Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Những đóng góp và hạn chế của văn học lãng mạn việt nam thời kì 1930 – 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.19 KB, 4 trang )

Những đóng góp và hạn chế của văn học lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 – 1945.
Bài làm
Trong suốt thời kì tồn tại, từ khoảng năm 1932 cho đến cách mạng tháng Tám 1945, và mãi cho đến
những năm gần đây, dòng văn học lãng mạn Việt Nam đã chịu không ít những lời phê phán, có khi
rất dữ dội. Nhưng nói đi thì nói, dòng văn học ấy đã thuộc về nền văn học Việt Nam, một thời nó đã
hấp dẫn, tác động đến một bộ phận không nhỏ người thưởng thức văn học, đặc biệt là lớp người trẻ
tuổi có ít nhiều học vấn. Ngày nay, khi đã cách xa dòng văn học ấy một khoảng thời gian gần nửa thế
kỉ, ta có thể bình tĩnh đánh giá nó thấu đáo hơn, công bằng hơn và cũng độ lượng hơn.
Trước hết ta không quên rằng văn học lãng mạn Việt Nam đã nảy sinh và phát triển trong một hoàn
cảnh nghiệt ngã: cả dân tộc đang nô lệ. Làm sao nhà văn có thể thoát khỏi cái vòng kiềm tỏa khủng
khiếp ấy. Đó là khoảng thời gian mà mỗi người, khi bước vào đời, chỉ có quyền chọn một trong hai
cách sống: hoặc cứu nước, sẵn sàng vào tù ra tội, sẵn sàng dấn thân vào cái chết; hoặc là cam chịu
( một có ý thức hay không có ý thức) cảnh cá chậu chim lồng để chỉ được vui gượng và nếu buồn
cũng chỉ là buồn riêng. Văn học lãng mạn Việt Nam là tiếng nói thở dài có thể cảm thông của một lớp
người vui gượng buồn riêng đó. Cho nên, giữa nhiều mục đích của việc sáng tác văn hóa, các nhà
văn lãng mạn Việt Nam đã chọn cho mình một mục đích được họ coi là tối thượng: phụng sự nghệ
thuật. Với Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào thơ mới, mục đích ấy là:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể
( Cây đàn muôn điệu)
Trong văn xuôi, với Khánh Hưng và Nhất Linh, nghệ thuật là Đẹp ( tên một tiểu thuyết)
Thật ra, văn học lãng mạn 1930 – 1945 không phải là một dòng văn học thuần nhất. Nó tập hợp
nhiều người và một số nhóm mà chủ trương, có tuyên bố hay không tuyên bố, đôi khi lại khác nhau.
Nó bao gồm cả tiểu thuyết, thơ, kịch. Tuy nhiên, nghĩ đến dòng văn học này người ta nghĩ tới tiểu
thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn ( Chủ yếu là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo) và phong trào thơ
mới từ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư qua Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính đên Hàn Mạc Tử, Chế Lan
Viên. Điều đó có cái lí của nó: đó là những tác phẩm, những tác giả thực sự có tác động đến người
đọc và để lại dấu ấn trong nền văn học nước nhà, đó là những tác phẩm, tác giả hình thành nên
những đóng góp và hạn chế chủ yếu của nền văn học này đối với thời đại và văn học.
Văn học lãng mạn Việt Nam có những mặt yếu của nó. Nó không nói đến những vấn đề nóng bỏng
trước mắt. Nó né tránh nỗi khổ nhục của dân tộc, những đau đớn của kẻ nghèo, những bất công


giữa cảnh bần cùng với cảnh xót xa hơn. Nó quên đi và làm cho mọi người cùng quên đi, dâu trong
phút chốc, những đen tối nghiệt ngã của đời sống. Lật nhiều trang sách, đọc nhiều bài thơ lãng mạn,
người ta thấy trong cuộc đời hình như không có nỗi đau khổ nào đáng sợ bằng nỗi đau của tình yêu
bị ngăn cấm hay bị phụ bạc. Từ trên rừng xuống biển, văn học lãng mãn không cho người ta nhìn
thấy những cảnh chen chúc vật lộn để kiếm sống, để sống của con người, mà đâu đâu cũng chỉ là
một sự hài hòa đẹp đẽ của thiên nhiên từ cảnh rừng già với giọng nguồn hét núi đến cảnh trăng lên
thơ một trên biển Đồ Sơn, những lũy tre xanh êm đềm rủ bóng những sườn đồi chênh vênh, nhưng
hang sâu động thẳm thường làm cái nền cho những cuộc tình éo le và cảm động. Cái chất thi vị hóa
đời sống ấy phổ biến trong tác phẩm lãng mạn đến nỗi nhà văn hiện thực Nam Cao từng phải kêu
lên: Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dôi….
Muốn thoát li khỏi xã hội, văn học lãng mạn đưa người đọc vào vũ trụ của cá nhân, mà mỗi trang
sách, mỗi câu thơ là một sự khám phá vào cái tôi vô tận vô cùng của nó. Cái tôi đam mê, cái tôi
chán chường, cái tôi hào hứng, cái tôi phản kháng, cái tôi cam chịu, cái tôi thắm tươi, cái tôi tật
bệnh….bao nhiêu là khía cạnh của cái tôi, đồng thời hay lần lượt hiện ra, lên tiếng dời chỗ đứng của
mình dưới mặt trời như một cái gì thật khẩn thiết. Chưa bao giờ trong văn chương Việt Nam, cá nhân


con người được nói đến một cách tập trung và quyết liệt như thế. Hình như, không có gì chính đáng
bằng, đáng quan tâm bằng số phận của cá nhân, hạnh phúc và khổ đau của cá nhân. Cá nhân là tất
cả và tuyệt đối, hưởng thụ cá nhân là chính đáng và cần kíp. Xuân Diệu kêu gọi:
Mau với chư, vội vàng lên với chư
Em, em ơi, tình non đã già rồi
(Giục giã)
Văn học lãng mạn tìm đến hướng thoát nhưng trước hết là đến với tình yêu. Tình yêu lúc ấy hầu như
trở thành một thứ tôn giáo. Ngọc, trong Hồn bướm mơ tiên của Khải Hưng, đưa tình yêu đến trước
phật đài để tôn thờ nó bất vọng bất diệt trong cõi vĩnh hằng. Một nhân vật trong truyện ngắn Trên
sông Hương, cũng của Khải Hưng, thì nói: Ngoài em ra, ngoài ái tình của đôi ta, anh không còn cần
một thứ gì khác nữa.
Nhưng, trong cái xã hội ngày ấy, nhà văn lãng mạn đi đâu cho thoát khỏi sự bế tắc của đời sống?
Chung quy lại vẫn là bóng tối, vẫn là cái tẻ nhạt và vô nghĩa của đời sôngs. Sống là phải buồn và cần

phải chia sẻ. Từ cái buồn thoáng qua, vô cớ thời Thế Lữ, của Lưu Trọng Lư, cái buồn trở nên mênh
mông, một nỗi sầu vạn cổ với Huy Cận, và càng trở nên bi thương, điên loạn với Chế Lan Viên ,Hàn
Mạc Tử …Đọc thơ lãng mạn, người đọc chìm ngập trong nỗi buồn!
Nhưng nếu tất cả chỉ có thế thôi, văn học lãng mạn đâu đáng được tồn tại suốt mười lăm năm như
thế và được một lớp người đọc khá đông, không phải là những kẻ mù lòa, ưu ái và ủng hộ đến như
thế.
Đầu tiên, thái độ thoát li xã hội, xét cho thấu đáo, có mặt tích cực của nó. Văn học lãng mạn không
hòa giọng vào cái hợp xướng hoàn ca của những thứ gọi là văn chương, ca ngợi một cách vô liêm sỉ
nước Đại Pháp và sự văn minh khai hóa của nó trên đất nước Việt Nam này. Nỗi buồn lâm li của văn
học lãng mạn ít ra cũng giúp người ta biết buồn nếu chưa biết làm gì khác trong cuộc sống nô lệ
ngày ấy. Cái tâm trạng phủ nhận hết thảy. Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau của Chế Lan viên cũng
đáng được thông cảm. Trong những hành động phiêu lưu đầy chất anh hùng cá nhân của một anh
chàng Dũng trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn của Nhất Linh, người đọc có thể tìm thấy một thái độ không
an phận, một tiếng vỗ cánh bay lên của một con chim biết chán chường những thức ăn béo bổ trong
cái lồng son dành cho mình. Một bài thơ thường được nhắc tới nhiều của thơ lãng mạn, bài Nhớ
Rừng của Thế Lữ, đã nói không ít đắng cay của cuộc đời nôi lệ và một khát vọng ( dẫu là bất lực) về
một cuộc đời tự do:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
…Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!
Trong không khí oi bức ngột ngạt của xã hội thực dân phong kiến ngày ấy, văn học lãng mạn đã cố
gắng tìm được một lối thoát phù hợp với sức vóc của mình: chống lễ giáo phong kiến. Có thể nói:
nhờ nhiều tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn, người đọc hiểu và cảm thông được tính chất phi lí
tàn bạo, cái đần độn, man rợ, của nhiều thứ lễ giáo cho đến lúc ấy vẫn được coi là bất khả xâm
phạm.
Đó là thứ quan niệm hôn nhân môn đăng hộ đối không đếm xỉa gì đến quyền sống con người, mù
quáng đến phi lí vô nhân đạo (như Nửa chừng xuân của Khải Hưng), là thứ chủ trương vừa tàn nhẫn
vừa giả dối đến khôi hà: cấm người quả phụ tái giá (như trong Lạnh Lùng của Nhất Linh). Thái độ
của các nhà văn lãng mạn đối với lễ giáo phong kiến là khồng hòa hoãn. Với họ, lẽ giáo phóng kiến
đã hết thời rồi, và sự tồn tại của nó không chỉ là việc có hại mà còn hoàn toàn lố bịch.



Chống lại lễ giáo, văn học lãng mạn ca ngợi tình yêu. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, đặc biệt
là trong thơ, tình yêu - một tình cảm đẹp của con người - lại được nói đến vơi đầy đủ cung bậc như
thế.
Sự phong phú của chủ đề tình yêu trong văn học lãng mạn may ra chỉ có văn học dân gian ( chủ yếu
là ca dao) mới đuổi kịp. Trong thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh có thơ của 45 nhà thơ thì hầu như
chỉ có một người không nói đến tình yêu! Cho đến ngày nay, những câu thơ, những bài thơ tình ngày
ấy không phải không còn làm rung lên nơi người đọc những tình cảnh đẹp và trong sáng, hoặc mộc
mạc như:
Nắng mưa là chuyện của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Nguyễn Bính)
Hoặc đắm say mà hoài nghi như:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây mây khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Hàn Mặc Tử)
Với văn học lãng mạn, thiên nhiên không chỉ là một phương tiện mà là một chủ thể, một nguồn cảm
hứng lớn, một đối tượng miêu tả chủ yếu. Có thể nói, quan văn học lãng mạn, người đọc biết mở mắt
ra để chiêm ngưỡng thiên nhiên. Người ta rung động vì đẹp một mái cong trướng tam quan một ngôi
chùa vùng Kinh Bắc, vẻ thướt tha nơi rặng liễu ven Hồ Tây một sớm mùa thu, vẻ xanh tươi của một
ngôi vườn xứ Huế, vẻ mộc mạc của một giậu mồng tơi, một thôn xóm đồng bằng, hay là một đồi chè
thoai thoải ở vùng Trung châu…Bao người, chỉ nhờ đọc văn học lãng mạn mà biết được và yêu mến
một bến đò Trung Hà, một ngôi chùa Long Giáng, một con đê Yên Phụ, một làng xanh Vĩ Dạ, một
con đường đi chùa Hương thơ mộng như đường đến cõi tiên…Ta cũng nên nhớ rằng, trong bối cảnh
xã hội ngày ấy, tình yêu thiên nhiên, thiên nhiên Việt Nam, không phải không gắn liền ít nhiều với một
niềm tự hào dân tộc chính đáng. Giữa lúc không ít kẻ hễ mở miệng chỉ nói đến Tây, ca ngợi cảnh
Tây, thì tình yêu thiên nhiên, sự ca ngợi thiên nhiên và con người Việt Nam, dẫu có lúc thi vị hóa hay

qua đáng đi nữa, cũng là một sự trở về cội nguồn.
Không phải không có lúc ta coi nhẹ, những đóng góp về nội dung của văn học lãng mạn Việt Nam,
thậm chí phủ nhận. Tuy nhiên về mặt hình thức, văn học lãng mạn có những đóng góp mà ai cũng
phải công nhận. Những tác phẩm lãng mạn, đặc biệt là hai thể loại tiểu thuyết và thơ, đánh dấu sự
cáo chung của văn học cố để đưa văn học Việt Nam vào thời kì hiện đại. Với sự nhạy cảm trước cái
cũ, cái gò bó khuôn sáo của hình thức cũ, văn học lãng mạn mạnh dạn đi tìm cái mới. Phong trào
Thơ mới từ 1932 đã cởi dây trói cho thơ Việt Nam, tiếp nhân cái không khí trong thơ phương tây
nhưng lại tìm đến với những thể loại dân tộc như thể lục bát, thể ca trù và các thể Đường Luật để đổi
mới chúng, làm cho chúng có sự uyển chuyển để diễn tả được vô vàn tâm trạng của con người hiện
đại. Cho đến nay, thơ Việt Nam vẫn còn tiếp nhận và phát huy những thành quả trong cách tân hình
thức thơ ca ấy. Người đọc sẽ không quên những bài thơ tiên phong như Nhớ rừng đầy giọng phóng
túng và hào hùng của Thế Lữ, Tếng Thu tự do và đầy nhạc tính của Lưu Trọng Lư..
Tiểu thuyết Việt Nam với những những tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, đã đoạn tuyệt với kĩ thuật tiểu
thuyết chương hồi vốn được coi là mẫu mực của tiểu thuyết, cũng đã từ bỏ kiểu cú pháp biền ngẫu
rườm rà, những chống đối chọi thời Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách. Một kĩ thuật kết cấu hiện
đại, kết hợp với một cú pháp hiện đại trong văn xuôi, đó là những đóng góp lớn của tiểu thuýết lãng
mạn Việt Nam cho văn học nước nhà. Và từ những cách tân trong thơ, tiểu thuyết…văn học lãng
mạn thực sự đã đẩy ngôn ngữ đến mức hoàn thiện.


Văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 phát sinh và tồn tại như một sản phẩm tất yếu
của lịch sử. Ngày nay, thật khó mà làm một phép cộng, trừ, nhân, chia đơn giản để rút ra trong hai
mặt đóng góp và hạn chế của dòng văn học đó, cái còn lại là gi và bao nhiêu. Phê phán những hạn
chế của tác phẩm văn học, của một nền văn chương là cần thiết. Song cái cần thiết hơn, là tìm cho
được, cái thái độ trân trọng đãi cát tìm vàng, từ tác phẩm đó, nền văn chương đó, những gì cần thiết
cho con người góp phần nâng cao tâm hồn con người. Nhưng điều ấy, ta có thể tìm thấy trong văn
học lãng mạn Việt Nam, ít ra là trong rất nhiều tác phẩm. Vả lại, nền văn học nước nhà tuy có những
khúc quanh, những điểm uốn, nhưng vẫn luôn là một sự tiếp tục.




×