Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Yếu tố kì ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt nam giai đoạn 1930- 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH







Trần Thanh Tùng





YẾU TỐ KỲ ẢO
TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 – 1945







LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC











Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






Trần Thanh Tùng




YẾU TỐ KỲ ẢO
TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 – 1945




Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THÀNH THI




Thành phố Hồ Chí Minh – 2009



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gởi lời tri ân đến quí thầy cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy cho tôi
trong những năm học qua.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Thành
Thi – Phó chủ nhiệm khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh. Thầy đã giúp đỡ tôi giải quyết các vấn đề vạch ra trong đề tài, cũng như tận
tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt quá trình viết luận văn.
Xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong Ban c
hủ nhiệm Khoa Ngữ văn
và phòng Khoa học công nghệ & sau đại học trường Đại học sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Xin cám ơn Ban giám hiệu, Tổ Văn trường THPT Trần Bình Trọng – Cam
Lâm – Khánh Hòa đã tạo điều kiện thuận lợi trong công tác để tôi hoàn thành luận

văn này.
Xin cám ơn đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã động viên, khích lệ tôi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn.

T
.p Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2009
Người viết


TRẦN THANH TÙNG

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
2.3.3. Yếu tố kỳ ảo và những khát khao về hạnh phúc lứa đôi.......................... 66
2.3.4. Yếu tố kỳ ảo và cảm hứng triết luận về con người .................................. 72
2.3.5. Yếu tố kỳ ảo và những lý giải khoa học về các hiện tượng thần bí......... 79
Chương 3: YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 TỪ GÓC NHÌN THẨM MĨ
3.1. Kỳ ảo như một yếu tố m
ang giá trị mĩ cảm ....................................................... 86
3.1.1. Thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng lãng mạn ............................................... 86
3.1.2. Thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh....................................................... 88
3.2. Kỳ ảo như một yếu tố, phương tiện kỹ thuật trong văn xuôi
lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ...................................................... 93
3.2.1. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên cốt truyện .............................................. 93
3.2.2. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên thế giới nhân vật ................................... 97
3.2.3. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên trần thuật
............................................. 102

3.2.4. Tác động của yếu tố kỳ ảo lên không gian và thời gian nghệ thuật....113
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 126


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã có sự phát triển
vượt bậc và đạt đến những thành tựu đỉnh cao. Chỉ trong vòng 15 năm, người đọc
được chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt cây bút chuyên nghiệp tài năng như:
Thạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Lan
Khai, Tchya – Đái Đức Tuấn, Thế Lữ… Tên tuổi và sự nghiệp của họ gắn liền với
những tìm tòi, đổi mới về cách thức thể hiện nội dung và bút phá
p nghệ thuật. Sự
phá cách, chất hiện đại trong phong cách sáng tác của các văn nhân thi sĩ đã làm
nên sự đa sắc diện cho nền văn xuôi lãng mạn Việt Nam. Những tưởng trước
ngưỡng cửa cuộc sống hiện đại, trước những xâm lấn của văn hóa phương Tây vào
xã hội Việt Nam, yếu tố huyễn hoặc, kỳ ảo trong văn học sẽ không còn đất để sinh
tồn. Thế nhưng, khi đi sâu vào khám
phá địa hạt của văn học nghệ thuật giai đoạn
1930 – 1945, lạ thay cái chất kỳ ảo, ma quái, kinh dị vẫn nảy nở và phát triển trong
các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong các tác phẩm văn xuôi thuộc khuynh hướng
lãng mạn. Trên thi đàn văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 đã xuất hiện nhiều
trang viết đậm chất kỳ ảo, huyễn hoặc. Có thể kể đến: Rừng khuya
– Lan Khai;
Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya – Tchya Đái Đức Tuấn; Vàng và máu, Trại Bồ
Tùng Linh – Thế Lữ; Trên đỉnh non Tản, Xác ngọc lam, Loạn âm, Khoa thi cuối
cùng… – Nguyễn Tuân; Lan rừng, Bóng người trong sương mu – Nhất Linh;
Ngậm ngãi tìm trầm – Thanh Tịnh… Sáng tác của họ đưa người đọc và

o thế giới
của những câu chuyện hoang đường kỳ ảo đậm chất huyễn hoặc, ma quái. Ở đấy,
trí tưởng tượng phong phú của các nhà văn lãng mạn có dịp tung hoành mà không
bị hiện thực cuộc sống kiềm tỏa. Họ thỏa sức đào sâu vào mọi ngõ ngách của cuộc
sống, vào cái tôi nội cảm, diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân, đề cập đến những
số phận cá nhâ
n với thái độ bất hoà, bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng…
Hơn bao giờ hết, yếu tố kỳ ảo được đưa vào trong văn học với mật độ khá dày đặc,
trở thành một dòng, một nhánh riêng với nhiều tên tuổi nổi tiếng: Thế Lữ, Nhất
Linh, Nguyễn Tuân, Đái Đức Tuấn, Lan Khai, Thanh Tịnh, Hoàng Trọng Miên…
Sáng tác của họ đã gây tiếng va
ng lớn trên văn đàn, được đông đảo người đọc đón
nhận và thu hút nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình văn học.

1.2. Sự thực, yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống văn học nhân
loại và nó hoàn toàn không hề xa lạ với độc giả Việt Nam. Yếu tố kỳ ảo đã tạo
thành một dòng chảy liên tục trong lịch sử của văn học dân tộc từ thời kì cổ đại cho
đến cận hiện đại. Tuy nhiên, do đặc điểm xã hội, tâm lí nhận t
hức của mỗi thời kì
khác nhau, nên yếu tố kỳ ảo ở mỗi thời kì văn học cũng không giống nhau. Ngay từ
buổi bình minh của văn học, văn học dân gian Việt Nam đã gắn liền với yếu tố kỳ
ảo. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết dân gian ra đời nhằm phản
ánh nhận thức, niềm tin của con người cổ đại về những biến cố, sự kiện của thế giới
thuở hồng hoang. Sang thời kì tr
ung đại, yếu tố kỳ ảo tiếp tục tồn tại trong những
sáng tác của các văn nhân nho sĩ. Sáng tác của họ là lời cảnh báo về những chuyện
xấu xa ở trần gian hướng con người đến cuộc sống tốt lành nhằm mục đích phục vụ
cho quan niệm “văn dĩ tải đạo”. Đến đầu thế kỉ XX, đặc biệt là g
iai đoạn 1930 –
1945, hạt giống yếu tố kỳ ảo đã thực sự sinh trưởng tốt tươi trên mảnh đất văn xuôi

lãng mạn và thu đạt được những thành tựu rực rỡ. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng
mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là sản phẩm của sự kết hợp độc đáo giữa yếu
tố kỳ ảo trong văn học phương Tây và văn học truyền thống. Vì vậy, nghiên cứu
văn xuôi kỳ ảo văn học giai đoạn nà
y không chỉ giúp chúng ta thấy được những
đóng góp của nó vào thành tựu chung của văn xuôi lãng mạn mà còn hiểu rõ hơn về
truyền thống của văn học Việt Nam.
1.3. Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã
góp phần tạo nê
n những giá trị khó phủ nhận về mặt nội dung và nghệ thuật. Nó là
phương thức thể hiện quan niệm mới về thế giới, cuộc sống của các nhà văn lãng
mạn, là một trong những hình thức đắc dụng để nhà văn đi sâu vào khám phá thế
giới nội tâm với những cung bậc cảm giác của con người. Đồng thời, nó mang lại
giá trị thẩm mĩ đặc sắc cho những tác phẩm
lãng mạn, phản ánh, lưu giữ được nhiều
dấu ấn phong cách tác giả và sự đa dạng về văn phong nghệ thuật. Nghiên cứu yếu
tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn là một việc làm có ý nghĩa góp phần giúp người
đọc hiểu rõ hơn về diện mạo của dòng văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945.

Chính vì thế, trong luận văn này, chúng tôi chọn đề tài: “Yếu tố kỳ ảo trong văn
xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thế giới, yếu tố kỳ ảo trong văn học đã nhận được sự quan tâm của rất
nhiều nhà nghiên cứu từ những thập niên đầu của thế kỉ XIX. Ở Việt Nam, vấn đề
này chỉ đư
ợc bàn luận vào sau những năm 1975 và thực sự sôi nổi vào những năm
đầu của thế kỉ XXI. Nội dung các bài nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo tập trung ở hai
phương diện sau:
2.1. Nghiên cứu lý luận
Bài nghiên cứu Cái kỳ ảo và văn học huyễn ảo của Lê Huy Bắc đã xác định

đặc điểm phát triển của “văn học kỳ ảo và cái kỳ ảo” bằng việc xác định bản thể và
định da
nh trong tiến trình lịch sử. Ông đề xuất dùng khái niệm “văn học huyễn ảo”
“với mục đích nhằm bao quát cả một lịch sử sáng tạo văn chương nơi xuất hiện sự
đan cài của hai yếu tố thực và ảo mà hàm lượng bao giờ cũng nghiêng qua phần
ảo”. Từ đó, ông nhấn mạnh “thế giới của văn học hu
yễn ảo là thế giới của trí tưởng
tượng, nơi sự khác lạ hoang đường, thần diệu… luôn ngự trị. Có lúc nó giúp người
đọc bình tâm, tự tại; có lúc nó khiến họ hoang mang, khiếp đảm và có lúc khiến họ
hoài nghi, bối rối…”[3]. Lê Huy Bắc đã dùng khái niệm “văn học huyễn ảo “ để
thay cho khái niệm “văn học kỳ ảo” và ông dùng khái niệm văn học kỳ ảo để chỉ
một bộ phận, một giai đoạn trong tiến trình của văn học huyễn ảo.
Bài viết này đã
có những đóng góp nhất định trong việc xác định quan niệm về văn học kỳ ảo.
Bài viết Về cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong nghiên cứu văn học của Lê
Nguyên Long bước đầu cũng đã thể hiện sự qua
n tâm đến văn học kỳ ảo và khái
niệm cái kỳ ảo. Trong bài viết này, Lê Nguyên Long đã tổng hợp nhiều quan niệm
về thuật ngữ kỳ ảo và văn học kỳ ảo của các học giả nước ngoài. Từ đó ông đưa ra ý
kiến của mình về cái kỳ ảo: “cái kỳ ảo là cái không thể cắt nghĩa được bằng lý tính
từ điểm nhìn của chúng ta với tầm nhận t
hức hiện tại. Chính sự không cắt nghĩa
được bằng lý tính ấy đã tạo nên một “sự đứt gãy trong chuỗi liên kết vũ trụ” (Roger
Caillois), gây ra tâm trạng hoang mang cho người nào đối diện với nó” [30]. Khái

niệm mà Lê Nguyên Long đề xuất phần lớn xuất phát từ thực tiễn sáng tác của văn
học phương Tây. Chỉ có một lần duy nhất tác giả liên hệ với văn học Việt Nam khi
khẳng định: “truyền thống truyện truyền kỳ, chí quái phương Đông với những kiệt
tác như Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, hay tuyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
chính xác cần được gọi tên là fantasy, vừa x

ét về thời điểm ra đời, vừa xét từ đặc
trưng nghệ thuật của nó…” [3].
2.2. Nghiên cứu thực tiễn sáng tác
Trong tiểu luận Tìm hiểu các dạng truyện kỳ ảo trong văn học cổ trung đại
và cận đại Đông Tây nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Huệ Chi đã luận
giải khá rõ nét về lý thuyết và thực tiễn truyện kỳ ảo trong đời sống văn học Phương
Tây và Trung Hoa từ cổ đại cho đến cận đại. Bài viết cũng đã xác lập được d
iện
mạo “truyện truyền kì” trong văn học cổ cận đại Việt Nam trong quan hệ đối sánh
với văn học kỳ ảo nước ngoài. Ông nhận định: “Văn học Việt Nam trong hàng nghìn
năm chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn học và văn hóa Tr
ung Quốc, lẽ dĩ nhiên, “cái
kỳ ảo” Trung Quốc vang bóng rất rõ vào “cái kỳ ảo” Việt Nam. Mặc dù thế, trước
khi tìm hiểu “cái kỳ ảo” Trung Quốc tưởng cũng nên nhìn sang chân trời xa hơn,
thử xem “cái kỳ ảo” phương Tây có những đặc sắc gì, có những biểu hiện gì chung
với “cái kỳ ảo” phương Đông, hoặc giả có thể soi tỏ được chút gì cho việc tìm tòi
các dạng thức, các đặc điểm của “cái kỳ ảo” trong văn học dân tộc” [7]. Với tiểu
luận nà
y, Nguyễn Huệ Chi đã góp một phần không nhỏ giúp người đọc nhìn thấy
được bản sắc của truyện kỳ ảo Việt Nam.
Luận án tiến sĩ: Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt
Nam của Bùi Thanh Truyền – Trường Đại học Huế cũng là một công trình nghiên
cứu đáng c
hú ý. Trong luận án này tác giả đã đi tìm nguyên nhân về sự hồi sinh của
yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại. Theo tác giả, sự có mặt trở lại của yếu tố kỳ
ảo trong văn học giai đoạn này xuất phát từ những nguyên nhân: từ những thay đổi
trong đời sống xã hội – văn học, từ sự mở rộng quan niệm về hiện thực và đối tượng
phản ánh của văn học, từ sự mở rộng qua
n niệm về hiện thực và đối tượng phản ánh
của văn học, từ sự mở rộng quan niệm về phương pháp sáng tác tiếp cận hiện thực


và xuất phát từ truyền thống văn hóa văn học dân tộc. Phải thấy rằng, đây là công
trình nghiên cứu có giá trị khoa học lớn góp phần giúp người đọc hình dung được
sắc diện của dòng văn xuôi kỳ ảo trong thời đại mới.
Bài viết gần với đề tài nhất: Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong văn
học Việt Nam hiện đại của Vũ Thanh. Trong bài viết này, tác giả không chỉ giới
thiệu khá đầy đủ những nhà
văn mà các tác phẩm của họ mang đậm phong cách
truyền kì, kinh dị như: Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Lan Khai, Thanh Tịnh, Đái Đức
Tuấn… mà còn làm sáng rõ bút pháp nghệ thuật độc đáo, đa dạng của họ. Hơn thế,
ông đã phân tích đánh giá khá sâu về những đóng góp của dòng truyện truyền kỳ
đời mới cho văn học hiện đại Việt Nam.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến:
Truyện kỳ ảo Việt Nam trong đời sống văn
học đương đại của Bùi Thanh Truyền. Trong bài viết này, có một phần nhỏ nhà
nghiên cứu đã đề cập đến: “những cây bút kỳ ảo với phong cách tài hoa, độc đáo:
Thế Lữ, Tchya Đái Đức Tuấn, Đỗ Huy Nhiệm, Nguyễn Tuân. Sự xuất hiện của đội
ngũ này đã làm sinh động đời sống văn học lú
c bấy giờ…”. Tuy nhiên, đó chỉ là sự
phác thảo, điểm qua một giai đoạn văn học chứ chưa có sự đào sâu nghiên cứu các
khía cạnh của vấn đề. Hay bài báo: Yếu tố kỳ ảo trong sáng tác của Nguyễn Tuân
đăng trên báo Văn nghệ, số 51, năm 2008. Tuy là bài viết khảo sát cụ thể về yếu tố
kỳ ảo trong sáng tác của riêng một tác giả (
Nguyễn Tuân), song nó cũng có những
gợi mở cần thiết cho đề tài.
Mặc dù dòng văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chưa
được quan tâm nhiều, nhưng yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi nghệ thuật sau 1975, đặc
biệt là văn xuôi đương đại lại được quan tâm hơn trong những năm gần đây. Có thể
kể đến luận văn thạc sĩ: Nghệ thuật kỳ ảo tron
g văn xuôi đương đại Việt Nam và

luận án tiến sĩ: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam của Bùi Thanh
Truyền. Hay đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi
nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (đề tài nghiên cứu cấp Bộ) của Hoàng Thị Văn.
Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành văn học cũng có rất nhiều những bài viết ở
khía cạnh này: Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 của Phùng

Hữu Hải; Vai trò của yếu tố kỳ ảo trong truyện Việt Nam sau 1975 của Nguyễn
Văn Kha; Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam của Đặng
Anh Đào… Các bài viết trên đã đưa ra những nhận định, phân tích, lý giải hiệu quả
nghệ thuật của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1975 ở những góc
nhìn khác nhau.
Như vậy, cho đến na
y nghiên cứu về yếu tố kỷ ảo trong văn học đã được các
nhà nghiên cứu bàn luận ở nhiều phạm vi, mức độ khác nhau. Nhìn chung, các bài
viết nghiêng nhiều về nghiên cứu lý luận. Còn nghiên cứu về thực tiễn sáng tác thì
chủ yếu gắn với văn học kỳ ảo sau 1975 hoặc là văn học kỳ ảo đương đại. Thực tế,
cho thấy chưa có nhiều bài viết về yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn
1930 – 1945 hoặc có thì chỉ ở dạng phác họa, điểm
qua nên còn nhiều khía cạnh
quan trọng, thú vị chưa được nghiên cứu.
Trên đây là một vài nhận xét của chúng tôi về các công trình nghiên cứu yếu
tố kỳ ảo trong văn học Việt Nam. Vì những nguyên nhân khách quan và năng lực
chủ quan, chúng tôi rất lấy làm tiếc chưa thể tiếp cận và thống kê thật đầy đủ các
bài viết, công trình nghiên cứu về yếu tố kỳ ảo trong văn học đã được công bố.
Trong phạm v
i của một luận văn chúng tôi rất trân trọng những ý kiến, quan điểm,
cách đánh giá, nhận xét của các nhà khoa học đã đề xuất. Những ý kiến quí báu đó
sẽ giúp chúng tôi có những định hướng đúng đắn, vững chắc về mặt phương pháp
luận và phương phá
p nghiên cứu, cũng như về mặt tư liệu tham khảo để có thể hoàn

thành mục tiêu đề ra của luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 nhằm qua thế giới nghệ thuật tìm ra những quan
niệm mới của nhà văn về cuộc sống, con người và giá trị thẩm mĩ đặc sắc mà yếu
tố kỳ ảo m
ang lại. Đồng thời, qua nghiên cứu luận văn sẽ phác thảo bức tranh chung
về dòng văn học kỳ ảo giai đoạn này.
4. Phạm vi nghiên cứu và những đóng góp của luận văn

Luận văn khảo sát và tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong một số tác phẩm văn xuôi
(đối tượng khảo sát là truyện ngắn và tiểu thuyết) giai đoạn 1930 – 1945 của những
tác giả thuộc khuynh hướng lãng mạn như: Trên đỉnh non Tản, Khoa thi cuối
cùng, Xác ngọc lam, Đới roi, Loạn âm, Rượu bệnh của Nguyễn Tuân; Làng, Am
culy xe… của Thanh Tịnh; Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh… của Thế Lữ; Thần
ho, Ai hát
giữa rừng khuya của Tchya – Đái Đức Tuấn, Rừng khuya của Lan
Khai… Từ đó, luận văn miêu tả, lý giải sức hấp dẫn, ám ảnh của yếu tố kỳ ảo, tìm
ra những nét độc đáo của yếu tố kỳ ảo trong quan niệm thẩm mĩ cũng như phương
thức thể hiện nội dung của những tác phẩm văn học nà
y.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, luận văn chúng tôi không loại trừ
phương pháp luận nghiên cứu văn học nào, song với đối tượng nghiên cứu của
mình, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp lịch sử – xã hội
Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội cụ thể trong tiến
trình phát triển của lịch sử dâ
n tộc. Mối quan hệ giữa văn học và thế giới thực tại
khách quan là điều đã được chứng minh và thừa nhận. Sự hình thành, tồn tại và phát

triển của yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ít
nhiều chịu sự chi phối văn học truyền thống và hoàn cảnh thời đại mà người cầm
bút đang sống. Vì vậy,
nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945 chúng tôi không thể không nghiên cứu lịch sử hình thành của
nó trong quá khứ, sự tác động của hoàn cảnh lịch sử trong thời đại nó ra đời.
Phương pháp lịch sử – xã hội với cái nhìn lịch đại sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn sự
chi phối đó.
5.2. Phương pháp sưu tầm thống kê và phân loại.
Chúng tôi sử dụng phương pháp sưu tầm, thống kê để thu thập thống kê các
tác phẩm kỳ ảo của dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 từ các
tuyển tập Văn học. S
au khi sưu tầm, chúng tôi làm công tác thống kê các tác phẩm
kỳ ảo và sắp xếp, phân loại chúng theo từng nhóm đề tài (tùy thuộc vào sự xuất hiện

của yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm) để tiến hành nghiên cứu theo mục tiêu và nhiệm
vụ mà luận văn đã đề ra.
5.3. Phương pháp hệ thống loại hình.
Vận dụng phương pháp này, mục đích của chúng tôi là đặt các tác phẩm có
sử dụng yếu tố kỳ ảo thuộc dòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 vào trong hệ thống văn học kỳ ảo Việt Nam từ trước đến na
y. Đồng thời, có
thể mở rộng hệ thống để liên hệ với những nền văn học trên thế giới ít nhiều có ảnh
hưởng đến văn học Việt Nam: Trung Quốc, Pháp, Mỹ…
Phương pháp hệ thống loại hình sẽ giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về đặc trưng
của thể loại truyện ngắn kỳ ảo và những nét chính về phong cách trần thuật. Đồng
thời, còn gi
úp thấy rõ những nét độc đáo của đời sống tâm linh người Việt có trong
những tác phẩm mà chúng tôi nghiên cứu.
5.4. Phương pháp miêu tả so sánh

Vận dụng phương pháp này để chỉ ra những đóng góp của yếu tố kỳ ảo trong
văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945trên các phương diện nội dung
và nghệ thuật. Thấy được những khác biệt của văn học giai đoạn này so với văn học
kỳ ảo truyền thống cũng như văn học hậu hiện đại. Phương pháp này c
òn giúp
chúng tôi liên hệ với những hiện tượng tiêu biểu của dòng văn học kỳ ảo thế giới
như: Allan Poe, Hoffmann, Maupassant, Bồ Tùng Linh… thấy được những điểm
tương đồng cũng như dị biệt giữa các tác phẩm kỳ ảo của văn xuôi lãng mạn Việt
Nam với các truyện ngắn kỳ ảo của các tác giả kể trên.
5.5. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp phâ
n tích, tổng hợp cũng được chúng tôi sử dụng thường xuyên
trong quá trình tiếp cận, nghiên cứu các văn bản kỳ ảo của dòng văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Trong các phương pháp nghiên cứu trên, chúng tôi ý thức được rằng, không
nên tuyệt đối hóa phương pháp nào. Mỗi phương pháp có những mặt mạnh riêng.
Trong quá trình nghiên cứu đòi
hỏi người viết phải có sự phối kết hợp nhuần
nhuyễn giữa các phương pháp và các thủ pháp khác để đạt hiệu quả cao nhất.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được tổ chức
thành ba chương:
Chương 1: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 từ góc nhìn lịch sử.
Chương 2: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 từ góc nhìn thể tài.
Chương 3: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 từ góc nhìn thẩm mĩ.






Chương 2
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 TỪ GÓC NHÌN THỂ TÀI

2.1. Điểm qua một số tác giả và tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo và một vài
nhận xét về đặc trưng thể loại truyện kỳ ảo
2.1.1. Một số tác giả và tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo
Dòng văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 có bao nhiêu tác giả, tác
phẩm sử dụng yếu tố kỳ ảo? Câu trả lời hầu như vẫn c
òn bỏ ngõ. Bởi, cho đến nay
vẫn chưa có nhà nghiên cứu nào cất công biên soạn tuyển tập về văn xuôi lãng mạn
kỳ ảo giai đoạn 1930 -1945. Vì thế, để có cái nhìn tổng quan về văn học kỳ ảo giai
đoạn này, thiết nghĩ việc điểm qua một số tác giả, tác phẩm có sử yếu tố kỳ ảo là
cần thiết. Qua khảo sát các tuyển tập: Truyện truyền kỳ Việt Nam (3 tập) của
Nguyễn H
uệ Chi, Truyện không nên đọc vào lúc giao thừa của Lưu Minh Sơn
tuyển chọn, Đêm bướm ma của Ngô Tự Lập và Lưu Minh Sơn tuyển chọn và giới
thiệu, Tinh tuyển văn học Việt Nam, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (8 tập), Tổng
tập văn học Việt Nam (cuốn 29B, 30A, 30B, 30C, 31)… chúng tôi nhận thấy có
khoảng 12 tác giả và
gần 50 tác phẩm văn xuôi viết theo dạng kỳ ảo (Trong bài viết
này, rất tiếc chúng tôi không thể tìm được văn bản các truyện đường rừng của Lan
Khai gồm: Đôi vịt con, Ma thuồng luồng, Con bò dưới thủy tề, Người lạ, Người
hóa hổ, Con thuồng luồng nhà họ Ma… để khảo sát. Đây là những truyện ngắn có
giá trị của Lan Khai và cũng rất tiêu biểu cho dòng văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945). Tuy chưa phải là con số thống kê hoàn toàn chính xác,

nhưng chừng ấy cũng đủ nói lên rằng: Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 -1945 đã tạo nên một dòng riêng, một xu thế văn xuôi mới
trong lịch sử văn học dân tộc. Sự xuất hiện của dòng văn học này đã góp phần tạo
nên sự đa hương sắc cho bộ mặt của văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 -


1945. Sau đây chúng tôi giới thiệu một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu và đây cũng
chính là đối tượng để luận văn phân loại và mô tả.
(Bảng thống kê tác giả và tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo)
STT Tác giả Tác phẩm Thể loại
1 Nguyễn Tuân
Đới roi, Loạn âm, Trên
đỉnh non Tản, Xác ngọc
lam, Rượu bệnh, Lửa nến
trong tranh, Khoa thi cuối
cùng, Bữa rượu máu, Một
truyện không nên đọc lúc
giao thừa, Tâm sự nước
độc.
Truyện ngắn
2 Thanh Tịnh
Am culy xe, Làng, Tình
trong câu hát, Ngậm ngải
tìm trầm
Truyện ngắn
3 Thế Lữ
Vàng và máu, Trại Bồ
Tùng Linh.
Một chuyện ghê gớm, Một
đêm trăng, Tiếng hú ban

đêm, Ma xuống thang gác.
Hai lần chết.
Tiểu thuyết

Truyện ngắn
4 Tchya – Đái Đức Tuấn
Thần hổ, Ai hát giữa rừng
khuya.
Oan nghiệt.
Tiểu thuyết

Truyện ngắn
5 Lan Khai
Rừng khuya.
Tiểu thuyết
6 Hoàng Trọng Miên
Người đàn bà trong trắng,
Người bạn kì dị, Đàn bồ
câu trắng, Người đẹp
Truyện ngắn

phương Đông, Trăng xanh
huyền hoặc.
7 Nhất Linh
Bóng người trong sương
mù, Lan rừng, Câu chuyện
mơ trong giấc mộng.
Truyện ngắn
8 Bùi Hiển
Chiều sương, Một trận bão

cuối năm, Ma đậu.
Truyện ngắn
9 Đỗ Huy Nhiệm
Ông rắn, Một chuyện lạ,
Ngủ với ma, Cây đa ba
chạc, Tết trên Mường.
Truyện ngắn
10 Phạm Cao Củng
Người con gái tỉnh Bắc.
Truyện ngắn
11 Cung Khanh
Hoàng Kim ốc, Quyến rũ,
Trên bồng lai, Mặt trời, Đi
tiêu dao, Người con gái
thần rắn.
Truyện ngắn
12 Trần Tiêu
Ma.
Truyện ngắn
Để định hướng cho việc tiếp nhận cũng như tạo sự thuận tiện cho công việc
nghiên cứu, chúng tôi xin được nhắc rõ: đối tượng nghiên cứu của luận văn là
những tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo. Nghĩa là tác phẩm đó phải có sự tham gia
của các yếu tố kỳ ảo: hồn ma, quỷ dữ, cảnh tượng kỳ dị, sự hóa thân… vào cốt
truyện. Yếu tố này c
ó thể xuất hiện thường xuyên hoặc không thường xuyên nhưng
nó có khả năng chi phối đến cốt truyện, kết cấu và chủ đề của tác phẩm. Tùy vào
khả năng sáng tạo của tác giả và tầm đón nhận của bạn đọc, yếu tố kỳ ảo có thể gây
ra những hiệu ứng tâm lý như sự tò mò, nỗi sợ hãi, sự hoang mang, sự hoài nghi,
niềm xác tín hay một cảm
xúc thẩm mĩ nào đó nơi người đọc… Đó chính là tiêu chí

làm cơ sở để chúng tôi xác định những tác phẩm đã nêu (trong bảng thống kê ở
trên) là những tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo. Theo đó mục 2.2 sẽ giải thích rõ
hơn việc xác định đối tượng nghiên cứu của chúng tôi.

2.1.2. Một vài nhận xét về đặc trưng thể loại truyện kỳ ảo
Qua bảng thống kê ở mục 2.1.1, chúng tôi nhận thấy: Yếu tố kỳ ảo trong văn
xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 hầu hết chỉ xuất hiện trong thể loại
truyện ngắn. Truyện dài, tiểu thuyết chứa đựng yếu tố kỳ ảo chỉ đến trên đầu ngón
tay. Vậy tại sao yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 -
1945 thường chọn hình t
hức thể loại truyện ngắn để tồn tại? Giải đáp vấn đề này
phải dựa vào các góc nhìn sau:
Từ góc nhìn lịch sử văn học: Lịch sử thể loại truyện ngắn thế giới có điểm
tựa từ rất xa xưa dưới các hình thức truyện cổ dân gian. Truyện ngắn Việt Nam
cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Hơn nữa, nó lại có sự ch
uẩn bị kĩ lưỡng
trong văn học trung đại qua: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông
di thảo, Truyền kì mạn lục… để hình thành nên truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỉ
XX. Những đặc điểm trên cho thấy, ngoài sử thi (chiếm tỉ lệ không lớn trong văn
học nhân loại), thì truyện ngắn đóng vai trò chủ đạo tr
ong việc dung chứa những
yếu tố huyền ảo, kỳ dị và tâm linh. Từ góc nhìn lịch sử văn học, chúng ta có thể kết
luận, ngay từ buổi khởi nguyên của văn học nhân loại, hình thức ngắn ngọn đã
chiếm ưu thế trong việc chuyển tải những vấn đề thuộc về thế giới kỳ ảo, linh dị, ma
quái cũng như qua
n niệm tâm linh của con người.
Từ góc nhìn nhu cầu sáng tạo: Nguồn gốc truyện ngắn là một vấn đề thú vị
gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu văn học nhưng không phải là không
chứng minh được. Như trên đã trình bày, truyện ngắn đã tồn tại dưới hình thức
truyền miệng truyền thống và thực sự trở thành một thể loại văn học hiện đại vào

thế kỉ XIX.
Kể từ đó, trong đời sống văn học loại hình truyện ngắn đóng một vai trò
chủ chốt và nó tỏ ra gần gũi và tự nhiên với chúng ta hơn những hình thức kể
chuyện dài hơi khác. Truyện ngắn diễn ra trong một thời gian ngắn, cực ngắn và
thường được kể một cách “chọn lọc”. Hình thức ngắn gọn khiến nó thiên về biểu
hiện những ấn tượng, những lát cắt sâu đậm
trong cuộc sống. Cách miêu tả về nhân
vật, sự kiện, thời gian và không gian trong tác phẩm luôn có sự cô động và tiêu
biểu. Đó là cả một quá trình biên tập bao hàm trong đó sự chọn lọc, nhấn nhá và hư

cấu của người kể chuyện. Truyện ngắn thường mang lại cho người đọc những âm
vang dài và rộng hơn khuôn khổ chật hẹp về mặt hình thức của nó. Loại hình truyện
ngắn tỏ ra là mảnh đất màu mỡ để yếu tố kỳ ảo tồn tại và phát triển. Những hiện
tượng siêu nhiên, huyền bí, tâm linh luôn là một phạm trù bí ẩn đối với tầm hiểu
biết của con người. Trong văn học dù nhà văn có dùng nó để chuyển tải niềm tin
thẩm mĩ hay c
oi đó là phương tiện nghệ thuật thì những hiện tượng ấy luôn tạo sự
“lưỡng lự” trong tầm đón đợi của người tiếp nhận. Yếu tố kỳ ảo ở trong cuộc sống
và trong văn học đều tạo ra ấn tượng cho con người. Nhà văn khi viết về những ấn
tượng ấy, ít tìm đến thể loại tiểu thuyết ha
y truyện dài. Bởi hình thức dài lê thê của
chúng buộc nhà văn phải bổ sung thêm sự kiện, nhân vật, tình tiết… Thời gian và
không gian giãn nở ra, sự cô động, tính chặt chẽ trong truyện sẽ giảm đi. Vì thế,
hiệu quả ấn tượng sẽ bị mờ dần.
Từ góc nhìn nhu cầu tiếp nhận: Đọc giả luôn là một yếu tố quan trọng
quyết định đến hì
nh thức tồn tại của một thể loại văn học. Vào đầu thế kỉ XX, nhu
cầu thưởng thức văn học trong bộ phận người dân thành thị là rất lớn. Thể loại
truyện ngắn tỏ ra rất gần gũi với bạn đọc. Bởi hình thức ngắn gọn của nó giúp độc
giả dễ dàng tiếp cận tác phẩm một cách liền mạch từ đầu đến c

uối. Người đọc có
điều kiện chú ý từng từ, từng đoạn và từng hành động trong truyện. Dung lượng của
truyện ngắn cũng làm cho cốt truyện lộ ra rất nhanh, người đọc không mất nhiều
thời gian để lập luận giải thích. Vì thế, hiệu ứng tâm lý do bản thân yếu tố kỳ ảo gây
ra sẽ trực tiếp hơn. K
hả năng gây xung đột về “cái bất khả giải” trong lòng độc giả
mạnh mẽ hơn. Trong quá trình sáng tác Poe là người rất chú trọng đến tầm đón đợi
của người tiếp nhận. Poe cho rằng: “Một tác phẩm quá dài sẽ hạn chế tính duy nhất
của ấn tượng mà tác phẩm sản sinh ra. Hiệu quả duy nhất hay “hiệu quả của tính
duy nhất” là nguyên tắc mà Poe đặt ra trong truyện ngắn. Bởi, nếu một tác phẩm bị
đọc gián đoạn do quá
dài, bị các công việc khác xen vào, “thì tất cả những cái mà
chúng ta gọi là toàn bộ, cái tổng thể sẽ bị phá hủy lập tức” [24, tr.168]. Lý thuyết
về truyện ngắn được Poe thể hiện khá rõ trong truyện ngắn kỳ ảo của ông. Truyện
của Poe vắng bóng những lời giới thiệu hay sự giải thích dài dòng về tiểu sử và

những sự kiện mà hầu như chỉ tập trung thể hiện về nỗi ám ảnh trong truyện. Đó là
nỗi ám ảnh về những người phụ nữ đầy huyền bí. Hoặc là nổi ám ảnh về cái chết
đang cận kề.
Bên cạnh những khía cạnh đề cập trên, chúng tôi còn nhận thấy, sở dĩ yếu tố
kỳ ảo xuất hiện nhiều trong truyện ngắn là do đặc trưng của đời sống hiện đại. Đời
sống báo chí và truyền thông luôn hướng về sự ngắn gọn. Nhà
biên tập ngại đăng tải
những truyện dài trên các mặt báo. Đây cũng là nguyên nhân gián tiếp tác động đến
sự hình thành và phát triển của thể loại truyện ngắn kỳ ảo.
Nhìn vào thực tế sáng tác của văn xuôi lãng mạn Việt Nam, số lượng tác
phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo đều tập trung nhiều ở thể loại truyện ngắn. C
ác tác
giả Thế Lữ, Nhất Linh, Lan Khai, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Bùi Hiển… dù ý thức
hay không ý thức về vấn đề thể loại đều nhất loạt chọn hình thức truyện ngắn để

khai thác tối đa hiệu quả nghệ thuật của yếu tố kỳ ảo. Trong các tác phẩm: Bóng
người trong sương mù, Lan rừng (Nhất Linh); Chiều sương, Một trận bão cuối
năm (Bùi Hiển); Làng, Ma đậu (Thanh Tịnh); Câ
y đa ba chạc, Một chuyện lạ,
Ngủ với ma, Ông rắn, Tết trên Mường (Đỗ Huy Nhiệm)… ấn tượng về yếu tố kỳ
ảo đạt hiệu quả khá cao. Khả năng khắc sâu và gây sự bất ngờ trong tâm trí của độc
giả là rất mạnh. Nói như thế không có nghĩa là những truyện dài và tiểu t
huyết có
chứa yếu tố kỳ ảo kém hiệu quả biểu hiện nghệ thuật. Nhìn vào thực tiễn sáng tác
văn học thế giới, những cuốn tiểu thuyết: Bá tước Dracula (Bram Stoker ) Trăm
năm cô đơn (Maquez), Miếng da lừa (Balzac)… đã để lại những ấn tượng sâu đậm
trong lòng độc giả về chủ nghĩa huyền ảo. Trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945 sự xuất hiện của các tác phẩm: Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ
(Đái Đức Tuấn), V
àng và máu, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ) cũng đã đóng góp
những thành công đáng kể cho dòng truyện kỳ ảo. Có được điều này là nhờ vào khả
năng kể chuyện biến hóa tài tình của nhà văn. Lời kể có sự sáng tạo và luôn hấp dẫn
người đọc. Nội tâm nhân vật được khắc sâu. Sự kiện trong truyện và các lập luận
của nhâ
n vật luôn được sắp xếp một cách logic và hợp lý… Tất cả đã tạo nên sức
hấp dẫn mãnh liệt khi người đọc tiếp xúc với tác phẩm.

Tóm lại, việc chúng tôi nêu ra một vài nhận xét về vấn đề thể loại là nhằm
giải thích cho hiện tượng mang tính phổ biến trong đời sống văn học giai đoạn 1930
– 1945 chứ không phải khoanh vùng thể loại để khảo sát. Nếu làm như thế, vô hình
trung chúng ta chối bỏ những đóng góp quan trọng của các tác phẩm kỳ ảo được
viết theo hình thức truyện dài và tiểu thuyết. Trong hành trình mười lăm năm phát
triển, bên cạnh những truyện ngắn kỳ ảo đã đạt đến những thà
nh tựu nghệ thuật
đỉnh cao: Tâm sự nước độc (Nguyễn Tuân), Tình trong câu hát (Thanh Tịnh)…

Truyện dài và tiểu thuyết kỳ ảo: Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ (Đái Đức Tuấn),
Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ) cùng hòa vào thành tựu của truyện
ngắn kỳ ảo tạo nên một diện mạo khá phong phú về thể loại cho dòng văn xuôi lãng
mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
Tuy nhiê
n, nếu đặt dòng văn xuôi kỳ ảo lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945 vào hệ thống văn xuôi kỳ ảo thế giới, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt lớn.
Chỉ xét riêng về kỹ thuật viết truyện, dù xuất hiện trước gần một thế kỉ nhưng các
sáng tác kỳ ảo của Edgar Allan Poe đã đạt đến kỹ thuật của truyện ngắn hiện đại.
Truyện của ông đã đi sâu vào khắc họa thế giới nội tâm của nhâ
n vật với những nỗi
ám ảnh triền miên. Cái kỳ ảo cũng được ông đưa vào cuối truyện để tạo ra sự bất
ngờ về mặt thẩm mĩ. Truyện ngắn kỳ ảo thuộc đòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945 ra đời sau,
nhưng những tác phẩm đạt đến thành tựu cao là
rất ít. Kỹ thuật viết truyện ngắn còn ảnh hưởng lớn từ văn học quá khứ. Cách xây
dựng nhân vật cũng chưa thực sự khắc họa nội tâm của nhân vật. Các tác phẩm vì
thế phần lớn nghiêng về tái hiện hơn là thể hiện. Do vật, sức hấp dẫn của nó cũng
không t
hể so sánh được với các sáng tác của Edgar Allan Poe hay Hoffman.

2.2. Phân loại yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945
Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 được
biểu hiện ở những dạng thức nào? Nó gồm bao nhiêu chủng loại truyện kỳ ảo? Đó
là câu hỏi rất cần được trả lời. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp xúc với các công trình
nghiên cứu có liên quan mật thiết với đề tài của luận văn, chúng tôi nhận thấy chưa
có bài viết nào đề cập đến vấn đề này. Đó chí
nh là khó khăn lớn cho chúng tôi trong
việc tiếp cận các tác phẩm có sử dụng yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945. Trong luận văn này, để thuận tiện cho công việc

nghiên cứu, qua khảo sát các tác phẩm, chúng tôi tạm phân thành ba loại truyện kỳ
ảo như sau: Kỳ ảo ma quỷ, kỳ ảo thần linh, kỳ ảo kỳ bí. Sự phân loại này chủ yếu
dựa vào những yếu tố siêu nhiên, siêu thực mà các tác giả lựa chọn để tạo nê
n chất
kỳ ảo, huyền hoặc. Cách phân loại này có thể chưa nhận được sự đồng thuận của
nhiều người nhưng hy vọng nó sẽ đem đến cho chúng ta một cái nhìn cụ thể hơn về
yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
2.2.
1. Kỳ ảo ma quỷ
Nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945,
chúng tôi nhận thấy có rất nhiều tác phẩm đề cập đến sự xuất hiện của ma quái, quỷ
dữ. Các sáng tác của Nguyễn Tuân, Lan Khai, Đái Đức Tuấn, Thanh Tịnh, Bùi
Hiển, Đỗ Huy Nhiệm… luôn đưa người đọc vào thế giới của những loài ma. Nhân
vật ma, chi tiết liên quan đến ma có ý nghĩa rất lớn tr
ong việc chuyển tải quan niệm
nghệ thuật của các nhà văn. Một mặt, nó biểu hiện văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của
người Việt là luôn tin vào sự hien hữu của thế giới cõi âm. Mặt khác, nó còn gởi
đến người đọc những cảm xúc thẩm mĩ, những trăn trở về cuộc sống của con người
trong thời đại mới.
Thế giới ma quỷ xâm nhập và
o trong các tác phẩm kỳ ảo giai đoạn 1930 –
1945 không phải là những hiện tượng đơn lẻ mà nó tạo thành một chủng loại “Kỳ
ảo ma quỷ”. Sỡ dĩ chúng tôi mạnh dạn khẳng định như vậy, bởi thực tiễn nghiên
cứu đã chứng minh điều đó. Hàng loạt các câu chuyện ma quái xuất hiện trong các
trang viết của những cây bút “chuyên trị”. Đỗ Huy Nhiệm với các truyện ma trong

Truyền kiếp: ma cây đa, ma rắn, ma Mường, ma nhà xác… Tchya Đái Đức Tuấn
đưa người đọc đến với thế giới ma rùng rợn: ma hổ, ma rắn, ma xó, ma trành, ma
cụt đầu (Ai hát giữa rừng khuya, Thần hổ…), Bùi Hiển với ma thuyền chài (Chiều
sương, Một trận bão cuối năm), Thanh Tịnh với ma culy (Am culy xe), Thế Lữ với

ma khách, ma giữ của (Vàng và máu, Một đêm trăng, Một chuyện ghê gớm,
Tiếng
hú ban đêm)…
Tính chất ly kỳ, rùng rợn của yếu tố kỳ ảo ma quỷ đã được các nhà văn khai
thác một cách tối đa. Đọc các tác phẩm kể trên, người đọc dù thần kinh có vững
chãi đến mấy cũng không khỏi có cảm giác lạnh buốt ở sống lưng. Dòng truyện ma
quái, quỷ dữ luôn gây ấn tượng mạnh trong lòng đọc giả. Đa số những tác phẩm viết
về ma q
uỷ đều có cốt truyện được lưu truyền trong dân gian. Những câu chuyện ma
ly kỳ, quái đản từ miền ngược đến miền xuôi và ở trong người dân tộc thiểu số đã
được các tác giả khai thác một cách triệt để. Mặc dù loại truyện kỳ ảo ma quỷ được
xây dựng trên cơ sở những câu chuyện nhân gian nhưng nội dung nghệ thuật của nó
thì khác hẳn. Các câu chuyện ma thuần túy thường nói về sự tồn tại của ma và nỗi
sợ hãi của con người về ma. Ngược lại, mục đích tối cao của loại tru
yện kỳ ảo ma
quỷ là đem đến cho bạn đọc một cảm xúc nghệ thuật nào đó và nỗi sợ chỉ còn là
phương tiện, được sử dụng như một không gian thậm chí là một cái cớ để đạt đến
mục đích đó.
Qua
n niệm về ma ở mỗi thời đại, mỗi dân tộc cũng có sự khác nhau. Ma
trong quan niệm của văn học phương Tây bao giờ cũng gắn liền với cái xấu và cái
ác. Trong quan niệm của người phương Đông cổ xưa, ma là một thực thể tinh thần.
Người ta gọi linh hồn của người chết là hồn ma. Ma cũng có sức mạnh siêu nhiên
như thần thánh có thể tác oai tác quái, ban phúc hay tiên tri số mệnh, vận hạn cho
người sống. Đặc biệt, chúng có khả năng biến lẫn và
o thân thể người khác hay cứ
trú vào bất cứ thực thể nào (hoa lá, cỏ cây, vạn vật…), gây ra bệnh tật, chết chóc,
gọi là ma nhập, ma ám hay ma cư trú. Đối với họ ma quỷ là nỗi khiếp sợ. Ngược lại,
ma trong văn học giai đoạn 1930 – 1945 rất gần gũi thân thiện đối với con người.
Ngoài một số oa

n hồn ma gắn với nghiệp độ nhật của mình lúc sống trên thế gian:

Ma culy xe (Am culy xe), ma thuyền chài (Một trận bão cuối năm, Chiều sương),
ma tài tử (Đới roi, Tâm sự nước độc)… Phần lớn trong quan niệm của các nhà văn
hiện đại ma là hiện thân của người phụ nữ. Vì thế, hồn ma hiện ra trong các tác
phẩm thường là các ma nữ: người con gái Mường (Tết trên mường), Pengslao,
Oanh Cơ (Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya), Sao (Lan rừng), Hoàng Lan Hương
(Trại Bồ Tùng Linh), Ngọc Bách (Người con gái tỉnh Bắc )… và hầu hết đều rất
đẹp. N
hân vật ma còn là biểu tượng cho sự minh triết và tình yêu, cho hạnh phúc và
bất hạnh. Tình yêu đưa con người đến tột đỉnh của hạnh phúc nhưng cũng chính
tình yêu làm cho con người ta ê chề đau khổ. Tình yêu ngàn đời vẫn là điều bí ẩn.
Có lẽ những người đàn bà ma đã ra đời như thế.
Tóm lại, nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn giai đoạn 1930 –
1945 chúng ta cần phải thừa nhận những tác phẩm kỳ ảo ảo ma quỷ là một nhánh,
một chủng loại truyện.
Có như thế mới thấy hết những đóng góp của loại truyện này
trong nỗ lực tìm tòi và sáng tạo của các nhà văn lãng mạn.
2.2.2. Kỳ ảo thần linh
Bên cạnh việc sử dụng yếu tố kỳ ảo m
a quỷ, các nhà văn giai đoạn này còn
đưa vào trong tác phẩm của mình những nhân vật, chi tiết mang tính thần linh. Tuy
nhiên, quan niệm, niềm tin về thế giới thần linh của con người hiện đại không còn
chất phác như xưa. Trong văn học truyền thống, thần linh là nhân vật trung tâm của
tác phẩm. Thần linh thuộc về thế giới khác, thế giới siêu trần với quyền năng tối cao
và quyền uy tối thượng. Thần là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là niềm tin, sự
ngưỡng vọng của con người và cộng đồng. Thượng đế, Diêm Vương, Long Quâ
n,
Tiên, Phật… xuất hiện trong các tác phẩm: Việt điện u linh (Lý Tế Xuyên), Lĩnh
Nam chích quái (Vũ Quỳnh, Kiều Phú), Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông),

Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ)… với quyền năng, phép thuật vô hạn để đem lại
hạnh phúc và cứu rỗi con người thoát khỏi hoạn nạn. Tr
ong văn học giai đoạn 1930
– 1945, thần linh không còn là nhân vật trung tâm mà thay vào đó là con người.
Thần linh được hình thành theo tư tưởng và đạo diễn của tác giả. Sự xuất hiện của
Sơn thần Tản Viên trên núi Ba Vì (Trên đỉnh non Tản), thần hổ (Thần hổ, Ai hát

giữa rừng khuya), thần rắn (Ông rắn)… chính là thủ pháp độc đáo để chuyển tải
quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Vì thế, trong văn học hiện đại yếu
tố thần linh là phương tiện nghệ thuật giúp nhà văn “thấu” tất cả những bề bộn, trăn
trở của cuộc sống thực tại. Từ đó gởi gắm
vào cuộc đời những ước mơ, những hy
vọng dù bé nhỏ, mong manh.
Bóng dáng của thần linh trong các tác phẩm văn học hiện đại phảng phất dư
vị của truyền thuyết dân gian. Câu chuyện về Quan Ôn có trong Loạn âm và sự bất
tử của Thần Tản Viên (Trên đỉnh non Tản) đều tồn tại trong quan niệm nhân gian
và phảng phất dư âm của truyện Dạ xoa bộ soái lục và Tản Viên từ s
oái sự luc
trong Truyền kì mạn lục. Chuyện thần giữ của trong tác phẩm Một truyện không
nên đọc lúc giao thừa, truyền thuyết chuột tha lá phủ mặt trong tác phẩm Thần hổ,
hay thần hổ trong Ai hát giữa rừng khuya rất gần với những câu chuyện dân gian
vẫn tồn tại ở vùng đồng bằng Bắc bộ, một số dân tộc ít người ở vùng núi Đông –
Bắc và trong qua
n niệm của người Mường. Chính sự gần gũi đó đã khơi gợi trong
tâm thức người đọc những ý niệm của cha ông ta về đời sống tâm linh. Và cái
dưỡng chất truyền thống ấy được gia vị bằng chút cảm quan nghệ thuật hiện đại. Vì
thế, người đọc luôn có cảm giác vừa quen, vừa lạ. Quen vì nó gần với đời sống tâm
linh bản địa. Lạ, vì nó i
n đậm dấu ấn sáng tạo của nhà văn hiện đại.
So với kỳ ảo ma quỷ, kỳ ảo thần linh chiếm một tỉ lệ khiêm tốn hơn. Nhưng

với thành công của các tác phẩm: Thần hổ, Loạn âm, Trên đỉnh non Tản, Một
truyện không nên đọc lúc giao thừa (Nguyễn Tuân), Ông rắn (Đỗ Huy Nhiệm),
Mặt trời, Người con gái thần rắn (Cung Khanh) … cũng đủ để chúng ta thừa nhận
đây là một dòng truyện kỳ ảo c
ó giá trị nghệ thuật cao. Các tác giả văn học giai
đoạn này sử dụng yếu tố kỳ ảo thần linh như là một thủ pháp sáng tạo trong văn
chương. Cùng với kỳ ảo ma quỷ, kỳ ảo thần linh góp phần minh hiển những ước
nguyện của con người trong cuộc sống. Chính vì vậy, yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi
lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 vừa thấp thoá
ng bóng dáng của văn học truyền
thống nhưng lại vừa thoát ra khỏi những truyền thống đó. Nó đã được xã hội hiện

đại khoác lên mình một tấm áo tươi mới hơn, làm cho con người vừa được thỏa
mãn niềm tin, tín ngưỡng tâm linh lại vừa phải suy ngẫm về cuộc sống.

×