền kinh tế:
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một trong những hướng quan trọng
của quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước - bộ phận không thể thiếu trong thành
phần kinh tế nhà nước. Trong đổi mới kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
Để giải phóng lực lượng sản xuất, tất yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang
cơ chế thị trường và xây dựng thể chế kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức
sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Muốn vậy, phải đổi mới
mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước.
Áp dụng chế độ cổ phần bằng cách cổ phần hóa doanh nghiệp, sẽ liên kết được
những nguồn vốn và tư liệu sản xuất phân tán của các sở hữu tư nhân lại với nhau,
làm cho nó trở thành nguồn vốn xã hội, thúc đẩy nhanh việc xã hội hóa nguồn vốn
và tư liệu sản xuất.
“Thực hiện CPH, doanh nghiệp đã thu hút được một lượng vốn lớn rất quan
trọng từ cán bộ công nhân viên làm việc trong doanh nghiệp và trong dân cư để đầu

tư phát triển” [3]
Doanh nghiệp có thể vừa bán cổ phần cho lao động trong doanh nghiệp vừa
bán cho tổ chức hay cá nhân ngoài doanh nghiệp thu hút lượng vốn đáng kể. Có như
vậy thì các chỉ tiêu về SXKD mới đạt và vượt kế hoạch đề ra làm lợi cho doanh
3[ ] Kinh tế nhà nước và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, PGS.TS. Ngô Quang Minh. NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội- 2001, trang 174.

4


nghiệp. Từ trước đến nay lượng vốn nhàn rỗi trong dân bị lãng phí, tuy rằng những
người có tiền họ vẫn có thể gửi tiết kiệm thu lãi suất hàng tháng. Nhưng lượng vốn
đó nếu được các chủ thể tận dụng làm vốn kinh doanh phát triển sản xuất thì lợi
nhuận sẽ lớn hơn rất nhiều. Hơn nữa việc đầu tư vào các công ty cổ phần thường
đem lại lợi ích lớn hơn so với việc gửi tiền vào các quỹ tín dụng hay ngân hàng.
Thông thường lợi tức do cổ phiếu mang lại cao hơn lãi suất tiền gửi, dẫn đến hiệu
quả kinh doanh cao, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Một đặc điểm nữa của các công ty cổ phần là các cổ đông trong công ty không
được phép rút vốn ra khỏi công ty mà chỉ có thể mua bán chuyển nhượng phần vốn
góp của mình cho những người khác thông qua thị trường chứng khoán. Do vậy số
vốn kinh doanh của các công ty cổ phần luôn ổn định cho dù có những biến động
lớn về nhân sự trong công ty. Có số vốn lớn, công ty cổ phần sẽ có những điều kiện
áp dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động, tận
dụng được hết những cơ hội kinh doanh, thích ứng nhanh được với những biến
động của thị trường, đem lại hiệu quả kinh doanh cao.
Với những lợi thế như trên việc cổ phần hóa sẽ có vai trò thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của thị trường chứng khoán, tạo điều kiện xã hội hóa các hình thức sở
hữu.
Ngoài ra, cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế

trong quá trình đổi mới, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, đa ngành, đa lĩnh
vực.
- Đối với người lao động:
+ Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tạo thêm nhiều việc làm
Sau khi cổ phần hóa việc sắp xếp lao động và giải quyết chính sách đối với lao
động dôi dư được thực hiện đúng theo quy định hiện hành. Kết quả điều tra của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại hơn 100 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần
hóa cho thấy, số lao động mới vào làm việc tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa
chiếm 15% tổng số lao động hiện có. Nhiều doanh nghiệp khi tiến hành sắp xếp lao
động, số người dôi dư nghỉ hưởng trợ cấp theo Nghị định 41/CP chiếm từ 20% đến
40% tổng số lao động trong doanh nghiệp, nhưng sau khi chuyển thành công ty cổ
phần, nhờ phát hành thêm cổ phiếu, huy động được vốn đầu tư phát triển sản xuất

5


kinh doanh, nên tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lao động hơn cả số
lao động đã nghỉ trước đó.
+ Tiền lương và thu nhập của người lao động được bảo đảm
Sau khi cổ phần hóa tiền lương và thu nhập của người lao động không ngừng
tăng, bởi lẽ: cơ chế quản lý ở công ty cổ phần về cơ bản được đổi mới; đặc biệt, ban
kiểm soát do đại hội cổ đông bầu có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát
các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty cổ phần. Tổ chức bộ máy của công
ty cổ phần được sắp xếp lại gọn nhẹ, năng động, khu vực hành chính được giảm tối
đa. Vấn đề chi tiêu trong công ty cổ phần được giám sát chặt chẽ, giảm tối đa những
khoản chi lãng phí. Mọi khoản chi và mức chi trong công ty đều phải công khai, do
đại hội cổ đông và hội đồng quản trị quyết định. Nhờ công khai, dân chủ, nên giá cả
nguyên vật liệu, thiết bị và dịch vụ đầu vào và bán thành phẩm đầu ra được kiểm
soát chặt chẽ, tránh được các hiện tượng thỏa thuận tăng giá "đầu vào", giảm giá
"đầu ra" để thu lợi bất chính...

+ Cổ phần hóa tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp
Chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH DNNN là tạo điều kiện cho người
lao động trong doanh nghiệp tham gia mua cổ phần và khẳng định quyền làm chủ
của mình. Cổ đông trong doanh nghiệp từ chỗ làm chủ hình thức sang làm chủ thực
sự sau khi doanh nghiệp CPH.
Cụ thể:
Nghị định số 64/ NĐ- CP, năm 2002, quy định: Người lao động được mua tối
đa 10 cổ phiếu cho mỗi năm làm việc với giá giảm 30% so với mệnh giá (mệnh giá
100.000 đ/cổ phiếu) và phải nắm giữ trong 3 năm.
Theo nghị định số 187/NĐ-CP, năm 2004: Người lao động được mua 100 cổ
phiếu cho mỗi năm làm việc với giá ưu đãi giảm 40% so với giá đấu thầu thành
công bình dân bán cho nhà đầu tư khác.
“Chỉ khi có vốn tham gia mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong
HĐQT (là cơ quan thay mặt mình để quản lý doanh nghiệp) thì lúc đó người lao
động mới có quyền thực sự, không bị một sức ép nào” [4]
4[ ] Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, PGS.PTS. Hoàng Công Thi và PTS.
Phùng Thị Đoan. NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội- 1992, trang 30.

6


Khi đã trở thành cổ đông, quyền lợi và trách nhiệm của người lao động gắn
chặt với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nếu muốn trở thành người chủ của
doanh nghiệp thì người lao động sẽ có trách nhiệm với công ty hơn. Có như vậy thì
kết quả SXKD của công ty mới thực sự có hiệu quả, họ mới được hưởng lợi nhuận
cao xứng đáng với sức lao động mà mình bỏ ra.
+ Chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước được các doanh nghiệp và người lao động hoan nghênh, đón nhận
tích cực.
Do có chính sách này, các doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa

đã sắp xếp lại lao động một cách cơ bản. Người lao động vì nhiều lý do khác nhau
không đáp ứng được yêu cầu mới trong sản xuất kinh doanh được giải quyết phù
hợp (nghỉ chờ hưu, đào tạo lại...). Doanh nghiệp có cơ hội tuyển dụng lao động có
trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều phát triển khá
vững chắc, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt.
Người lao động dôi dư khi rời khỏi doanh nghiệp được Nhà nước trợ cấp, hỗ
trợ. Nhiều người đã sử dụng số tiền này để tìm việc làm hoặc tự tạo cho mình việc
làm mới phù hợp hơn, bảo đảm cuộc sống cho bản thân và gia đình. Thực tế cho
thấy, điều làm cho người lao động dôi dư phấn khởi và yên tâm, nhất là được bảo
lưu chế độ bảo hiểm xã hội, được tạo điều kiện để tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội khi
làm việc ở các doanh nghiệp khác thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Đặc biệt, với
nhóm đối tượng lao động dôi dư đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ 15
năm đến dưới 20 năm, nhưng vì tuổi cao (nam trên 55, nữ trên 50) không có cơ hội
tìm việc làm mới, được tự đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi đủ tuổi hưu để hưởng
chế độ hưu trí.
- Đối với chủ sỡ hữu doanh nghiệp:
Cổ phần hóa tạo ra nhiều chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Chủ sở hữu trong
CTCP bao gồm Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài
doanh nghiệp. CTCP là tổ chức có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ được
hưởng phần lợi nhuận và chịu trách nhiệm tài chính phát sinh hoặc các rủi ro khác

7


trong phạm vi phần vốn góp của mình. Tuỳ vào mức cổ phần của mình trong công
ty, cổ đông được hưởng mức lợi nhuận hay trách nhiệm tài chính hoặc các khoản nợ
khác nhau tạo ra một sự phân tán rủi ro.
Người đầu tư vốn cũng tự chủ trong việc chọn công ty mà mình đầu tư, thậm
chí có thể đầu tư mua cổ phần và trở thành người chủ đồng sở hữu ở nhiều công ty

trong cùng thời điểm vì vậy họ cảm thấy an tâm và hạn chế được độ rủi ro cho phần
vốn của mình. CTCP tập hợp được nhiều lực lượng khác nhau trong hoạt động
chung của công ty nhưng vẫn tôn trọng sở hữu riêng đối với từng cổ đông cả về
trách nhiệm và quyền lợi theo mức vốn góp của mình. Mở rộng sự tham gia của các
cổ đông thu hút được lượng vốn đầu tư cho hoạt động SXKD, phát triển công ty.
- Đối với xã hội:
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa ở hầu hết các nước, tăng
trưởng GDP thường được coi là nhu cầu cấp bách, là ưu tiên số một trong chiến
lược phát triển, nhưng về lâu dài người ta càng thấy rõ nó không phải là duy nhất
của sự phát triển. Càng ngày nhân loại càng ý thức được một cách rõ ràng hơn tầm
quan trọng sống còn của sự phát triển bền vững cả về kinh tế và xã hội. Thực tiễn
thế giới cho thấy, chất lượng sống cao nhất không phải là ở những quốc gia giàu có
nhất theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa triệt để nhất. Nhiều công trình
nghiên cứu từ những góc độ khác nhau về thực tiễn đều có chung một kết luận rằng,
loại hình sở hữu hỗn hợp dưới hình thức phổ biến là các doanh nghiệp cổ phần, có
sức cạnh tranh cao nhất và tạo nên chất lượng tăng trưởng tốt nhất. Chính vì vậy
CPH sẽ tạo được một thị trường hỗn hợp, đáp ứng được yêu cầu của sự tăng trưởng.
Bởi vì, CPH tạo nguồn để giải quyết các vấn đề KT-XH khác như bảo đảm và có
thể mở rộng việc làm tăng thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp, đời
sống người dân được nâng cao, phúc lợi xã hội được đảm bảo.
1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa
- Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước: là doanh nghiệp
mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 51% vốn điều lệ, Nhà nước giữ
quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
- Doanh nghiệp nhà nước giữ quyền kiểm soát nhất định: tỷ lệ vốn chủ sở hữu
nhà nước nắm giữ từ 21%-50%

8



- Công ty cổ phần: tỷ lệ vốn chủ sở hữu nhà nước nắm giữ dưới 20%.
1.2. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá
1.2.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
- Khái niệm hiệu quả trên giác độ doanh nghiệp
“Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốn)
để đạt được mục tiêu xác định”. Từ khái niệm khái quát này, có thể hình thành công
thức biễu diễn khái quát phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:
H = K/C (1)
Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình kinh tế) nào đó; K là
kết quả thu được từ hiện tượng (quá trình) kinh tế đó và C là chi phí toàn bộ để đạt
được kết quả đó. Và như thế cũng có thể khái niệm ngắn gọn: hiệu quả kinh tế phản
ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được
với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ sử dụng các nguồn lực ở
mọi điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như thế hoàn toàn có
thể tính toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động và biến đổi không ngừng của
các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau
của chúng.
Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể hiểu
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và
tiền vốn) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định.
Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất kinh doanh nói riêng đã khẳng định bản chất của hiệu quả kinh tế
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là phản ánh mặt chất lượng
của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động,
thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng
của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp – mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận.


9


- Khái niệm hiệu quả trên giác độ quản lý
Bộ máy quản lý của doanh nghiệp được coi là hiệu quả khi được bố trí tinh
giản, gọn nhẹ, cơ cấu tổ chức phải đảm bảo mục tiêu của doanh nghiệp với chi phí
thấp nhất. Tổ chức bộ máy quản lý hiệu quả phải xác định rõ phạm vi, chức năng
và nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống và phải đảm bảo sự cân đối, loại trừ
những chức năng, nhiệm vụ chồng chéo, trùng lặp, thiếu người chịu trách nhiệm rõ
ràng. Mặt khác số lượng các cấp quản lý phải hợp lý để phù hợp với thực tế, tránh
rườm rà, phức tạp, lãng phí.
- Khái niệm hiệu quả trên giác độ kinh tế - xã hội
Hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội và
nền kinh tế quốc dân. Nó thể hiện qua việc tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người lao động
và tái phân phối lợi tức xã hội.
+ Tăng thu ngân sách
Mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có
nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế
doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt... Nhà nước sẽ sử
dụng những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và lĩnh
vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân.
+ Tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động
Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, hầu hết là các nước nghèo
tình trạng kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo lạc hậu
đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người
lao động.

+ Nâng cao đời sống người lao động
Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp
làm ăn phải có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét
trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua

10


chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức
tăng trưởng phúc lợi xã hội...
+ Tái phân phối lợi tức xã hội
Sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng, các lãnh
thổ trong một nước yêu cầu phải có sự phân phối lợi tức xã hội nhằm giảm sự chênh
lệch về mặt kinh tế giữa các vùng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện nay,
hiệu quả kinh tế xã hội còn thể hiện qua các chỉ tiêu: Bảo vệ nguồn lợi môi trường,
hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế...
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã
cổ phần hoá
1.2.2.1. Các chỉ tiêu tài chính

 Nhóm chỉ tiêu hiệu quả: Với các nhà đầu tư thì nhóm chỉ tiêu này có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng vì nó gắn liền với lợi ích kinh tế của nhà nhà đầu tư. Nó đánh giá kết quả
hoạt động kinh doanh của một kỳ và là căn cứ để nhà đầu tư đưa ra các quyết định
trong tương lai. Nhóm chỉ tiêu này cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố
đầu vào trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Nhóm hệ số này càng cao
nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay nghĩa là doanh thu tăng nhanh hơn chi phí
hoạt động. Điều này rất có lợi cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
+ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) [5].
Đứng trên góc độ là cổ đông, tỷ số quan trọng nhất là tỷ số lợi nhuận ròng trên
vốn chủ sở hữu (ROE). Tỷ số này được xác định bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế

chia cho doanh thu thuần.
ROE =
ROE cho biết bình quân mỗi 100 đồng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tạo
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận dành cho cổ đông. ROE càng cao thì khả năng cạnh
tranh của công ty càng mạnh và cổ phiếu của công ty càng hấp dẫn
+ Chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi trên Tổng tài sản[6]
5[ ] .Nguyễn Minh Kiều (2012), giáo trình Tài chính doanh nghiệp căn bản, NXB lao động - Hà

Nội, trang 97.
6[ ] .Nguyễn Minh Kiều (2012), giáo trình Tài chính doanh nghiệp căn bản, NXB lao động - Hà

Nội, trang 96.

11


Tỷ số ROA được xác định bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài
sản.
ROA =
ROA cho biết bình quân mỗi 100 đồng tài sản của doanh nghiệp tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận dành cho cổ đông và ROA đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản
của công ty.
+ Chỉ tiêu tỷ lệ hoàn vốn ROI[7]
- ROI là một chỉ tiêu để đánh giá tình trạng lãi suất của một công ty kinh
doanh, là thước đo phổ biến nhất được dùng để so sánh hiệu quả giữa sự đầu tư vào
công việc kinh doanh này với sự đầu tư vào công việc kinh doanh khác
ROI =
ROI cứ 100 đồng vốn sử dụng bình quân trong một thời kỳ mang về bao nhiêu
động lợi nhuận sau thuế. Giá trị ROI càng cao thì việc đầu tư càng hiệu quả, vốn sử
dụng càng có hiệu quả

+ Chỉ tiêu Lợi nhuận trên doanh thu ROS [8]
Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình
hình sinh lợi của công ty. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng dành cho cổ
đông và doanh thu của công ty.
ROS =
Tỷ số ROS phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận và doanh thu nhằm cho biết một
đồng doanh thu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
+ Chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phần EPS[9]

7[] Ngô Kim Phượng (2006), giáo trình Phân tích tài chính danh nghiệp, NXB Đại học kinh tế quốc
dân, trang 233.
8[] Nguyễn Minh Kiều (2012), giáo trình Tài chính doanh nghiêp căn bản, NXB Lao đọng – Hà
nội, trang 93.
9[] PGS. TS. Hà Thanh Việt (2013), Quản trị tài chính doanh nghiệp thực hành – Tập 1, NXB Đại
học kinh tế quốc dân, trang 97.

12


EPS là yếu tố quan trọng nhất quyết định giá trị của mỗi cổ phiếu vì nó đo
lường sức thu nhập chứa trong mỗi cổ phần. Hay nói cách khác, nó thể hiện thu
nhập mà nhà đầu tư có thể có được do mua cổ phiếu.

EPS =
Trong đó: Thu nhập ròng của cổ đông thường được tính bằng cách lấy LNST
trừ đi tiền lãi của cổ phần ưu đãi.

 Nhóm chỉ tiêu tăng trưởng:
+ Tốc độ tăng trưởng doanh thu
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cho biết mức tăng trưởng doanh thu tương đối

(tính theo phần trăm) qua các thời kỳ. Tỷ lệ này nhỏ hơn không đồng nghĩa với tăng
trưởng âm. Trường hợp doanh thu của một trong số các kỳ trước kỳ hiện tại bằng
không thì tỷ lệ tăng trưởng doanh thu là không xác định (thường chỉ xảy ra nếu kỳ
báo cáo là quý, hoặc trong năm hoạt động đầu tiên của doanh nghiệp). Công thức
tính tỷ lệ tăng trưởng doanh thu như sau:

Trong đó DT0 là doanh thu của kỳ hiện tại. DTi là doanh thu của i kỳ trước.
Doanh nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cao thường đang trong giai đoạn
phát triển mạnh, thị phần tăng hoặc đang mở rộng kinh doanh sang các thị trường
hoặc lĩnh vực mới. Tuy nhiên tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cao không nhất thiết đi
kèm với tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận cao.
Tùy vào xu hướng của tỷ lệ tăng trưởng doanh thu mà mức tăng trưởng được
đánh giá là bền vững, không ổn định, phi mã hay tuột dốc. Những doanh nghiệp có
mức tăng trưởng doanh thu ổn định ở mức cao luôn được các nhà đầu tư đặc biệt
quan tâm.
+ Tốc độ tăng trưởng thị phần: Thị phần là chỉ số đo lường phần trăm về mức
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp so sánh với đối thủ cạnh tranh hay toàn bộ một
thị trường. Vì thị phần ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận nên mọi công ty dù lớn
hay nhỏ thường muốn gia tăng thị phần. Thị phần của công ty càng lớn thì chứng tỏ
hiệu quả hoạt động của công ty càng cao.

13


+ Thu nhập của người lao động: Thu nhập của người lao động tăng lên là một
điều kiện quan trọng kích thích, khuyến khích lao động làm việc có hiệu quả hơn.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, lực lượng lao động của
mọi doanh nghiệp tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế. Bằng lao
động sáng tạo sẽ tạo ra công nghệ mới, thiết bị mới, nguyên vật liệu mới... có hiệu
quả hơn trước, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất, hiệu suất so với trước. Thứ hai

lực lượng lao động trực tiếp điều khiển thiết bị máy móc tạo ra kết quả của kinh
doanh. Hiệu quả của quá trình này thể hiện việc tận dụng công suất của thiết bị máy
móc, tận dụng nguyên vật liệu trực tiếp làm tăng năng suất lao động tăng hiệu quả
tại nơi làm việc, lao động có kỷ luật, chấp hành đúng nội quy vô thời hạn. Vì vậy
chăm lo đến việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ
lao động được coi là nhiệm vụ hàng đầu của nhiều doanh nghiệp. Thực tế cho thấy
doanh nghiệp vững mạnh trên thương trường là những doanh nghiệp có đội ngũ lao
động có trình độ chuyên môn cao, có tác phong làm việc khoa học và có kỉ luật
nghiêm minh.
1.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu phi tài chính
+ Việc làm và thu nhập của người lao động: Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đảm bảo cho người lao
động một môi trường làm việc chuyên nghiệp, văn minh và lịch sự. Thu nhập của
người lao động tăng lên là một điều kiện quan trọng kích thích, khuyến khích lao
động làm việc có hiệu quả hơn. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi
doanh nghiệp, lực lượng lao động của mọi doanh nghiệp tác động trực tiếp đến việc
nâng cao hiệu quả kinh tế. Bằng lao động sáng tạo sẽ tạo ra công nghệ mới, thiết bị
mới, nguyên vật liệu mới... có hiệu quả hơn trước, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng
suất, hiệu suất so với trước. Thứ hai lực lượng lao động trực tiếp điều khiển thiết bị
máy móc tạo ra kết quả của kinh doanh. Hiệu quả của quá trình này thể hiện việc
tận dụng công suất của thiết bị máy móc, tận dụng nguyên vật liệu trực tiếp làm
tăng năng suất lao động tăng hiệu quả tại nơi làm việc, lao động có kỷ luật, chấp
hành đúng nội quy. Vì vậy chăm lo đến việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn của đội ngũ lao động được coi là nhiệm vụ hàng đầu của nhiều doanh
nghiệp. Thực tế cho thấy doanh nghiệp vững mạnh trên thương trường là những

14


doanh nghiệp có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, có tác phong làm

việc khoa học và có kỉ luật nghiêm minh.
+ Đóng góp cho ngân sách nhà nước: Khi doanh nghiệp hoạt động, hàng năm
sẽ phải nộp các khoản thuế cho Nhà nước như thuế môn bài, thuế thu nhập doanh
nghiệp,…Những khoản thuế này sẽ làm tăng khoản thu ngân sách Nhà nước, từ đó
Nhà nước có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội của mình. Doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ đóng góp tích cực vào nguồn thu ngân sách nhà nước.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước đã cổ phần hóa
1.3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
- Chiến lược kinh doanh sau cổ phần hóa
Chiến lược kinh doanh giúp cho doanh nghiệp nhận rõ được mục đích hướng
đi của mình trong tương lai làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh đóng vai trò định hướng hoạt động trong dài hạn của doanh
nghiệp, nó là cơ sở vững chắc cho việc triển khai các hoạt động tác nghiệp. Chiến
lược kinh doanh giúp cho doanh nghiệp nắm bắt và tận dụng các cơ hội kinh doanh,
đồng thời có biện pháp chủ động đối phó với những nguy cơ và mối đe dọa trên
thương trường kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, tăng
cường vị thế của doanh nghiệp đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển liên tục và bền
vững, tạo ra các căn cứ vững chắc cho doanh nghiệp đề ra cách quyết định phù hợp
với sự biến động của thị trường.
Tại các DNNN ở Việt Nam, chiến lược kinh doanh còn nhiều bất cập. Việc
CPH chính là cơ hội giúp các doanh nghiệp cải thiện chiến lược chiến lược kinh
doanh - đây là một hoạt động quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt
động khác và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước
sau CPH. Sau khi tiến hành CPH, về công tác hoạch định chiến lược, các doanh
nghiệp đều gặp phải những khó khăn và thuận lợi nhất định. Sau CPH, điểm thay
đổi rõ nét nhất trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp là tính tự chủ và
linh hoạt cao. Doanh nghiệp được nắm quyền chủ động trong việc hoạch định chiến
lược, các quyết định đều dựa trên nhu cầu thực tế của thị trường, tình hình hiện tại
của doanh nghiệp, không còn chịu sự chi phối và điều tiết của Nhà nước như trước


15


đây. Tuy nhiên, CPH cũng tạo ra nhiều bất lợi trong quá trình hoạch định chiến lược
kinh doanh: do thoát khỏi mô hình DNNN, mặc dù được chủ động và linh hoạt hơn
nhưng bên cạnh đó thì doanh nghiệp không những phải cạnh tranh với các doanh
nghiệp tư nhân khác mà còn phải cạnh tranh với chính các DNNN hoạt động trong
cùng lĩnh vực. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế khó khăn, các doanh nghiệp phải
thận trọng hơn trong mọi chính sách, cũng như các quyết định về chiến lược kinh
doanh để có thể tận dụng những thế mạnh để phát triển được trong bối cảnh khó
khăn chung của thị trường. Ngoài ra, các yếu tố như: không còn được sự trợ giúp
của Nhà nước; phải tiến hành điều tra, khảo sát thị trường; đánh giá đối thủ; phân
tích điểm mạnh, yếu của chính bản thân doanh nghiệp, chưa có kinh nghiệm trong
việc tự xây dựng chiến lược kinh doanh là những khó khăn mà tất cả các doanh
nghiệp đều gặp phải. Đây chính là những điểm khác biệt trong công tác hoạch định
chiến lược kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN sau CPH tại
Việt Nam hiện nay. Tóm lại, có thể nói rằng, chiến lược kinh doanh sau CPH là một
nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
- Chính sách tài chính
Tài chính đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, chi phối
mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp gồm
các chính sách về quản lý vốn, tài sản, doanh thu, chi phí và phân phối thu nhập.
Trước đây, khi chưa CPH, các quyết định tài chính đều do Ban Giám đốc ra quyết
định. Sau CPH, tất cả các quyết định lớn về vấn đề tài chính đều được đưa ra thảo
luận và biểu quyết tại hội nghị cổ đông. Tuy nhiên, nhiều quyết định vẫn được đưa
ra bởi Hội đồng quản trị trong khi bộ máy này gần như là không có nhiều sự thay
đổi ở rất nhiều doanh nghiệp. Điều này làm hạn chế sức sáng tạo và không mang lại
nhiều thay đổi trong các chính sách tài chính. Dù vậy, các doanh nghiệp sau CPH
cũng cho thấy mình chủ động hơn trong việc đưa ra các quyết định về chính sách tài

chính và quản trị tài chính, mạnh dạn mở rộng đầu tư thêm nhiều hạng mục và lĩnh
vực khác. Những vấn đề này trước đây thường do Ban Giám đốc quyết định, tuy
nhiên sau cố phần hóa, các vấn đề đều được đưa ra thảo luận và quyết định trong
cuộc họp hội đồng quản trị. Điều này không những nâng cao tính minh bạch mà còn

16


khuyến khích sức sáng tạo, từ đó tăng hiệu quả thực hiện các quyết định tài chính,
nâng nao được hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
- Các nhân tố thuộc về quản trị doanh nghiệp (corporate governance) sau CPH
Khi còn là DNNN thì bộ máy nhân sự khá cồng kềnh, các bộ phận hoạt động
chồng chéo lên nhau; sau khi chuyển sang công ty cổ phần, các doanh nghiệpđổi
mới tổ chức quản lý, đổi mới quản trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp tổ chức lại bộ
máy gọn nhẹ hơn, năng động, linh hoạt hơn trước sự thay đổi của thị trường để thúc
đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Các nhân tố thuộc về quản trị doanh
nghiệp sau CPH có thể kể đến là: quản trị chiến lược, quản trị tài chính và quản trị
nhân sự - ba lĩnh vực rất quan trọng trong quản trị doanh nghiệp và có ảnh hưởng
lớn đến hoạt động của doanh nghiệp.
Quản trị chiến lược với việc xác định mục tiêu chiến lược, xây dựng các chiến
lược, chính sách và kế hoạch là một trong những khâu đầu tiên và quan trọng hàng
đầu của công tác quản trị doanh nghiệp, góp phần giúp doanh nghiệp đạt được
những mục tiêu đã đặt ra và đối phó với những nguy cơ hay nắm bắt các cơ hội do
ảnh hưởng từ sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh. Các chiến lược
được đưa ra đều có sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều đối tượng từ ban quản
trị, ban giám đốc cũng như các cổ đông và thậm chí là của cả các chuyên gia có
kinh nghiệm được thuê từ bên ngoài giúp hoạt động quản trị chiến lược của doanh
nghiệp trở nên khách quan và hiệu quả hơn. Việc hoạch định và quản trị chiến lược
với sự tham gia của các thành phần này cũng đem lại những sự cẩn trọng nhất định
khi lập chiến lược cho doanh nghiệp. Nhìn chung, quản trị chiến lược có những biến

chuyển tích cực.
Quản trị tài chính cũng là một công tác rất quan trọng trong quản trị doanh
nghiệp; đó là việc đưa ra các quyết định về tài chính, tổ chức việc thực hiện các
quyết định nhằm đạt được mục tiêu hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Quản trị
tài chính có chức năng hoạch định chiến lược tài chính của doanh nghiệp, đảm bảo
đủ nguồn tài chính cho doanh nghiệp, huy động vốn với chi phí thấp nhất, và sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh. Quản trị tài chính có chức
năng hoạch định chiến lược tài chính của doanh nghiệp, đảm bảo đủ nguồn tài chính
cho doanh nghiệp, huy động vốn với chi phí thấp nhất, và sử dụng tiết kiệm, có hiệu

17


quả các nguồn vốn kinh doanh. Có thể mô tả quản trị tài chính doanh nghiệp thông
qua ba quyết định quan trọng: quyết định đầu tư, quyết định tài chính và quyết định
phân chia lợi nhuận.
Quản trị nhân sự là công tác thiết yếu có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành
công của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp không chỉ cần mạnh về công nghệ mà
cần phải có một đội ngũ nhân sự chất lượng cùng với trình độ quản lý phù hợp. Sau
CPH doanh nghiệp nhà nước, nhân lực ở các danh nghiệp mở rộng cả về chất và
lượng chính là một trong những yếu tố cốt lõi để hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp tăng cao. Quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, các cổ đông tham
gia góp vốn cũng được thực hiện tốt hơn. Các công tác tuyển dụng, đào tạo và đãi
ngộ cũng có những quan tâm, chú trọng và thay đổi nhất định theo hướng chặt chẽ,
minh bạch, công khai và mang tính cạnh tranh hơn trước, nhằm thu hút và giữ chân
người tài cho doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh hiện nay và khi doanh nghiệp
phải tự mình quản lý các vấn đề. Điều này tác động không nhỏ đến hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.
- Chính sách đối với người lao động sau cổ phần hóa
Sau CPH, các DNNN phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn, trong đó đáng kể đến

là việc thực hiện giải quyết các chế độ, chính sách đối với người lao động như:
chính sách mua cổ phần và mua thêm cổ phần với giá ưu đãi; chế độ hưu trí; chế độ
trợ cấp thôi việc; chế độ đối với lao động dôi dư; trợ cấp mất việc làm;… Do các
chính sách này, các doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa đã sắp xếp lại
lao động một cách cơ bản. Người lao động vì nhiều lý do khác nhau không đáp ứng
được yêu cầu mới trong sản xuất kinh doanh được giải quyết phù hợp. Doanh
nghiệp có cơ hội tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, các doanh
nghiệp sau cổ phần hóa đều phát triển khá vững chắc, năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt. Người lao động dôi dư khi rời khỏi doanh
nghiệp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ. Nhiều người đã sử dụng số tiền này để tìm
việc làm hoặc tự tạo cho mình việc làm mới phù hợp hơn, bảo đảm cuộc sống cho
bản thân và gia đình. Thực tế cho thấy, điều làm cho người lao động dôi dư phấn
khởi và yên tâm, nhất là được bảo lưu chế độ bảo hiểm xã hội, được tạo điều kiện

18


để tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội khi làm việc ở các doanh nghiệp khác thuộc khu
vực ngoài quốc doanh.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
- Chính sách ưu đãi của trung ương/địa phương đối với DNNN sau CPH
Sau CPH các DNNN gặp phải những khó khăn nhất định. Do đó, các chính
sách ưu đãi của Trung ương và địa phương sẽ là động lực lớn tạo điều kiện cho
nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư, phát triển, nâng cao hiệu quả
hoạt động của mình. Một số chính sách có thể kể đến như là: Các thủ tục hành
chính tại địa phương: cấp giấy phép đầu tư, thủ tục hành chính – hải quan, thủ tục
hành chính thuế, miễn giảm thuế, hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ thuê đất,... Điều 36 của
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ đã quy định: “ Doanh
nghiệp sau khi CPH được tiếp tục vay vốn ngân hàng tại các ngân hàng thương mại,

công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế như đối với
các công ty nhà nước”. Nhưng trên thực tế, có sự phân biệt, bất bình đẳng giữa
DNNN và doanh nghiệp CPH. Các DNNN có cơ chế ưu đãi hơn so với công ty cổ
phần ra đời từ chính DNNN. Ví dụ: Các doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong việc
vay vốn, bởi sau khi chuyển sang hoạt động theo lĩnh vực công ty cổ phần, họ
không phải thuộc thành phần kinh tế nhà nước nữa, vì vậy các Ngân hàng Thương
mại cũng dè chừng hơn trong việc giải ngân cho các doanh nghiệp này. Ngoài ra,
khi còn là DNNN, họ sẽ dễ dàng được bổ sung vốn, vay vốn cũng như bảo lãnh nợ,
các DNNN còn được ưu tiên nhận những dự án đầu tư, ưu tiên cấp hạn ngạch trong
xuất – nhập khẩu, ưu tiên được liên doanh với các đối tác nước ngoài. Nhưng sau
khi đã CPH, tất cả các ưu thế đó sẽ bị mất đi, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn hơn
nhiều trong việc huy động vốn. Theo nghị định 187/2004, doanh nghiệp CPH sẽ
được miễn 100% thuế TNDN trong 2 năm đầu tiên kể từ khi có thu nhập chịu thuế
và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo. Như vậy, bên cạnh những yếu tố nội tại của
doanh nghiệp thì những chính sách ưu đãi của địa phương tác động không nhỏ đến
hiệu quả hoạt động của các DNNN sau CPH.
- Cơ chế quản lý tài chính của nhà nước đối với DNNN sau CPH

19


Trong những năm qua, hệ thống cơ chế, chính sách tài chính đối với DNNN
đã được hình thành và đang dần được hoàn thiện, thống nhất với mọi thành phần
kinh tế, góp phần tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Qua đó góp phần thực hiện phân bổ lại nguồn lực trong từng ngành kinh tế chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Sự đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách tài chính doanh nghiệp trong thời gian
qua đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng giảm thiểu can thiệp hành chính của
cơ quan quản lý nhà nước gắn với nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh và tài chính. Khuyến khích doanh nghiệp

nâng cao chất lượng quản trị, năng lực cạnh tranh, công khai, minh bạch thông tin,
thích ứng với điều kiện hội nhập. Với hệ thống cơ chế quản lý, giám sát vốn và tài
sản nhà nước tại doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc thực hiện tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng điều hành sản xuất
kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đổi mới phương thức quản lý
vốn nhà nước từ quản lý hành chính sang quan hệ đầu tư, kinh doanh vốn, xác định
rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu vốn, người quản lý điều hành doanh nghiệp, tăng
cường tính tự chủ cho doanh nghiệp có vốn nhà nước. Vì vậy, bước đầu đã xác lập
rõ được quyền và nghĩa vụ của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Theo quy định tại Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý
vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác ban hành kèm theo Nghị định số
09/2009/NĐ-CP ngày 05/2/2009 của Chính phủ thì đại diện chủ sở hữu quyết định
đầu tư, góp vốn, điều chỉnh tăng giảm vốn đầu tư tại các công ty cổ phần; cử, bãi
miễn, khen thưởng, kỷ luật, quyết định tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng và các vấn
đề đãi ngộ đối với người đại diện phần vốn nhà nước; giao nhiệm vụ và chỉ đạo
người đại diện bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của Nhà nước… giám sát kiểm tra
việc sử dụng vốn góp, chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển
vốn góp. Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp được quyền tham gia
ứng cử vào bộ máy quản lý điều hành của công ty cổ phần để thực hiện các quyền
của cổ đông; giám sát tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác; người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp khác khi được quyền mua

20


cổ phiếu phát hành thêm, trái phiếu chuyển đổi theo quyết định của công ty cổ phần
(trừ trường hợp được mua theo quyền của cổ đông hiện hữu) thì phải báo cáo bằng
văn bản cho chủ sở hữu vốn và chủ sở hữu vốn nhà nước quyết định bằng văn bản
số lượng cổ phần người đại diện được mua theo mức độ đóng góp và kết quả thực
hiện nhiệm vụ của người đại diện. Phần còn lại thuộc quyền mua của chủ sở hữu

vốn nhà nước….Việc cổ đông nhà nước từ chối không mua khi doanh nghiệp khác
tăng vốn do công ty nhà nước không có nhu cầu đầu tư bổ sung vốn thì người đại
diện phần vốn nhà nước báo cáo đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước xem xét,
quyết định chuyển nhượng quyền mua, quyền góp vốn theo quy định của pháp luật
về chứng khoán.
- Sự phát triển của thị trường tài chính: thị trường cổ phiếu, trái phiếu.
Các DNNN sau khi chuyển thành công ty cổ phần có khả năng huy động vốn
thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Một thị
trường chứng khoán với quy mô lớn và chất lượng cao sẽ tạo điều kiện cho thị
trường vốn hoạt động mạnh.
Thực tế cho thấy, tiến trình sắp xếp, CPH DNNN và thị trường chứng khoán
có mối quan hệ tương hỗ và tác động qua lại lẫn nhau. Khi tái cấu trúc DNNN được
thực hiện triệt để và thành công sẽ góp phần thúc đẩy công tác tạo hàng cho thị
trường chứng khoán. Nhiều DNNN lớn, tài chính lành mạnh, có uy tín, hoạt động
hiệu quả được CPH và đưa vào niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ góp phần
làm tăng cung hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường chứng khoán, tăng tính
hấp dẫn các nhà đầu tư, thúc đẩy thị trường ngày càng phát triển.
Ngược lại, thị trường chứng khoán phát triển cũng góp phần quan trọng trong
tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, đặc biệt là tái cấu trúc hệ thống DNNN
nói riêng và cụ thể là CPH, thoái vốn tại các tập đoàn, Tổng công ty nhà nước lớn.
Do đó, thị trường chứng khoán cũng phải hoạt động công bằng, hiệu quả để hỗ trợ
trở lại cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế. Thông qua thị trường chứng khoán,
Chính phủ huy động được lượng vốn lớn phục vụ cho đầu tư phát triển, cân đối
ngân sách, đặc biệt từ nguồn Trái phiếu Chính phủ; Doanh nghiệp cũng huy động
được nguồn vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Điều này vừa góp phần giảm

21


áp lực cho NSNN và hệ thống ngân hàng, giúp doanh nghiệp thay đổi “thói quen”

từ việc chỉ nhăm nhăm huy động vốn từ các ngân hàng thương mại và ỷ lại vào
nguồn tài trợ từ NSNN, chuyển sang chủ động huy động vốn qua thị trường chứng
khoán, vừa phù hợp với nền kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập.

22


PHẦN 2
KINH NGHIỆM CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Ở CÁC TỈNH MIỀN TRUNG
2.1. Vị trí địa lý và điều kiện kinh tế - văn hóa xã hội của các tỉnh miền Trung
2.1.1. Vị trí địa lý
Miền Trung Việt Nam (Trung Bộ) có phía Bắc giáp khu vực đồng bằng Sông
Hồng và Trung du miền núi vùng Bắc Bộ; phía Nam giáp các tỉnh Bình
Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu vùng Nam Bộ; phía Đông giáp Biển Đông;
phía Tây giáp 2 nước Lào và Campuchia. Dải đất miền Trung được bao bọc bởi
những dãy núi chạy dọc bờ phía Tây và sườn bờ biển phía Đông, vùng có chiều
ngang theo hướng Đông - Tây hẹp nhất Việt Nam (khoảng 50 km) và nằm trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình.
Địa hình miền Trung gồm 3 khu vực cơ bản là Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên và Nam Trung Bộ.
Bắc Trung Bộ bao gồm các dãy núi phía Tây, nơi giáp Lào có độ cao trung
bình và thấp. Riêng miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hoá có độ cao từ 1000 - 1500m.
Khu vực miền núi Nghệ An - Hà Tĩnh là đầu nguồn của dãy Trường Sơn có địa
hình rất hiểm trở, phần lớn các núi cao nằm rải rác ở đây. Các miền đồng bằng có
tổng diện tích khoảng 6.200km2, trong đó đồng bằng Thanh Hoá do nguồn phù sa
từ sông Mã và sông Chu bồi đắp, chiếm gần một nửa diện tích và là đồng bằng rộng
nhất của Trung Bộ.
Tây Nguyên có diện tích khoảng 54.473,7km2, nằm về vị trí phía Tây và Tây
Nam Trung Bộ (phía Tây dãy Trường Sơn). Tây Nguyên có phía Tây giáp 2 nước

Lào và Campuchia, phía Đông giáp khu vực kinh tế Nam Trung Bộ và phía Nam
giáp khu vực Đông Nam Bộ. Địa hình Tây Nguyên đa dạng, phức tạp, chủ yếu là
cao nguyên với núi cao ở độ cao từ 250 - 2500m.
Nam Trung Bộ thuộc khu vực cận giáp biển. Địa hình ở đây bao gồm đồng
bằng ven biển và núi thấp, có chiều ngang theo hường Đông - Tây (trung bình 40 –
50 km), hạn hẹp hơn so với Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Có hệ thống sông ngòi
ngắn và dốc, bờ biển sâu với nhiều đoạn khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp. Các miền

23


đồng bằng có diện tích không lớn do các dãy núi phía Tây trải dọc theo
hướng Nam tiến dần ra sát biển và có hướng thu hẹp dần diện tích lại. Đồng bằng
chủ yếu do sông và biển bồi đắp, khi hình thành nên thường bám sát theo các chân
núi.
Xét chung, địa hình Trung Bộ có độ cao thấp dần từ khu vực miền núi xuống
đồi gò trung du, xuôi xuống các đồng bằng phía trong dải cồn cát ven biển rồi ra
đến các đảo ven bờ.
2.1.2. Điều kiện khí hậu
Miền Trung là vùng có điều kiện khí hậu khắc nghiệt nhất trong cả nước.
Hàng năm thường xảy ra nhiều thiên tai như bão, lũ, gió Lào, hạn hán, mà nguyên
nhân cơ bản là do vị trí, cấu trúc địa hình tạo ra. Vùng này cũng chịu ảnh hưởng của
gió mùa Đông Bắc lạnh, tuy nhiên không nhiều như ở Bắc Bộ. Điều kiện khí hậu
của vùng gây khó khăn cho sản xuất đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
2.1.3. Điều kiện kinh tế
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với 5 tỉnh Đà Nẵng, Thừa
Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, có nhiều lợi thế về vị trí chiến
lược bao gồm nguồn nhân lực, 17 cảng biển, 15 khu kinh tế, 22 khu công nghiệp, 2
khu chế xuất, 8 sân bay, 2 xa lộ xuyên Việt, là hành lang kinh tế Đông Tây. Tuy
nhiên, hiện nay các tiềm năng sẵn có đó vẫn chưa phát huy được lợi thế kinh tế

vùng miền nói chung khi các tỉnh, thành đều có những ưu thế nhưng chưa được quy
hoạch tổng thể, đang còn tồn tại sự phát triển lao động sản xuất manh mún, tự phát.
Các cảng biển nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương (Hà Tĩnh), Chân Mây (Thừa Thiên
Huế), Tiên Sa (Đà Nẵng), Kỳ Hà (Quảng Nam) và Dung Quất (Quảng Ngãi) không
được hoạt động hết công suất tối đa. Các khu công nghiệp - chế xuất đang trong
tình trạng thiếu vắng các doanh nghiệp trong và ngoài nước trú trọng và quan tâm
đầu tư.
2.1.4. Điều kiện văn hóa xã hội
Miền Trung, ngoại trừ Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, từng là nơi định cư
của các tiểu vương quốc Chăm-pa. Vì vậy đặc điểm căn bản văn hoá vùng miền chủ
yếu mang dấu tích của văn hoá Chăm-pa. Nhiều di sản văn hoá hữu thể còn tồn tại
từ thời đó đến nay như tháp Chăm ở Huế, tháp Đôi Liễu, Cốc Thượng, Núi Rùa

24


ở Quảng Nam, Đà Nẵng được xem như những đại diện tiêu biểu cho các giai đoạn
phát triển nghệ thuật và kiến trúc đối với lịch sử của nền văn hoá Trung Bộ.
So sánh với 2 vùng Bắc Bộ và Nam Bộ thì Trung Bộ thể hiện rõ nét là một
vùng đệm mang tính trung gian. Nơi đây phần nào đã chịu sự ảnh hưởng từ các yếu
tố tự nhiên là núi non, biển, sông ngòi, các đầm và đồng bằng, vào trong các thành
tố văn hoá vùng. Thể hiện qua các loại hình văn hóa, tập tục xã hội nói chung và
cuộc sống trong các làng, xãđồng bằng ven biển nói riêng. Các làng nghề nông
nghiệp, ngư nghiệp, thủ công, có hoạt động đan xen, hỗ trợ nhau. Điển hình là các
ngày lễ cúng đình của làng nghề nông nghiệp và đồng thời là lễ cúng cá ông của
làng nghề đánh cá, phần do vùng Trung Bộ gồm có những tiểu đồng bằng nhỏ hẹp,
bám sát vào các chân núi ven biển.
Khí hậu quanh năm trong vùng không được thuận lợi và tính chất văn hoá
vùng miền chịu sự chi phối mạnh của điều kiện tự nhiên vốn luôn khắc nghiệt này.
Tuy văn hóa Trung Bộ có những đặc điểm riêng biệt với các vùng khác, nhưng xuất

phát từ hệ thống địa lý liền một dải, lại có mối quan hệ tương hỗ giữa các vùng
miền trong lịch sử phát triển nên vừa có tính đặc trưng lại vừa tương đồng với nền
văn hoá chính thể.
2.2. Kinh nghiệm cổ phần hóa các DNNN ở các tỉnh miền Trung
2.2.1. Sự cần thiết của việc CPH các DNNN ở các tỉnh miền Trung
Các DNNN được thành lập khi đất nước được giải phóng. Hoạt động của các
DNNN đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước sau
chiến tranh. Nhưng do cơ chế bao cấp, nền kinh tế tự cung tự cấp kéo dài, dẫn đến
triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh. Sản xuất không theo nhu cầu mà theo chi
tiêu pháp lệnh của nhà nước, sản xuất đình truệ không có hiệu quả.
Mục đích của việc thành lập DNNN nhằm tạo tích lũy cho ngân sách nhà
nước, tạo việc làm cho người lao động nhưng thực tế các DNNN không đáp ứng
được những mục tiêu này. Do DNNN thường có xu hướng tập trung vào những
ngành cần vốn lớn sử dụng ít lao động, cộng thêm với trình độ của đội ngũ quản lý
DN có nhiều yếu kém, nên DNNN hoạt động kém hiệu quả không đảm bảo được
các mục tiệu nhà nước đặt ra đối với DNNN khi thành lập.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng kém hiệu quả của các DNNN là:

25


×