Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Quá trình nhập cư của người Hoa vào Mỹ thế kỷ XIX XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THANH THÚY

QUÁ TRÌNH NHẬP CƢ CỦA NGƢỜI HOA VÀO MỸ
THẾ KỶ XIX-XX

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội-2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THANH THÚY

QUÁ TRÌNH NHẬP CƢ CỦA NGƢỜI HOA VÀO MỸ
THẾ KỶ XIX-XX

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 50

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thiện Thanh

Hà Nội-2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn ―Quá trình nhập cư của người Hoa vào
Mỹ thế kỷ XIX-XX‖ là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dƣới sự
hƣớng dẫn của TS.Trần Thiện Thanh. Những trích dẫn là chính xác,
đúng nguồn; những luận điểm, luận cứ mà luận văn kế thừa của những
tác giả đi trƣớc đều ghi rõ xuất xứ.
Ngƣời viết

Lê Thanh Thúy

1


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trần Thiện Thanh là
ngƣời đã nhiệt tình hƣớng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở và động viên tinh thần trong
suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong
Bộ môn Lịch sử Thế giới, Khoa Lịch sử với tất cả sự giúp đỡ và chỉ dẫn quý
báu. Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Viện Âm nhạc đã tạo
điều kiện về mặt thời gian để tôi có thể theo học tại Trƣờng Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động viên,
cùng chia sẻ những khó khăn và thuận lợi để tôi có thể hoàn thành khoá luận này
một cách tốt nhất có thể.

2


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5
1. Lý do chọn đề tài. ........................................................................................ 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ........................................................................ 7
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. ...................................... 10
4. Phƣơng pháp nghiên cứu. ........................................................................ 11
5. Cấu trúc luận văn. .................................................................................... 11
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 13
CHƢƠNG I: TIỀN ĐỀ THÚC ĐẨY NGƢỜI HOA NHẬP CƢ VÀO MỸ
THẾ KỶ XIX-XX ........................................................................................... 13
1.1. Khái quát lịch sử di cƣ của ngƣời Hoa trƣớc thế kỷ XIX .................. 13
1.2. Nguyên nhân thúc đẩy ngƣời Hoa di cƣ ra nƣớc ngoài thế kỷ XIXXX……… ....................................................................................................... 20
1.3. Nguyên nhân thu hút ngƣời Hoa nhập cƣ vào Mỹ thế kỷ XIX-XX .. 25
CHƢƠNG II: CÁC GIAI ĐOẠN NHẬP CƢ CỦA NGƢỜI HOA VÀO MỸ
THẾ KỶ XIX-XX ........................................................................................... 34
2.1. Giai đoạn nhập cƣ tự do và bƣớc đầu của phong trào bài Hoa
(1849-1882)..................................................................................................... 34
2.2. Giai đoạn nhập cƣ vào Mỹ bị cấm và hạn chế (1882-1965) .................. 41
2.3. Giai đoạn nhập cƣ bình đẳng (từ năm 1965 đến cuối thế kỷ XX)…...48
CHƢƠNG III: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
NGƢỜI HOA NHẬP CƢ Ở MỸ THẾ KỶ XIX-XX ..................................... 56
3.1. Đời sống của ngƣời Hoa nhập cƣ ở Mỹ thế kỷ XIX-XX. ................... 56
3.2. Tác động của ngƣời Hoa nhập cƣ ở Mỹ thế kỷ XIX -XX .................. 63
3.2.1. Đối với nƣớc Mỹ ................................................................................ 63
3.2.2. Đối với Trung Quốc .......................................................................... 72
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 78
3


TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 81
Phụ lục 1: Hiệp ƣớc Thiên Tân giữa Mỹ và Trung Quốc năm 1858 ........ 87

Phụ lục 2: Hiệp ƣớc Burlinggame năm 1868 (những điều khoản mới bổ
sung cho hiệp ƣớc Thiên Tân năm 1858) .................................................. 104
Phụ lục 3: Những nội dung chính liên quan tới Luật bài Hoa năm 1882
....................................................................................................................... 109
Phụ lục 4: Trích một phần đạo luật Magunuson 1943 ............................. 112
Phụ lục 5: Luật nhập cƣ và quốc tịch, hay còn gọi là đạo luật hartCellar114

4



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhập cƣ là một hiện tƣợng xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử và diễn
ra ở mọi thời đại. Nhập cƣ là hành động di chuyển của dân cƣ từ một vùng, một
quốc gia, một khu vực, hay từ một châu lục đến một vùng, một quốc gia hay một
châu lục mới để định cƣ hoặc tạm trú. Nói cách khác, nhập cƣ là sự di chuyển
chỗ ở từ một địa điểm xác định này sang một địa điểm khác để định cƣ hay tạm
trú. Nhập cƣ là cách nhìn lấy nơi đến làm hệ quy chiếu, trái ngƣợc với xuất cƣ
lấy nơi đi làm hệ quy chiếu. Nhập cƣ và xuất cƣ đều là nội dung của vấn đề di
cƣ, có tác động đa chiều đến các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội ở nhiều quốc
gia, khu vực.
Lịch sử thế giới cận, hiện đại đã chứng kiến hiện tƣợng di cƣ của ngƣời
Hoa trên khắp các lục địa. Ngƣời Hoa không chỉ là dân tộc đông dân nhất thế
giới mà còn là dân tộc có số dân di cƣ lớn bậc nhất trên thế giới. Phạm vi di cƣ
của ngƣời Hoa không ngừng đƣợc mở rộng qua thời gian. Khu vực ngƣời Hoa di
cƣ đến đầu tiên là Đông Nam Á. Sau đó, dƣới những hoàn cảnh và điều kiện
khác nhau, ngƣời Hoa có mặt ở hầu khắp các lục địa từ châu Á sang châu Âu,
châu Mỹ, châu Phi vào thế kỷ XIX-XX.
Lịch sử thế giới cận đại và hiện đại cũng cho thấy, Mỹ là quốc gia tiếp

nhận dân nhập cƣ lớn nhất thế giới, trong đó có ngƣời Hoa. Làn sóng nhập cƣ
của ngƣời Hoa vào Mỹ diễn ra mạnh mẽ nhất đã dẫn đến chuyển biến nhiều mặt
kinh tế- xã hội của đất nƣớc này.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi lựa chọn đề tài ―Quá trình nhập cƣ của ngƣời
Hoa vào Mỹ thế kỷ XIX - XX‖ làm luận văn tốt nghiệp cao học. Theo tôi, việc
triển khai đề tài này có những ý nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu quá trình nhập cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ thế kỷ
XIX – XX giúp chúng ta hiểu đƣợc một khía cạnh của mối quan hệ tƣơng tác
5


giữa hai quốc gia lớn trên thế giới, hiểu rõ hơn những vấn đề của lịch sử cận,
hiện đại. Nằm ở hai châu lục khác nhau, đƣợc ngăn cách bởi Thái Bình Dƣơng,
trƣớc thế kỷ XIX, Mỹ và Trung Quốc dƣờng nhƣ không có mối liên hệ trực tiếp
với nhau, nhƣng với sự vận động của thế giới, hai quốc gia từng bƣớc thiết lập
các mối quan hệ ngày càng chặt chẽ, vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Nghiên cứu
quá trình nhập cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ tuy không thể giải thích đƣợc đầy đủ
mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ hiện nay nhƣng nhìn từ góc độ lịch sử di
dân, nhập cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ cũng có thể lý giải phần nào mối quan hệ
đó.
Thứ hai: Nghiên cứu quá trình ngƣời Hoa nhập cƣ vào Mỹ thế kỷ XIX –
XX chúng ta biết rõ hơn chính sách nhập cƣ của chính quyền Mỹ đối với ngƣời
Hoa nói riêng, chính sách nhập cƣ nói chung; những cơ sở dẫn đến những thay
đổi, điều chỉnh chính sách nhập cƣ qua thời gian; tính hiệu quả của những chính
sách nhập cƣ; tác động tích cực và tiêu cực của những thay đổi này với bản thân
nƣớc Mỹ.
Thứ ba: Cho đến nay, lịch sử đã chứng minh rằng ngƣời Hoa có mặt ở hầu
hết các khu vực trên thế giới. Thực tế, trong nhiều thời điểm, ngƣời Hoa phải đối
mặt với vấn đề phức tạp từ phía cƣ dân và chính quyền sở tại. Tuy nhiên, họ
đƣợc đánh giá là những ngƣời khá thành công nơi ―đất khách quê ngƣời‖.

Nghiên cứu ngƣời Hoa ở Mỹ sẽ cho ta biết cách thức ngƣời Hoa đã thích ứng để
tồn tại và phát triển qua những thời điểm khó khăn phức tạp, cũng nhƣ lý giải sự
thành công của họ ở Mỹ, quốc gia đƣợc mệnh danh là ―đất nƣớc của những
ngƣời nhập cƣ‖.

6


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài nhập cƣ của các dân tộc trên thế giới đến Mỹ đã thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhƣng những nghiên cứu về ngƣời châu Á nhập
cƣ vào Mỹ nói chung và ngƣời Hoa nhập cƣ vào Mỹ nói riêng thì không nhiều.
Trong phạm vi những công trình có thể tiếp cận đƣợc, tôi xin nêu một số nét
chính về vấn đề này nhƣ sau:
Ở nước ngoài, tài liệu sớm nhất đề cập đến ngƣời Hoa nhập cƣ vào nƣớc
Mỹ là tác phẩm ―The Indispensable enemy: labor and the anti- Chinese
moverment in California” (1971) của Alexander Saxton. Đây là công trình
nghiên cứu quan trọng đầu tiên về ngƣời Hoa ở Mỹ. Nội dung tác phẩm phản
ánh phong trào chống ngƣời Hoa ở bang California. Tác phẩm cũng chỉ rõ
nguyên nhân dẫn đến phong trào bài Hoa là tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
xảy ra gay gắt trƣớc sự hiện diện ngày một đông đảo của ngƣời Hoa ở đây.
Năm 1974, tác phẩm ―Valley City: A Chinese community in America” của
Melford S.Weiss đƣợc xuất bản. Đây là nghiên cứu cụ thể đầu tiên về lịch sử và
đời sống văn hoá, xã hội, chính trị, giáo dục của cộng đồng ngƣời Hoa ở Mỹ từ
cuối thế kỷ XIX đến những năm 70 thế kỷ XX. Tác phẩm nhấn mạnh đến kết
cấu, đặc điểm, tổ chức cộng đồng của ngƣời Hoa (Chinatown) ở Valley City,
thuộc bang California.
Năm 1980, cuốn “People and Cultures of Hawaii” của Jonh
F.Mcdermott, Jr. Wen-shing Tseng, Thomas W.Maretzki đƣợc xuất bản. Nội
dung cuốn sách viết về quá trình nhập cƣ, đời sống và những hoạt động giữ gìn

bản sắc văn hóa của ngƣời Trung Quốc, Nhật Bản, Bồ Đào Nha… trên đảo
Hawaii.
Năm 1981, tác phẩm ―Concentration Camp: North America Japanese in
the United States and Canada During World War II” của tác Roger Daniels ra
đời. Mặc dù đối tƣợng chính trong cuốn sách là ngƣời Nhật ở Bắc Mĩ, nhƣng
7


trong tác phẩm, tác giả có đề cập một số nội dung về ngƣời Hoa ở Mỹ nửa cuối
thế kỷ XIX.
Năm 1991, công trình có tiêu đề “Nativisim, Discrimination and Images
of immigrants (tập 15) của nhiều tác giả (biên tập bởi George E. Pozzetta) đƣợc
xuất bản. Tác phẩm viết về quá trình nhập cƣ, định cƣ của các dân tộc châu Á
vào nƣớc Mỹ nhƣ Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines… thế kỷ XX
và thái độ của ngƣời bản địa với ngƣời nhập cƣ, sự phân biệt chủng tộc ở Mỹ và
cuộc sống của ngƣời nhập cƣ ở Mỹ. Trong tác phẩm này, cộng đồng ngƣời Hoa
ở Mỹ đã đƣợc tác giả đề cập với những nét khái quát nhất.
Năm 1992, cuốn ―Asian and Pacificislander migration to the United
States: A model of new global patterns” của tác giả Elliott Robert Barkan đƣợc
xuất bản. Nội dung cuốn sách đề cập tới quá trình hình thành làn sóng nhập cƣ
từ châu Á và các đảo thuộc Thái Bình Dƣơng vào Mỹ, mô hình nhập cƣ trong
những thập kỷ cuối của thế kỷ XX; phân tích tác động của cải cách nhập cƣ ở
Mỹ từ 1945 đến 1985, từ đó tác giả khái quát thành các mô hình nhập cƣ.
Năm 1993, tác giả David W.Stewart cho ra đời tác phẩm ―Immigration
and Education: The Crisis and the Opportunities”. Trong cuốn sách, tác giả chỉ
ra những nét khái quát nhất về tình hình nhập cƣ vào nƣớc Mỹ từ nửa cuối thế
kỷ XIX và thế kỷ XX. Tuy nhiên, nội dung chính đƣợc đề cập trong công trình
này là khía cạnh giáo dục. Chính sách nhập cƣ với việc ƣu tiên những ngƣời có
trình độ học vấn cao của chính phủ Mỹ đã dẫn đến một thực tế là những ngƣời
nhập cƣ đƣợc hƣởng một nền giáo dục tốt hơn so với những ngƣời trong nƣớc và

tỉ lệ những ngƣời nhập cƣ tại Mỹ có trình độ học vấn cao hơn ngƣời bản địa.
Năm 1994, cuốn ―Immigrants and the American city” của Thomas Muller
đƣợc xuất bản. Nội dung tác phẩm đề cập tới vấn đề di dân vào các thành phố
Mỹ, những cuộc tranh luận về ngƣời nhập cƣ vào các thành phố. Ngƣời nhập cƣ

8


làm tái sinh và phát triển các thành phố, việc ổn định chính trị, xã hội đối với
ngƣời nhập cƣ và sự phát triển nƣớc Mỹ trong tƣơng lai.
Năm 2003, tác phẩm ―The Chinese in America: A narrative history‖ của
tác giả Iris Chang đƣợc xuất bản. Có thể nói, đây là tác phẩm khái quát một cách
có hệ thống về ngƣời Hoa ở Mỹ. Tác phẩm đề cập tới quá trình phát triển của
cộng đồng ngƣời Hoa ở Mỹ từ nửa cuối thế kỷ XIX đến hết thế kỷ XX.
Ở trong nước, nghiên cứu về ngƣời Hoa nhập cƣ vào Mỹ bắt đầu tƣơng
đối muộn. Cuốn ―Người Trung Hoa lưu lạc và những bàn tay bí mật” (1987)
của tác giả Đào Hùng đƣợc coi là tác phẩm có hệ thống đầu tiên đề cập đến vấn
đề ngƣời Hoa nhập cƣ và sinh sống tại Mỹ. Tác phẩm chỉ ra nguyên nhân ngƣời
Hoa di với số lƣợng lớn bắt đầu từ thế kỷ XVII. Trong tác phẩm, tác giả cũng
viết về những câu truyện của ngƣời Hoa di cƣ với nhiều số phận khác nhau,
nhƣng tất cả họ đều có một điểm chung là chịu sự chi phối của các thế lực ngầm,
những bàn tay bí mật nào đó. Qua công trình này, ngƣời đọc có thể nhận thấy
những ảnh hƣởng của các tổ chức bí mật của ngƣời Hoa đối với cuộc sống của
ngƣời Hoa ở khắp nơi trên thế giới.
Năm 2004, tác giả Trần Thiện Thanh có bài viết ―Vài nét về các dòng di
cư từ châu Á đến Mỹ‖ (in trong ―Đông Á, Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và
hiện tại”). Trong bài viết, tác giả đề cập khái quát nhất về các dòng nhập cƣ từ
châu Á vào Mỹ trong mối quan hệ so sánh với các dòng nhập cƣ từ các khu vực
khác trên thế giới. Tác giả đã chỉ ra xu hƣớng nhập cƣ từ châu Á, trong đó có
ngƣời Hoa vào nƣớc Mỹ ngày càng mạnh mẽ và chiếm ƣu thế ở những thập niên

cuối thế kỷ XX.
Năm 2005, tác giả Lê Thị Thu Hồng có bài viết ―Người Hoa ở Hoa Kỳ”.
Nội dung bài viết đề cập sơ lƣợc về nguồn gốc, cuộc sống ngƣời Hoa trên đất
Mỹ. Tác giả cũng khẳng định, ngƣời Hoa bị phân biệt và đối xử bất bình đẳng

9


trong thời gian dài. Đây là nguyên nhân hình thành các khu phố Tầu khá biệt lập
của ngƣời Hoa.
Năm 2012, trên Tạp chí văn hóa Nghệ An đăng bài viết ―Người Hoa tại
Mỹ” của tác giả Dƣơng Danh Dy. Đây là bài viết có tính khái quát nhất về lịch
sử nhập cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ.
Nhƣ vậy, cho đến nay nghiên cứu về quá trình nhập cƣ của ngƣời Hoa vào
Mỹ đã có những kết quả đáng ghi nhận. Nhìn chung, những công trình đã xuất
bản chủ yếu tập trung vào việc phân tích, làm sáng tỏ đời sống kinh tế, văn hóa,
giáo dục, đặc biệt là nhấn mạnh tới đời sống cộng đồng của ngƣời Hoa trên đất
Mỹ, nhƣng chƣa đi sâu làm sáng tỏ quá trình nhập cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ thế
kỷ XIX-XX. Đây vừa là thuận lợi vừa là khó khăn khi tôi triển khai đề tài nghiên
cứu này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu là quá trình nhập cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ thế kỷ
XIX-XX. ―Nhập cư‖ là hành động cƣ dân di chuyển chỗ ở đến một vùng hay
một quốc gia mới để định cƣ lâu dài hoặc tạm trú. ―Người Hoa‖ đƣợc hiểu là
những ngƣời sinh ra và mang quốc tịch Trung Hoa (từ năm 1949 đƣợc gọi là
Trung Quốc), gồm tất cả các đối tƣợng thành phần nghề nghiệp khác nhau (lao
động, sinh viên, nhà khoa học…). Nhƣ vậy, ngƣời Hoa nhập cƣ vào Mỹ là
những ngƣời có quốc tịch Trung Hoa đến Mỹ định cƣ hoặc tạm trú.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Trên cơ sở đối tƣợng nghiên cứu là quá trình nhập
cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ nên không gian nghiên cứu là Trung Quốc và Mỹ.
- Phạm vi thời gian: Thời gian nghiên cứu là thế kỷ XIX - XX, cụ thể là
từ năm 1849 đến năm 1991. Chúng tôi lấy mốc năm 1849 vì đây là thời điểm
làn sóng nhập cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ bắt đầu; kết thúc năm 1991 vì đây là
10


năm cuộc chiến tranh lạnh kết thúc. Năm 1991, tuy không phải mốc thời gian
liên quan trực tiếp tới chủ đề nghiên cứu, nhƣng đây là mốc thời gian có ảnh
hƣởng tƣơng đối rõ nét tới tâm lý và quá trình nhập cƣ của ngƣời Hoa vào Mỹ.
Nếu nhƣ trƣớc năm 1991, những ngƣời Hoa nhập cƣ vào Mỹ, đặc biệt là những
ngƣời từ Đại lục thƣờng phải đối mặt với những vấn đề về ý thức hệ (chủ nghĩa
cộng sản và chủ nghĩa tƣ bản) thì từ năm 1991, vấn đề này giảm bớt trƣớc xu
thế hội nhập và toàn cầu hóa.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Là một đề tài thuộc phạm trù lịch sử nên phƣơng pháp nghiên cứu chủ
yếu mà chúng tôi sử dụng trong luận văn này là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng
pháp logic.
Bên cạnh hai phƣơng pháp cơ bản trên, tác giả sử dụng các phƣơng pháp
thống kê, so sánh, phân tích, đối chiếu. Ngoài ra, trong quá trình tìm kiếm và
sƣu tầm tài liệu, tác giả có sử dụng các phƣơng pháp sƣu tầm, hệ thống hóa tƣ
liệu, xử lý số liệu và phƣơng pháp thống kê tài liệu.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, Luận văn đƣợc chia thành 3
chƣơng.
Chương 1. Tiền đề thúc đẩy người Hoa nhập cư vào Mỹ thế kỷ XIX-XX.
Nội dung chƣơng này đề cập những vấn đề khái quát nhất về lịch sử di cƣ
của ngƣời Hoa trƣớc thế kỷ XIX, những nguyên nhân thúc đẩy ngƣời Hoa di cƣ
ra nƣớc ngoài và chỉ rõ những nguyên nhân thu hút ngƣời Hoa vào Mỹ thế kỷ

XIX-XX.
Chương 2. Các giai đoạn nhập cư của người Hoa vào Mỹ thế kỷ XIX-XX.
Nội dung chính của chƣơng này đề cập tới quá trình nhập cƣ của ngƣời
Hoa vào Mỹ thế kỷ XIX-XIX qua những bƣớc thăng trầm, với quy mô, tính
chất, thành phần nhập cƣ ở từng thời kỳ, thời điểm. Quá trình nhập cƣ của ngƣời
11


Hoa vào Mỹ đƣợc chia thành 3 giai đoạn: 1/ Giai đoạn nhập cƣ tự do và bƣớc
đầu của phong trào bài Hoa (1849-1882), 2/ Giai đoạn nhập cƣ vào Mỹ bị cấm
và hạn chế (1882-1965), 3/Giai đoạn nhập cƣ bình đẳng (từ năm 1965 đến cuối
thế kỷ XX).
Chương 3. Thực trạng đời sống và tác động của người Hoa nhập cư ở Mỹ
thế kỷ XIX-XX.
Nội dung chƣơng này phản ánh đời sống của ngƣời Hoa định cƣ trên đất
Mỹ qua các giai đoạn khác nhau. Tác động tích cực và tiêu cực của những ngƣời
Hoa đối với nƣớc Mỹ cũng nhƣ đối với Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế, xã hội,
khoa học kỹ thuật v.v..

12


Chƣơng 1. TIỀN ĐỀ THÚC ĐẨY NGƢỜI HOA NHẬP CƢ VÀO MỸ
THẾ KỶ XIX-XX
1.1. Khái quát lịch sử di cƣ của ngƣời Hoa trƣớc thế kỷ XIX
Trung Hoa là một nền văn minh lớn của thế giới, đƣợc hình thành trên lƣu
vực sông Hoàng Hà vào cuối thiên niên kỷ thứ III trƣớc Công nguyên. Từ lƣu
vực sông Hoàng Hà, các triều đại Trung Hoa: Nhà Hạ, (XXI-XVII TCN), nhà
Thƣơng (XVII-XI TCN), nhà Chu (XI-256 TCN) không ngừng mở rộng địa giới
ra các phía để rồi hình thành Trung tâm văn hóa Hoa Hạ. Không dừng lại ở đó,

mỗi khi có điều kiện, các vƣơng triều Trung Hoa tiếp tục tìm cách xác lập chủ
quyền tới những vùng đất mới (cả những vùng đất chƣa có chủ và đã có chủ).
Quá trình này tạo nên một đất nƣớc Trung Hoa rộng lớn, thống nhất trong đa
dạng, với hai bộ phận cốt lõi là Hoa Bắc (lƣu vực sông Hoàng Hà) và Hoa Nam
(lƣu vực sông Trƣờng Giang).
Nhƣ một quy luật tất yếu, quá trình hình thành, phát triển hay suy thoái
của nền văn minh Trung Hoa không tách rời với thế giới bên ngoài. Điều đó
đƣợc thể hiện qua nhiều mối liên hệ đan xen với nhiều quốc gia trong khu vực
và thế giới với đầy đủ tích chất phức tạp và ở các mức độ đậm nhạt khác nhau.
Khi Trung Hoa cƣờng thịnh, mối liên hệ giữa Trung Hoa với bên ngoài rộng mở.
Ngƣợc lại, khi Trung Hoa suy yếu, mối liên hệ với thế giới bên ngoài hạn chế,
lỏng lẻo. Trong đó, sự di cƣ của ngƣời Hoa đến các quốc gia khác là một biểu
hiện của sự tƣơng tác, một sợi dây liên kết giữa văn minh Trung Hoa với thế giới
bên ngoài. Ngƣời Hoa di cƣ gồm nhiều đối tƣợng khác nhau nhƣ quan lại,
thƣờng dân, binh lính, thƣơng nhân, tăng sƣ, đạo sĩ v.v… Ngƣời Hoa di cƣ ra
nƣớc ngoài xuất hiện rất sớm trong lịch sử, xuất phát từ nhiều nguyên nhân vừa
có tính chất ép buộc, vừa có tính chất tự nguyện.
Làn sóng di cƣ đầu tiên của ngƣời Hoa ra nƣớc ngoài xuất hiện vào thời
Hán (203TCN-220). Đƣợc kế thừa di sản lớn nhất là sự thống nhất lãnh thổ từ
13


nhà Tần (221-206TCN), thời Hán, Trung Hoa là một đế chế hùng mạnh trên các
mặt kinh tế, quân sự, đồng thời cũng là đế chế có nền văn hóa phát triển rực rỡ,
có ảnh hƣởng sâu đậm sau này. Sự hƣng khởi trong lĩnh vực kinh tế, với những
nguồn thƣơng phẩm chất lƣợng cao, khối lƣợng lớn, nhất là tơ lụa của Trung
Hoa có sức hấp dẫn đặc biệt đối với thƣơng nhân ngoại quốc từ Tây Á tới buôn
bán. Ngƣợc lại, về phía Trung Hoa, nhà Hán cũng đẩy mạnh và mở rộng phạm
vi ảnh hƣởng ra bên ngoài bằng nhiều con đƣờng nhƣ chiến tranh xâm lƣợc,
ngoại giao, thƣơng mại. Mối liên hệ giữa Trung Hoa với bên ngoài đƣợc xác lập

vững chắc, trƣớc hết với quan hệ với các quốc gia láng giềng có chung đƣờng
biên giới nhƣ thuộc lãnh thổ Việt Nam, Myanma ngày nay, sau đó là vƣơn xa tới
các vùng đất Tây Á thông qua con đƣờng tơ lụa trên bộ và các quốc gia Đông
Nam Á khác qua đƣờng biển.
Việc mở rộng lãnh thổ, ảnh hƣởng và xác lập các mối quan hệ vững chắc
với bên ngoài có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình di cƣ của ngƣời Hoa. Sau khi
tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lƣợc, nhà Hán thi hành chính sách đồng hóa
văn hóa. Một trong những biện pháp đồng hóa văn hóa là việc triều đình Trung
Hoa thực hiện chính di dân, đƣa ngƣời Hán xuống các quốc gia mà họ đã thôn
tính và cai trị sống chung với ngƣời bản địa. Chính sách ―Hán hóa‖ đã đƣợc các
vƣơng triều Trung Hoa thực hiện điển hình nhất là ở Việt Nam, Triều Tiên… Có
thể nói, trƣớc Công nguyên, cộng đồng ngƣời Hoa đã có mặt ở một số quốc gia
láng giềng.
Sau khi nhà Hán sụp đổ năm 220, Trung Hoa rơi vào cuộc khủng hoảng
chính trị, kinh tế, xã hội trầm trọng. Chiến tranh tranh giành quyền lực giữa các
tập đoàn phong kiến diễn ra thƣờng xuyên, đất nƣớc suy yếu và phân liệt, kéo
dài đến thế kỷ VII. Trong khoảng thời gian này, ngƣời Hoa vẫn tiếp tục di cƣ ra
nƣớc ngoài nhƣng chủ yếu là thông qua đƣờng bộ.

14


Bƣớc sang thế kỷ VII, nhà Đƣờng (618-907) ra đời, Trung Hoa bƣớc vào
thời đại ―hoàng kim‖. Nhà Đƣờng trở thành một trong những trung tâm kinh tế
nổi bật nhất ở phƣơng Đông, hấp dẫn mạnh mẽ thƣơng nhân các nƣớc Đông
Nam Á, Nam Á, Tây Á đến buôn bán, đây cũng là giai đoạn ngƣời Hoa di cƣ
đến Đông Nam Á bằng con đƣờng biển. Con đƣờng tơ lụa trên bộ đƣợc khai mở
vào thời Hán, sau một thời kỳ suy giảm bƣớc vào giai đoạn phát triển thịnh đạt.
Theo ghi chép của các thƣ tịch cổ, số thƣơng nhân Ả Rập đến Trung Quốc mua
bán trong giai đoạn này không dƣới 10 vạn ngƣời. Tại khu vực phía tây kinh đô

Tràng An có một nơi thƣơng nhân Ả Rập thƣờng lui tới tập trung mua bán, trao
đổi hàng hóa. Do vậy, giai đoạn này đƣợc xem là thời kỳ ―hoàng kim‖ của con
đƣờng tơ lụa trên bộ [27, tr.112]. Về phía ngƣời Hoa, họ cũng nhận thức sâu sắc
hơn về thế giới bên ngoài, tích cực, chủ động dự nhập vào các hoạt động thƣơng
mại khu vực. Ban đầu, trong quá trình buôn bán trên biển, tàu bè của ngƣời Hoa
thƣờng phải đậu lại ở các bến cảng của các nƣớc Đông Nam Á để tránh thời tiết
xấu hoặc để kinh doanh. Các thủy thủ và thƣơng nhân phải cƣ trú tại chỗ nên gọi
là ―trú phiên‖. Sử sách Trung Quốc còn ghi lại rằng từ thời kỳ này trở đi, không
chỉ có các thƣơng gia và ngƣời di cƣ tự do lui tới các quần đảo Malaixia,
Inđônêxia, Philippin mà còn có nhiều nhà tu hành sang Ấn Độ lấy kinh bằng con
đƣờng bộ, khi về bằng đƣờng biển qua eo biển Malacca đã ghé thăm truyền giáo
ở những nơi đó và nhiều ngƣời trong số họ ở lại hành nghề tại các nƣớc Nam
Dƣơng [19, tr.25]. Thời kỳ Ngũ Đại cuối đời Đƣờng (907 -960), số ngƣời di cƣ
ở đảo Sumatra (thuộc Inđônêxia) đã quá đông, một số lƣợng lớn ngƣời Hoa đến
sau đã tản ra bán đảo Malaixia và đảo xung quanh để trú ngụ và sinh sống, tên
gọi ―ngƣời Đƣờng‖ đƣợc truyền khẩu rộng rãi từ đó [39, tr.23]. Tuy nhiên, thời
kỳ ―hoàng kim‖ của con đƣờng tơ lụa trên bộ kéo dài không lâu, đến thời trung

15


Đƣờng các dấu hiệu suy thoái bắt đầu xuất hiện1, thay vào đó, con đƣờng tơ lụa
trên biển đƣợc hình thành và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời Hoa di
cƣ mạnh mẽ xuống các nƣớc Đông Nam Á qua đƣờng biển. Các phố của ngƣời
Hoa đƣợc hình thành nhiều quốc gia trong khu vực, và thƣờng đƣợc gọi là phố
của ngƣời Đƣờng.
Sang thế kỷ X, nhà Tống (960-1279) đƣợc thành lập. Trên phƣơng diện
chính trị, quân sự, nhà Tống bị đánh giá là triều đại yếu kém nhất trong các triều
đại lớn ở Trung Hoa (Hán, Đƣờng, Tống, Nguyên, Minh, Thanh). Nhà Tống
luôn bị các tộc ngƣời phía bắc tất công xâm lƣợc, gây ra những khủng hoảng

trên các mặt chính trị, xã hội, thậm chí có những giai đoạn triều Tống phải thần
phục các nhà nƣớc của các tộc ngƣời du mục phƣơng bắc nhƣ Liêu, Kim, Tây
Hạ. Tuy nhiên, về mặt kinh tế đối ngoại, nhà Tống có chính sách thƣơng mại
rộng mở và đạt đƣợc những thành tựu quan trọng. Thời Tống, kỹ thuật đi biển có
bƣớc phát triển, thuyền mành trọng tải lớn và la bàn đƣợc sử dụng rộng rãi trong
đi biển là những điều kiện thuận lợi thúc đẩy ngƣời Hoa đi buôn bán khắp nơi
trong khu vực, nhiều ngƣời đã định cƣ ở các nƣớc Đông Nam Á.
Từ đời Nguyên (1279 -1368), những thƣơng nhân ở các vùng ven biển
miền Nam Trung Quốc nhƣ Phúc Kiến, có hoạt động thƣơng mại phát triển từ
thời Đƣờng đã nổi lên rầm rộ, không chỉ buôn bán với dân bản địa Đông Nam Á
mà còn với các nhà buôn từ Ấn Độ Dƣơng đến dƣới sự kiểm soát của ngƣời A
rập và ngƣời Ấn Độ [19, tr.27]. Do muốn duy trì hoạt động buôn bán hoặc nhiều
1

Năm 751, nhà Đƣờng giao chiến với vƣơng triều Hồi giáo Abbas ở Tây vực nhƣng thất bại, kết quả là
nhà Đƣờng phải nhừng quyền kiểm soát vùng Tây Vực cho Abbas. Không lâu sau đó, loạn An Sử (755-763) diễn
ra, triều đình nhà Đƣờng phải rút tƣớng sĩ và phòng thủ phía đông, biên cƣơng phía tây hoàn toàn bỏ trống. Nhân
cơ hội này, nƣớc Thổ Phồn đã tiến lên phía bắc, chiếm một vùng đất đai rộng lớn. Con đƣờng tơ lụa qua hành
lang phía tây Trung Quốc bị cắt đứt thành nhiều đoạn, không thể thông thƣơng. Ngoài những nguyên nhân kể
trên, thì con đƣờng tơ lụa trên bộ lúc bấy giờ có một số nhƣợc điểm khác không thể khắc phục đƣợc nhƣ: con
đƣờng tơ lụa trên bộ phụ thuộc rất nhiều vào các quốc gia, dân tộc mà nó đi qua, nếu một trong những quốc gia
đó xảy ra biến loạn hoặc xuất hiện thế lực lũng đoạn thì con đƣờng sẽ bị ngƣng trệ toàn bộ hệ thống. Điều kiện tự
nhiên của con đƣờng tơ lụa trên bộ rất khắc nhiệt, phần lớn là thảo nguyên, xa mạc... Phƣơng tiện vận chuyển
chủ yếu chỉ có lạc đà nên khối lƣợng vận chuyển hạn chế. Trên đây là những nguyên nhân mấu chốt cho sự
chuyển hƣớng của con đƣờng tơ lụa ra biển.

16


nguyên nhân khác nhau, ngƣời Hoa đã tạm trú lâu dài ở Đông Nam Á, hơn nữa

với ba lần tiến hành xâm lƣợc Đại Việt và một lần tràn xuống Inđônêxia , cũng
tạo ra đợt nhập cƣ lớn xuống Đông Nam Á. Nếu nhƣ ở thế kỷ V mới chỉ có vài
cụm dân cƣ ở phía Bắc đảo Java, thì sau những cuộc xâm lăng không thành,
những làn mạc ngƣời Hoa sinh sống lại đƣợc mọc lên ở các đảo phía Nam nhƣ
đảo Summatra, Bilinton của Inđônêxia hay nhƣ đảo Temasek của Xingapo [39,
tr.25].
Sang thời Minh (1368-1644) cũng có tham vọng đẩy mạnh chính sách
bành trƣớng xuống phía Nam. Từ năm 1405 – 1433, tƣớng Trịnh Hòa đã bảy lần
xuất dƣơng xuống vùng Đông Nam Á, đổ bộ lên khu vực này bắt đầu từ Vịnh
Thái Lan đến các đảo Sumatra, Ceylon (thuộc Inđônêxia), rồi trải rộng sang 14
nƣớc và khu vực khác, dẫn đến sự hiện diện các quần thể dân cƣ mới của ngƣời
Hoa ở hầu khắp các nƣớc trong khu vực nói trên. Bên cạnh đó, cuộc chiến tranh
xâm lƣợc do nhà Minh phát động từ năm 1418-1428 chống lại nhà nƣớc Đại
Việt và sự chiếm đóng của họ tại Việt Nam cũng tạo ra đợt di cƣ mới của ngƣời
Hoa. Đầu thế kỷ XV, hầu hết các trung tâm kinh tế và các đô thị chính của quần
đảo Malaya nhƣ thành phố Surabaya, Semarang, Surakarta, Jakarta (thuộc đảo
Java), Bukomi (hiện nay thuộc Bruney), Sembece (thuộc Saravac, phía đông
Malaixia ngày nay), Pantianak và Sukagan (thuộc Borneo, phía Tây đảo
Kalimantan ngày nay), Temasek (thuộc Xingapo) và thành phố Malacca (ở phía
Nam ban đảo Malacca) đã hình thành các cộng đồng ngƣời Hoa ổn định và
tƣơng đối vững chắc trong cơ cấu xã hội đa nguyên của Inđônêxia và Malaixia
[19, tr.29]. Cuối thế kỷ XVI, ngƣời Hoa đã di cƣ và định cƣ rất đông ở các nƣớc
Xiêm La (nay là Thái Lan), Philippin và Bruney. Ngƣời Quảng Đông sang Xiêm
La hoạt động buôn bán rất đông, quan hệ buôn bán của hai nƣớc phát triển mạnh
mẽ. Trong thời gian này ở Xiêm La đã có ―phố ngƣời Đƣờng‖. Sách ―Hải Ngữ‖
có ghi: ―Có phố sữa là có ngƣời Hoa trú ngụ‖ và sử tịch về ngƣời Hoa còn cho
17


biết, ngƣời Hoa di trú ở Thái lan nhiều nhất là ngƣời Triều Sán của Quảng Đông

và ngƣời Chƣơng Tuyền của Phúc Kiến [39, tr.26].
Ngƣời Hoa đã có mặt ở nhiều quốc gia Đông Nam Á từ khá sớm, cộng
đồng ngƣời Hoa không ngừng lớn mạnh qua những giai đoạn lịch sử. Nhƣng làn
sóng di cƣ của ngƣời Hoa ra nƣớc ngoài chỉ thực sự diễn ra mạnh mẽ, từ thế kỷ
XVII, xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn của đất nƣớc Trung Hoa.
Giữa thế kỷ XVII, lợi dụng sự suy yếu của triều đình nhà Minh, các bộ tộc
du mục Mãn Châu hợp lại thành một quốc gia hùng mạnh, từng bƣớc thôn tính
Trung Nguyên. Trƣớc sức mạnh của quân xâm lƣợc, các lực lƣợng của nhà Minh
buộc phải lui dần xuống các tỉnh phía nam, dựa vào địa bàn hiểm yếu để tiếp tục
kháng chiến. Để bình định phong trào phản kháng này, triều đình Mãn Thanh ra
lệnh di tản dân cƣ cả vùng duyên hải từ Sơn Đông đến Quảng Đông dồn vào nội
địa. Hơn nữa, sự sụp đổ của nhà Minh, đặc biệt là sau thất bại của cuộc kháng
chiến do Trịnh Thành Công lãnh đạo năm 1684, nhiều cận thần và thuộc hạ của
triều đình theo đƣờng biển phiêu bạt về phƣơng nam. Điển hình là nhóm ngƣời
Hoa bao gồm 3000 ngƣời vƣợt biển chạy xuống Quảng Nam của Việt Nam vào
năm 1678 do Dƣơng Ngạn Địch và Trần Thƣợng Xuyên chỉ huy, đƣợc chúa
Nguyễn cho định cƣ ở vùng Biên Hòa và Mỹ Tho. Một nhóm khác thì do Dƣơng
Mạc Can dẫn đầu 4.000 ngƣời vƣợt biển vào vùng đất Hà Tiên của Việt Nam và
Campot của Campuchia. Họ đã biến nơi này thành những trung tâm buôn bán
sầm uất, đồng thời còn trở thành điểm truyền bá văn hóa phƣơng Đông ở Việt
Nam và Campuchia [21, tr.125-126]. Dƣới sự tác động của hoạt động buôn bán
tƣ nhân và sự gia tăng của số lƣợng lớn dân nhập cƣ từ Trung Quốc, ở khu vực
miền Bắc và miền Trung Việt Nam đã xuất hiện các quần thể dân Trung Hoa di
cƣ, sống tƣơng đối ổn định và thƣờng xuyên nhƣ Phố Hiến (thuộc trung tâm
đồng bằng Bắc Bộ), Hội An (thuộc trung tâm ven biển miền Trung). Sự định cƣ,
sinh sống, buôn bán của ngƣời Hoa di cƣ kể cả các thƣơng nhân Nhật Bản và Âu
18


Châu đã biến hai địa điểm này trở thành trung tâm buôn bán sầm uất của Việt

Nam thế kỷ XVII – XVIII.
Cuộc di cƣ của ngƣời Trung Hoa ra nƣớc ngoài cuối thế kỷ XVII chủ yếu
là vì lý do chính trị. Nhƣng sang đầu thế kỷ XIX, một làn sóng di cƣ mới lại nổi
lên, lần này lý do chủ yếu là vấn đề kinh tế. Sau hơn một thế kỷ cai trị với những
hoàng đế đầu tiên nhƣ Thuận Trị (1644-1661), Khang Hy (1662-1722), Ung
Chính (1723-1735), Càn Long (1736-1795) chăm lo việc nƣớc, nền kinh tế
Trung Hoa đƣợc phục hồi và phát triển. Nhƣng rồi, những hoàng đế sau Càn
Long lại đi theo vết xe cũ của chế độ chuyên chế, càng ngày càng xa dân, suy
đồi, phần lớn tầng lớp quan lại chỉ lo vun vén cho lợi ích cá nhân… tình trạng
này đã đẩy đất nƣớc đi xuống, gây ra những mâu thuẫn xã hội trầm trọng. Bên
cạnh đó, những cuộc chiến tranh xâu xé của các cƣờng quốc phƣơng Tây càng
làm cho nền kinh tế Trung Hoa kiệt quệ, nông dân bị phá sản phải bỏ làng ra đi,
thợ thủ công thất nghiệp trở thành kẻ ăn xin. Trƣớc tình hình kinh tế suy thoái,
chính trị- xã hội đất nƣớc ngột ngạt, nhiều ngƣời Hoa tìm cách ra nƣớc ngoài để
tìm kế sinh nhai và cuộc sống tự do hơn.
Trên con đƣờng chinh phục châu Á, các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây thiết lập
nên một hệ thống các thƣơng điếm dọc ven biển Đông Nam Á và Đông Bắc Á,
từ Malacca tới Macao, Nagasaki v.v. trong một thời gian ngắn, các hải cảng này
phát triển nhanh chóng thành những cảng thị, trung tâm thƣơng mại. Với kinh
nghiệm thƣơng trƣờng, ngƣời Hoa tham gia tích cực vào hoạt động thƣơng mại
khu vực. Họ đến đây bằng thuyền nhỏ, thuyền lớn, tàu buôn, đem theo cả gia
đình, kéo đi cả làng. Từ các hải cảng, thành phố lớn đến các làng quê đều có mặt
của thƣơng nhân ngƣời Hoa, họ vừa hợp tác vừa cạnh tranh mạnh mẽ với thƣơng
nhân nhân ngoại quốc. Ngoài ra, còn có một bộ phận ngƣời Hoa làm công nhân
cạo mủ ở các đồn điền cao su, làm thợ mỏ, phu bốc vác, buôn hàng chuyến, thu
mua gạo, đóng thuyền.
19


Thế kỷ XIX-XX, phạm vi di cƣ của ngƣời Hoa mở rộng hơn trƣớc. Không

gian cƣ trú của ngƣời Hoa không chỉ là các nƣớc châu Á mà bao gồm những
vùng đất mới nhƣ châu Mỹ, châu Úc, châu Âu. Thực tế này diễn ra bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân khác nhau.
1.2. Nguyên nhân thúc đẩy ngƣời Hoa di cƣ ra nƣớc ngoài thế kỷ
XIX-XX
* Nguyên nhân kinh tế
Đến thế kỷ XIX, cũng giống nhƣ nhiều quốc gia phƣơng Đông khác,
Trung Hoa vẫn là nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, nông nghiệp là chính, năng suất
lao động thấp kém. Các ngành nghề không những không đƣợc mở rộng mà còn
có xu hƣớng giảm sút. Hàng hóa phƣơng Tây thâm nhập vào Trung Hoa khiến
cho hàng hóa của Trung Hoa càng trở nên ế ẩm. Trong so sánh với các nƣớc tƣ
bản Âu, Mỹ, những hạn chế này càng bộc lộ rõ hơn. Kinh tế Trung Hoa là một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, ngƣợc lại kinh tế của các nƣớc tƣ bản Âu, Mỹ
là nền kinh tế công nghiệp đang trên đà phát triển.
Trong khi đó, dân số gia tăng tạo thêm những áp lực xã hội mới. Nếu nhƣ
cuối thế kỷ XVII, dân số Trung Hoa chỉ vƣợt qua 100 triệu ngƣời thì đến đầu thế
kỷ XIX đạt tới 300 triệu ngƣời, những năm 1850 đã vƣợt qua 400 triệu ngƣời
[55, tr.27]. Điều không thể tránh khỏi là, dân số quá đông gây ra tình trạng thiếu
đất canh tác. Thậm chí, ngay cả những năm đƣợc mùa, Trung Hoa vẫn phải nhập
khẩu gạo từ nƣớc ngoài. Ở tỉnh Quảng Đông, sản lƣợng lƣơng thực làm ra chỉ đủ
cung cấp cho 1/3 dân số. Nông dân mở rộng diện tích canh tác bằng cách phá
rừng làm nƣơng rẫy ở vùng đồi núi và khai phá vùng gần các con sông chính.
Kết quả là đất bị rửa trôi, gây ra lũ lụt nghiêm trọng, dẫn tới đói nghèo và bệnh
tật, giết chết hàng chục triệu ngƣời [52, tr.23]. Dân số tăng nhanh, trong khi nền
kinh tế không phát triển tƣơng xứng khiến tình trạng thất nghiệp gia tăng, những
mâu thuẫn trong xã hội Trung Hoa càng trở nên gay gắt và phức tạp.
20


Có thể nói, phần lớn thời gian thế kỷ XIX –XX (trƣớc cải cách năm

1978), kinh tế Trung Quốc ở trong tình trạng lạc hậu và trì trệ. Hiện tƣợng đói
kém, bệnh tật thƣờng xuyên xảy ra. Đây là nguyên nhân chính thúc đẩy đại bộ
phận ngƣời Hoa di cƣ ra nƣớc ngoài. Cũng giống nhƣ những thời kỳ trƣớc,
nguồn gốc cƣ dân của ngƣời Hoa di cƣ chủ yếu xuất phát từ những tỉnh phía
Đông Nam Trung Quốc nhƣ Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến.
Thực tế đó xuất phát từ đặc điểm tự nhiên của vùng đất này. Nhìn chung, các
tỉnh phía Đông Nam Trung Quốc thuộc địa hình đồi núi, không thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp. Sản lƣợng nông nghiệp không cung cấp đủ nguồn lƣơng
thực thực phẩm trong cả năm, cƣ dân nơi đây thƣờng phải di cƣ và tham gia vào
các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp khác. Một cuộc khảo sát 905 gia đình ở
Quảng Đông và Phúc Kiến vào năm 1940 chỉ ra rằng: 70% họ rời khỏi đất nƣớc
vì không có việc làm hoặc vì thu nhập của gia đình không đảm bảo mặc dù tất cả
các thành viên trong gia đình đều có việc làm; khoảng 20% ngƣời Hoa ra đi vì
họ có mối liên hệ từ trƣớc [55, tr.27]. Kết quả khảo sát này đã khẳng định mục
tiêu kinh tế là nguyên nhân chính của ngƣời Hoa di cƣ ở cuối thế kỷ XIX.
Bên cạnh lý do di cƣ do đời sống kinh tế thấp kém ở trong nƣớc, ngƣời
Hoa còn tự nguyện di cƣ ra nƣớc ngoài để tìm kiếm cơ hội làm ăn mới. Giống
nhƣ các thế kỷ trƣớc, nhiều ngƣời Hoa đã mạnh dạn rời bỏ quê hƣơng đến các
vùng đất mới sinh sống, đặc biệt là đến khu vực Đông Nam Á. Trên thực tế,
Đông Nam Á là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Hơn nữa, đây
còn cầu nối giữa hai nền văn minh, hai nền kinh tế lớn của thế giới là Ấn Độ và
Trung Hoa, rộng lớn hơn là giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây. Vì vậy, trong
hầu hết các giai đoạn, ngƣời Hoa luôn coi Đông Nam Á là ―miền đất hứa‖. Đó
cũng là nguyên nhân thúc đẩy không chỉ những ngƣời Hoa nghèo khổ mà cả
những ngƣời Hoa giàu có di cƣ.

21


Không chỉ dừng lại ở khu vực Đông Nam Á, ngƣời Hoa còn tự nguyện di

cƣ tới châu Mỹ, châu Đại Dƣơng, châu Âu, châu Phi để tìm kiếm những cơ hội
làm ăn mới. Từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách năm 1978, ngƣời Hoa di cƣ
mạnh mẽ sang nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Kinh tế phát triển, xu thế
hội nhập, hợp tác kinh tế diễn ra, nhiều cá nhân, doanh nghiệp ngƣời Hoa đã
mạnh dạn di cƣ ra nƣớc ngoài, họ sẵn sàng tới bất cứ nơi đâu nếu nhƣ nơi đó có
điều kiện phát triển hơn trong nƣớc, hoặc điều kiện mở rộng hợp tác kinh doanh.
Nhƣ vậy, có thể nói rằng, nguyên nhân kinh tế là một trong những lý do
cơ bản thúc đẩy ngƣời Hoa di cƣ ra nƣớc ngoài. Ngƣời Hoa di cƣ để tìm một
cuộc sống mới, cơ hội mới ở nƣớc ngoài tốt đẹp hơn ở trong nƣớc. Về tính chất,
ngƣời Hoa di cƣ vừa có tính chất ép buộc vừa có tính chất tự nguyện. Tính chất
ép buộc hay tự nguyện nhiều khi đan xen, hòa quyện với nhau khó có thể phân
biệt rõ ràng. Nhiều trƣờng hợp trên hình thức mang tính chất tự nguyện nhƣng
thực tế lại có tính chất ép buộc. Tuy nhiên, nhìn chung trƣớc khi cải cách năm
1978, tính chất ép buộc nổi bật hơn, sau năm 1978, tính chất tự nguyện nổi bật
hơn.
*Nguyên nhân chính trị
Cũng giống nhƣ thời kỳ trƣớc nguyên nhân di cƣ của ngƣời Hoa chủ yếu
về vấn đề chính trị, chính trị bất ổn là một trong những nguyên nhân quan trọng
dẫn đến di dân của ngƣời Hoa, trong đó những cuộc chiến tranh liên tiếp là
nguyên nhân quan trọng dẫn đến những cuộc di cƣ của ngƣời Hoa.
Thế kỷ XIX, Trung Quốc đặt dƣới quyền cai trị của nhà Thanh. Sau một
thời kỳ phát triển mạnh mẽ (cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII), triều đình nhà
Thanh trở nên bảo thủ, tầng lớp quan lại thoái hóa biến chất, ít quan tâm tới đời
sống của nhân dân, phần lớn chỉ lo vun vén cho lợi ích cá nhân, để đất nƣớc rơi
vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội. Những cuộc khởi nghĩa chống phong kiến
không ngừng nổ ra. Trong những năm 1841-1849 có 110 cuộc khởi nghĩa của
22



×