Tải bản đầy đủ (.doc) (161 trang)

Phản tỉnh và triết luận trong tiểu thuyết Thượng Đế Thì Cười của Nguyễn Khải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.4 KB, 161 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN HỒ DIỄM PHỤNG

PHẢN TỈNH VÀ TRIẾT LUẬN
TRONG TIỂU THUYẾT THƯỢNG ĐẾ THÌ CƯỜI
CỦA NGUYỄN KHẢI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


2

NGHỆ AN - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN HỒ DIỄM PHỤNG

PHẢN TỈNH VÀ TRIẾT LUẬN
TRONG TIỂU THUYẾT THƯỢNG ĐẾ THÌ CƯỜI
CỦA NGUYỄN KHẢI
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60.22.32

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:



PGS. TS. PHAN HUY DŨNG


4

NGHỆ AN - 2013


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU...........................................................................................................7
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................8
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát..................................11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................11
6. Đóng góp của luận văn............................................................................11
7. Cấu trúc của luận văn..............................................................................12
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHẢI VÀ VỊ TRÍ
CỦA TIỂU THUYẾT THƯỢNG ĐẾ THÌ CƯỜI..........................................13
1.1. Những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Khải...................13
1.1.1. Thấm đượm nhiệt tình công dân....................................................13
1.1.2. Sắc sảo trong việc phát hiện và nêu lên các vấn đề bức thiết của
đời sống...................................................................................................16
1.1.3. Có màu sắc chính luận và triết luận .............................................23
1.2. Về sự ra đời của tiểu thuyết Thượng đế thì cười..................................29
1.2.1. Bối cảnh chính trị - xã hội.............................................................29
1.2.2. Tình hình văn học..........................................................................30

1.2.3. Những khó khăn trong việc xuất bản Thượng đế thì cười.............33
1.3. Thượng đế thì cười - tác phẩm mang tính chất tổng kết một đời văn. .38
1.3.1. Tự đánh giá của Nguyễn Khải về Thượng đế thì cười..................38
1.3.2. Tính tự thuật của Thượng đế thì cười............................................39
1.3.3. Sự gần gũi về tư tưởng và nghệ thuật giữa Thượng đế thì cười với
cụm tác phẩm cuối đời............................................................................44
Chương 2
PHẢN TỈNH VÀ TRIẾT LUẬN VỀ CÁC VẤN ĐỀ
XÃ HỘI - NHÂN SINH TRONG THƯỢNG ĐẾ THÌ CƯỜI........................53
2.1. Giới thuyết một vài khái niệm..............................................................53
2.1.1. Phản tỉnh........................................................................................53
2.1.2. Triết luận và triết luận dựa trên nền tảng phản tỉnh......................58
2.2. Phản tỉnh và triết luận về bản chất của thể chế, cơ chế........................61
2.2.1. Về niềm tin đối với thể chế, cơ chế ..............................................61
2.2.2. Về logic tồn tại của thể chế, cơ chế...............................................70
2.2.3. Về những phi lý của thể chế, cơ chế..............................................74
2.3. Phản tỉnh và triết luận về bi kịch của con người cá nhân ....................80


6
2.3.1. Về ảo tưởng từng có của con người cá nhân.................................80
2.3.2. Về sự khó dung hòa của cá nhân với những bảng giá trị mang tính
tập thể......................................................................................................88
2.3.3. Về điều kiện và cơ hội khẳng định mình của con người cá nhân..94
2.4. Phản tỉnh và triết luận về tôn giáo........................................................99
2.4.1. Về chính sách đối với tôn giáo......................................................99
2.4.2. Về kiểu tồn tại đặc thù của tôn giáo trong không gian xã hội chủ
nghĩa......................................................................................................102
2.4.3. Về nhận thức của chính bản thân đối với tôn giáo......................104
Chương 3

PHẢN TỈNH VÀ TRIẾT LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT
TRONG THƯỢNG ĐẾ THÌ CƯỜI..............................................................113
3.1. Phản tỉnh và triết luận về vai trò, chức năng của nhà văn đối với đời
sống - xã hội .............................................................................................113
3.1.1. Về vai trò, chức năng của nhà văn khi đất nước có chiến tranh..113
3.1.2. Về vai trò, chức năng của nhà văn khi đất nước bước sang thời kỳ
phát triển mới........................................................................................117
3.1.3. Về thực chất của vị trí nhà văn trong xã hội và trong một cơ chế
nhiều ràng buộc.....................................................................................123
3.2. Phản tỉnh và triết luận về trách nhiệm của nhà văn đối với tác phẩm
của mình....................................................................................................128
3.2.1. Về mức độ trung thực với chính mình trong sáng tác.................128
3.2.2. Về trách nhiệm hiển nhiên đối với những thiếu sót trong sáng tác
...............................................................................................................133
3.2.3. Về vị trí đích thực trong nền văn học của những tác phẩm do mình
sáng tạo nên...........................................................................................137
3.3. Phản tỉnh và triết luận về bút pháp nghệ thuật...................................142
3.3.1. Về việc cần thiết phải có bút pháp riêng.....................................142
3.3.2. Về việc đổi mới bút pháp............................................................145
3.3.3. Về việc ý thức được sở trường, sở đoản của bản thân................149
KẾT LUẬN...................................................................................................154
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................157


7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hơn 50 năm lao động nghệ thuật miệt mài, bằng tất cả tâm trí,
Nguyễn Khải đã để lại cho đời nhiều tác phẩm lớn thuộc nhiều thể loại văn
xuôi. Đến với tác phẩm Nguyễn Khải, người đọc luôn bị hấp dẫn bởi sự thông

minh, sắc sảo, tỉnh táo, lạnh lùng trong phương thức tiếp cận đời sống. Sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải phản ánh quá trình không ngừng nhận thức
khám phá chính bản thân và thể hiện những vấn đề xã hội nhân sinh bằng
giọng văn mang đậm tính triết luận. Nguyễn Khải vinh dự nhận nhiều giải
thưởng về văn học. Tài năng, cái tâm nghề nghiệp có thể giúp nhà văn vươn
xa hơn nữa nếu không bị ràng buộc bởi những yếu tố khách quan của hoàn
cảnh sáng tạo.
1.2. Nguyễn Khải xuất sắc hơn cả ở thể loại tiểu thuyết. Thành công
đầu tiên là Xung đột (Phần 1), sau đó là Ra đảo (1970), Đường trong mây
(1970), Chiến sĩ (1973), Cha và Con và… (1979), Gặp gỡ cuối năm (1982),
Thời gian của Người (1985), Điều tra về một cái chết (1986), Một cõi nhân
gian bé tí (1989) và cuối cùng là Thượng đế thì cười (2003). Đọc các tác
phẩm của Nguyễn Khải nói chung và các tiểu thuyết nói riêng, chúng ta dễ
dàng nhận thấy quá trình trưởng thành không ngừng của một tài năng, sự vận
động liên tục nhằm hoàn thiện hơn cảm hứng triết luận và không ngừng soi
ngắm, nhìn nhận lại chính mình, để tạo nên những tác phẩm có giá trị. Riêng
tiểu thuyết Thượng đế thì cười mang ý nghĩa to lớn đối với cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Khải. Tác phẩm nhìn bề ngoài như một hồi ức về
cuộc đời viết văn của ông, nhưng ẩn sâu bên trong lại như “tiểu thuyết luận
đề”. Trong Thượng đế thì cười tác giả đã có dịp “nhìn thẳng vào một thời đã
đi qua”, đánh giá lại những cái được và chưa được, những cái thành công và


8
chưa thành công của những “đứa con tinh thần”, cũng như chính bản thân tác
giả. Và xuyên suốt cuốn tiểu thuyết là cảm hứng phản tỉnh và khuynh hướng
triết luận.
1.3. Có thể nói triết luận là khuynh hướng phát triển nổi bật của văn
học Việt Nam từ những năm 1986 trở về sau, khi các nhà văn quan tâm nhiều
hơn đến các vấn đề thế sự nhân sinh, đạo đức, nhân bản. Tiêu biểu là các tác

giả như Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Lê Lựu… Đặc
biệt, Nguyễn Khải là tác giả kiên trì nhất trên hành trình tìm bản ngã và khẳng
định phong cách triết luận của mình. Thượng đế thì cười là cuốn tiểu thuyết
cuối cùng khẳng định một cách toàn diện, sâu sắc cuộc đời và quan niệm sáng
tác của Nguyễn Khải. Nhằm nhìn nhận, đánh giá đầy đủ nhất về cuộc đời,
quan niệm triết lý nhân sinh của ông, chúng tôi chọn đề tài: Phản tỉnh và triết
luận trong tiểu thuyết Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Các công trình và bài viết nghiên cứu chung về Nguyễn Khải
Năm 1977 trong cuốn Tác gia văn xuôi Việt Nam hiện đại (Từ sau
1945), tác giả Chu Nga với bài Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Khải, đánh giá
rất cao những tác phẩm Nguyễn Khải viết về nông thôn. Ông còn khẳng định
ngòi bút Nguyễn Khải “Thông minh, sâu sắc, giàu tính chiến đấu, (...), luôn
đòi hỏi cao với bản thân và mọi người” [61].
Phan Cự Đệ năm 1983 trong công trình Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975
(tập 2) đã tổng hợp và đánh giá các tác phẩm trong 30 năm sáng tác của
Nguyễn Khải. Tác giả biểu dương ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Nguyễn
Khải và cho rằng đó là phong cách độc đáo.
Năm 1990, tác giả Đoàn Trọng Huy trong giáo trình Văn học Việt Nam
1945 - 1975 đã chỉ ra phong cách chính luận chính là nét mới của sáng tác
Nguyễn Khải.


9
Vương Trí Nhàn trong Tuyển tập Nguyễn Khải cuối năm 1996 đã viết
những dòng thực sự “tri âm” với Nguyễn Khải. Ông đặt Nguyễn Khải vào
tiến trình văn học cách mạng qua nửa thế kỉ với những biến động dữ dội của
lịch sử và đời sống xã hội. Cùng hướng tiếp cận đó, tác giả Bích Thu trong
bài Nguyễn Khải: một đời văn gắn bó với thời đại và dân tộc, đã khẳng định
những đóng góp to lớn của Nguyễn Khải cho nền văn học nước nhà. Ngoài ra

còn rất nhiều công trình nghiên cứu về các sáng tác của Nguyễn Khải đem
đến một cái nhìn đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp của tác giả.
2.2. Các công trình nghiên cứu riêng về tiểu thuyết Nguyễn Khải và
Thượng đế thì cười
Trong Nhìn lại một chặng đường tiểu thuyết (1977), tác giả Nguyễn
Văn Long đã ghi nhận công lao to lớn của Nguyễn Khải: “Là người mở
đường cho khuynh hướng mới - đó là khuynh hướng tiểu thuyết triết luận”.
Tác giả đã đưa ra ba tiêu chí để nhận diện: một là căn cứ vào nội dung mang
tính thời sự - luận đề; hai là tiểu thuyết Nguyễn Khải không chú trọng khắc
họa tính cách nhân vật; ba là cùng một khuynh hướng nhưng cách viết có sự
đổi mới nhất định.
Năm 1985, Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Về một xu hướng tiểu thuyết
đang phát triển khẳng định Nguyễn Khải là một trong những cây bút xuất sắc
mở ra xu hướng mới - xu hướng tiểu thuyết chính luận - triết luận.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã xem Cha và con và... là một công
trình “Triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội bằng ngôn ngữ tự sự” (Văn
nghệ số ra ngày 29/3/1980).
Năm 2001, trong luận án tiến sĩ với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn
Khải, tác giả Trần Văn Phương cho rằng nội dung sáng tác của Nguyễn Khải
là sự tổng hợp yếu tố chính luận và triết luận. Yếu tố triết luận thể hiện ở lối
tiếp cận hiện thực đa diện, nhiều chiều chịu ảnh hưởng của tư duy triết học,


10
hơn nữa hiện thực đời sống còn được khai thác ở chiều sâu triết lý trải qua
quá trình chiêm nghiệm sâu sắc của bản thân về mọi mặt đời sống. Ngoài ra
tiểu thuyết Nguyễn Khải trở thành đối tượng cho rất nhiều công trình nghiên
cứu trên cả nước.
Năm 2002, tiểu thuyết Thượng đế thì cười ra đời, in liên tiếp ba kì trên
báo Văn nghệ và sau đó xuất bản thành sách, được rất nhiều bạn đọc và giới

nghiên cứu phê bình quan tâm. Tiêu biểu như bài phê bình “Trở lại cái thời
lãng mạn” đăng trên báo Văn nghệ (8 - 2004) của nhà nghiên cứu Vương Trí
Nhàn. Bài viết có cái nhìn tương đối toàn diện về Thượng đế thì cười. Trong
đó, tác giả đã giới thiệu khá chi tiết về nội dung câu chuyện cũng như trình
bày những đánh giá của mình về tiểu thuyết góp phần quan trong trọng việc
định hướng tiếp nhận tác phẩm cho độc giả và hơn nữa còn mở ra hướng tiếp
cận mới cho các tác phẩm văn học sau này.
Ngoài ra, còn một số bài phỏng vấn, bài viết đăng trên các báo như bài
“Nhà văn Nguyễn Khải và cuốn tiểu thuyết cuối cùng” đăng trên báo An ninh
thế giới. Trong bài trả lời phỏng vấn này, Nguyễn Khải đã bộc bạch tâm tư,
thố lộ đôi chút về nội dung tác phẩm, cũng như tự nhận đây là tác phẩm cuối
cùng của đời mình. Nhà văn Hà Đình Cẩn có bài viết “Kỉ niệm nhỏ, khi lần
đầu tiên xuất hiện tác phẩm Thượng đế thì cười”. Tác giả Huy Giang cũng có
bài viết về “Thượng đế thì cười”. Nhìn chung những bài viết này đã trình bày
những nét vẽ đầu tiên về tác phẩm và nhìn nhận tác phẩm như một hồi ký - tự
truyện, một tác phẩm mang giá trị tổng kết, giúp người đọc có sự hình dung
về tác phẩm và dễ dàng hơn trong việc bắt đầu hành trình khám phá nội dung
tư tưởng của tác phẩm.
Trên cơ sở tiếp thu những gợi ý quý báu của những công trình nghiên
cứu trước đây, chúng tôi thực hiện đề tài Phản tỉnh và triết luận trong tiểu
thuyết Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, với mục đích mang đến cái


11
nhìn toàn diện về Thượng đế thì cười - cuốn tiểu thuyết cuối cùng của
Nguyễn Khải.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Phản tỉnh và triết luận trong tiểu
thuyết Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải.

3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi chủ yếu khảo sát cuốn tiểu thuyết
Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, ngoài ra có khảo sát thêm một số sáng
tác khác của Nguyễn Khải cũng như của nhiều nhà văn Việt Nam đương đại
để có tư liệu so sánh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đưa lại cái nhìn tổng quan về sáng tác của Nguyễn Khải và tầm
quan trọng của tiểu thuyết Thượng đế thì cười.
4.2. Tìm hiểu, đánh giá sự phản tỉnh và triết luận của Nguyễn Khải về
các vấn đề xã hội - nhân sinh trong tiểu thuyết Thượng đế thì cười.
4.3. Tìm hiểu, đánh giá sự phản tỉnh và triết luận của Nguyễn Khải về
nghệ thuật trong tiểu thuyết Thượng đế thì cười.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp
sau: phương pháp hệ thống - cấu trúc; phương pháp loại hình; phương pháp
phân tích - tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp miêu tả.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở đi sâu tìm hiểu quá trình tự nhận thức và những triết luận về
cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Khải trong tiểu thuyết Thượng đế thì cười,
luận văn giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về văn nghiệp Nguyễn Khải
cũng như có được hiểu biết thấu đáo hơn đối với một thời văn học không ít
phức tạp và bi kịch.


12
7. Cấu trúc của luận văn
Tương ứng với các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài Mở đầu, Kết
luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai qua
3 chương.
Chương 1: Tổng quan về sáng tác của Nguyễn Khải và vị trí của tiểu

thuyết Thượng đế thì cười.
Chương 2: Phản tỉnh và triết luận về các vấn đề xã hội - nhân sinh
trong Thượng đế thì cười.
Chương 3: Phản tỉnh và triết luận về nghệ thuật trong Thượng đế
thì cười.


13
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHẢI VÀ VỊ TRÍ
CỦA TIỂU THUYẾT THƯỢNG ĐẾ THÌ CƯỜI
1.1. Những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Khải
1.1.1. Thấm đượm nhiệt tình công dân
Nguyễn Khải (1930 - 2008) là nhà văn quân đội, trưởng thành trong
thời kì kháng chiến chống Pháp. Hơn nửa thế kỉ lao động nghệ thuật miệt mài,
ông đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà. Quá trình sáng
tác văn học luôn của ông gắn liền với các giai đoạn phát triển của cách mạng
và sự biến đổi của lịch sử xã hội. Tuổi thơ Nguyễn Khải phải chịu nhiều vất
vả, thiếu thốn tình cảm, phải chịu sự ghẻ lạnh, khinh khi của chính người cha
ruột và họ hàng bên nội (ông là con vợ lẽ của một quan tri huyện). Ý thức
được vị trí, thân phận của mình trong xã hội phong kiến và điều kiện khó có
thể làm người một cách đường hoàng, Nguyễn Khải đến với cách mạng bằng
tâm trạng hồ hởi. Cách mạng chính là chỗ dựa tinh thần và thực tế cuộc sống
chiến đấu chính là trường dạy viết văn cho ông. Đảng, cách mạng đã đem đến
niềm tin, giúp ông vượt qua những ám ảnh của tuổi thơ, hòa mình vào công
cuộc chiến đấu, xây dựng đất nước bằng tất cả tài năng và tâm huyết.
Ngay từ khi bước chân vào văn đàn Nguyễn Khải đã ý thức rõ vai trò
trách nhiệm của một nhà văn, nhất là lúc đất nước đang có chiến tranh. Ông
có niềm tin mãnh liệt vào việc lấy văn học làm vũ khí chiến đấu, góp phần
dựng xây cuộc sống mới, nên đã hăng hái dấn thân để viết, để phản ánh từng

hơi thở của nhân dân, đất nước. Dù ở đề tài nào, thể loại nào nhà văn cũng có
những tác phẩm sâu sắc, được người đọc đón nhận. Tuy Nguyễn Khải không
có những tuyên ngôn nghệ thuật như Nam Cao, nhưng ở ông, độc giả vẫn
nhận ra một nhà văn thật sự có tài và luôn ý thức sâu sắc về bổn phận, nghề


14
nghiệp của mình. Ông khao khát “viết được một cuốn sách mà tầm nghĩ, tầm
nhìn của tác giả còn khiến bạn đọc của hôm nay và mai sau phải sững sờ
không chỉ vắt kiệt một đời văn mà còn phải vắt kiệt tinh hoa của cả một thời
nữa” [47, tr 432]. Là nhà văn có ý thức và trách nhiệm với thời đại, với xã hội
và với cảm quan nhạy bén của mình, Nguyễn Khải luôn cảm nhận được yêu
cầu đặt ra đối với cuộc sống và những vấn đề thiết yếu của từng giai đoạn
cách mạng nên thường chọn cho mình những mảng đề tài mang tính chất thời
sự nóng bỏng. Cả cuộc đời lao động bền bỉ, say mê, sợ đi theo lối mòn của
chính mình, ông đã cho ra những đứa con tinh thần hấp dẫn, mới mẻ và độc
đáo. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Tuyết Nga đã đánh giá: “Nguyễn Khải là
nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học đương đại. Tác phẩm của ông phản
ánh một cách kịp thời, sâu sắc hiện thực lịch sử, cũng như đời sống tinh thần
của con người thời đại. Văn của ông luôn hấp dẫn mới mẻ, độc đáo. Các tác
phẩm của ông không chỉ đánh dấu những bước đi của đời sống hiện thực mà
còn của cả những trăn trở tìm tòi của nhà văn trên con đường sáng tạo” [63,
tr.11]. Khởi nghiệp từ năm 1950, với sức viết đều đặn, ở mỗi giai đoạn
Nguyễn Khải đều cho ra đời những đứa con tinh thần được chắt lọc từ nhãn
quan tinh tế và ý thức sâu sắc về bổn phận con người, nhất là bổn phận của
một nhà văn. Lúc cả đất nước hòa mình vào công cuộc chiến đấu “quyết tử
cho tổ quốc quyết sinh”, tác phẩm của Nguyễn Khải mang đến cho người đọc
âm hưởng hào hùng và khí thế chiến đấu, chiến thắng, tiêu biểu như truyện
ngắn Xây dựng (1951), Người con gái quang vinh (1956), Xung đột (phần I 1959). Xung đột là tác phẩm đánh dấu tài năng, sự trưởng thành của một cây
bút trẻ. Trong một lần tả lời phỏng vấn trên báo Văn nghệ tác giả có nói: “Với

“Xung đột”, tôi bắt đầu ý thức về chức năng người cầm bút và thực sự bước
vào con đường viết truyện”. Đến với những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, Nguyễn Khải lao vào phản ánh cuộc sống lao động chiến đấu


15
đầy khẩn trương và sôi nổi với những con người mới như Huân, Đào trong
Mùa Lạc (1960); với công cuộc cải cách ruộng đất và phong trào hợp tác hóa
nông thôn những năm 60 ông có những tác phẩm như Một chặng đường
(1962), Hãy đi xa hơn nữa (1963), Người trở về (1964)... Đối với Nguyễn
Khải cuộc sống chiến đấu sôi nổi, hào hùng chính là mảnh đất màu mỡ cần
khai phá. Khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc, Nguyễn
Khải hăng hái xung phong đi vào những nơi nóng bỏng và nguy hiểm để tìm
hiểu và viết những trang văn đầy nhiệt huyết. Đến với các chiến sĩ ở đảo Cồn
Cỏ - vị trí đầu sóng ngọn gió canh giữ biển trời Tổ quốc -, thiên ký sự Họ
sống và chiến đấu ra đời. Đến với chiến trường Trường Sơn cực kỳ ác liệt,
ông có Đường trong mây. Đến với đất Vĩnh Linh, ông viết Ra đảo. Đi tham
gia chiến dịch đường Chín - Nam Lào, ông viết Chiến sĩ. Và khi tham gia
chiến dịch giải phóng miền Nam, ông viết tác phẩm Tháng ba ở Tây Nguyên.
Chặng đường 10 năm sau ngày thống nhất đất nước, xã hội ta có nhiều
biến động, con người có sự đấu tranh tư tưởng gay gắt giữa cái mới và cái cũ.
Đó cũng là lúc cần nhiều thời gian để nghiền ngẫm và suy tư về quá khứ và
tương lai. Trong thời điểm đó Nguyễn Khải đã viết Cách mạng, Gặp gỡ cuối
năm, Thời gian của người, Cha và Con và... - những tác phẩm mang cái nhìn
thâm trầm về con người và hiện thực cuộc sống bấy giờ. Năm 1986 đất nước
ta bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, các quan hệ xã
hội và quan niệm cuộc sống vận động, biến đổi theo để phù hợp với xu thế tất
yếu. Trong khi một số nhà văn khác lúng túng không tìm ra được cảm hứng,
đề tài sáng tác thì Nguyễn Khải có dịp đi đến những vùng đất của ngày xưa để
tìm hiểu, khám phá. Ông đã mạnh dạn và thành công trên những sáng tác của

mình về những vấn đề mới “vấn đề của hôm nay”, thể hiện những trăn trở,
chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống. Với các tác phẩm như Vòng sóng đến vô
cùng, Tôi và bọn hắn, Cái thời lãng mạn, Điều tra về một các chết (1986),


16
Một cõi nhân gian bé tí (1989) và đặc biệt là Thượng đế thì cười (2003), tác
phẩm độc đáo cả về nội dung lẫn nghệ thuật thể hiện, nó mang giá trị tổng kết
một đời văn.
Nguyễn Khải từng cho rằng “tác phẩm văn học là một mảnh của đời
sống chung, phải tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh cho sự nghiệp chung”,
với ý thức đó suốt cuộc đời sáng tác của mình Nguyễn Khải chưa bao giờ
quên đi trách nhiệm và bổn phận của mình đối với thời đại, với nhân dân, với
đất nước và với chính những tác phẩm do mình sáng tạo ra. Luôn ý thức sâu
sắc về mối quan hệ giữa hiện thực và nhiệm vụ chính trị, luôn nhìn cuộc sống
trong sự biến đổi, đầy bí ẩn, phải đi sâu tìm hiểu thì mới có thể nắm bắt được.
Chính những yếu tố đó đã góp phần tạo nên một Nguyễn Khải sắc sảo, giỏi
phát hiện và xứng đáng là “nhà văn tài năng nhất của thế hệ chúng tôi”
(Nguyên Ngọc).
1.1.2. Sắc sảo trong việc phát hiện và nêu lên các vấn đề bức thiết
của đời sống
Có nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn Khải là Balzac của Việt Nam. Các
tác phẩm của ông không ghi lại cuộc sống một cách công thức, máy móc mà
đi vào khám phá bản chất của cuộc sống, với những cái ngổn ngang, phức tạp
vốn có của nó. Là nhà văn có ý thức cao về sự tìm tòi, phát hiện, sáng tạo,
Nguyễn Khải luôn đặt ra nhiệm vụ cho ngòi bút của mình là phải bám sát hiện
thực, đi sâu vào mọi khía cạnh đời sống với những biến thái tâm lý phức tạp
của con người. Nhà văn đã từng bước khẳng định nét phong cách riêng độc
đáo, một “phong cách hiện thực tỉnh táo” (Phan Cự Đệ) trong phát hiện, hay
“phong cách chính luận sắc sảo” (Nguyễn Văn Hạnh), luôn nêu lên các vấn

đề bức thiết của đời sống, chú trọng đến những vấn đề thời sự, chính luận, đi
sâu phân tích đời sống tâm lý, tâm hồn nhân vật, và bằng một giọng điệu văn
chương đậm chất triết lý, tranh biện, đối thoại.


17
Trước 1975, với ý thức dùng văn học cổ vũ cho cuộc chiến chính nghĩa
của dân tộc, Nguyễn Khải đã tìm đến những nơi chiến tranh diễn ra sôi nổi để
quan sát, nghiền ngẫm và sáng tác. Tiểu thuyết Xung đột I (1959) là kết quả
của chuyến đi thực tế vùng đạo gốc, ở huyện Hải Hậu, Nam Định, vào cuối
năm 1956, khi Đảng ta tiến hành sửa sai trong cải cách ruộng đất và bắt đầu
cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp. Xung đột đã minh chứng cho khả
năng nhạy bén trong phát hiện vấn đề của Nguyễn Khải. Ông đã đem đến cho
người đọc những trang văn hấp dẫn với những mâu thuẫn, căng thẳng khó có
thể điều hòa được ở vùng quê theo đạo Thiên chúa giáo, với những hành động
chống phá cách mạng điên cuồng của những kẻ phản động đội lốt tôn giáo.
Đó là cuộc chiến của Môn, Thụy, Nhàn... chống lại các thế lực phản động như
cha Vinh, tu sĩ Thịnh, vợ chồng Quảng,... một cuộc chiến mang tầm vóc thời
đại. Tác phẩm thể hiện một lối văn phân tích sắc sảo của Nguyễn Khải nhất là
khả năng nhìn nhận và phân tích sự phát triển tính cách nhân vật theo đúng
bản chất của người nông dân, theo sự phức tạp của tâm lý, chứ không theo sự
sắp xếp chủ quan của nhà văn. Xung đột được đáng giá rất cao và còn được
xem là tác phẩm tôn giáo sớm nhất trong văn xuôi cách mạng Việt Nam, tác
phẩm “mang đến một luồng không khí lành mạnh cho văn học những năm
1956 - 1957” (Phan Cự Đệ). Ngay từ thời điểm bấy giờ nhà văn đã chỉ rõ đâu
là những sai lầm trong cải cách ruộng đất, đâu là những âm mưu phá hoại của
bọn đội lốt tôn giáo. Đề tài này còn được tiếp tục thể hiện sắc sảo qua các tác
phẩm như Thời gian của người, Cha và Con và, Điều tra về một cái chết...
Nếu như ở Xung đột là bức tranh sinh động về cuộc đấu tranh đang diễn ra
gay gắt ở nông thôn ngay trong điều kiện hòa bình với sự mâu thuẫn giữa đức

tin tôn giáo và niềm tin ở lý tưởng cách mạng thì hơn hai mươi năm sau, với
Cha và Con và... Nguyễn Khải đã cho thấy sự sắc sảo của mình trong việc
phát hiện ra những vấn đề mới. Nhà văn không còn nhìn tôn giáo dưới góc độ


18
phiếm diện ta và địch, mà nhận ra rằng tôn giáo chân chính cũng phục vụ cho
cuộc sống con người, chủ trương đề cao tôn giáo vì con người. Vì vậy xu thế
tất yếu là phải hòa hợp giữa tôn giáo và cách mạng, tất cả phấn đấu cho một
mục đích tự do hạnh phúc tôn trọng con người như lời của cha Thư: “đi với
giáo hữu, tuân theo ý muốn của giáo hữu sẽ hòa hợp được tất cả, vì giáo hữu
là nền tảng, là cội nguồn. Cách mạng cũng từ đấy mà có, Hội Thánh cũng từ
đấy mà có, bổn phận của linh mục cũng từ đấy mà có”. Có thể nói các tác
phẩm Một chặng đường, Thời gian của người, Điều tra về một cái chết, Thời
gian của người… đã đem đến cho người đọc cái nhìn mới, cách hiểu mới về
tôn giáo, không còn sự đấu tranh quyết liệt do sự sách động giáo dân của bọn
phản động nữa, cũng không có sự đấu tranh tư tưởng phức tạp trong lòng
những cán bộ xuất thân từ người có đạo như Thụy, Nhàn nữa. Cha Thư, Cha
Vĩnh là những hình mẫu mới nguyện hiến dâng tất cả vì hội Thánh bằng tất cả
niềm tin, gạt bỏ quá khứ, trên tin thần hòa hợp đoàn kết dân tộc xây dựng một
xã hội tốt đẹp.
Trong những năm tháng sôi nổi với phong trào xây dựng quê hương
mới, nhiều nhà văn nhà thơ đến với những vùng đất mới để hòa mình vào
nhịp thở của đất nước. Nguyễn Khải đã sớm có mặt ở nông trường Điện Biên,
nơi cuộc sống đang sinh sôi, đổi mới từng ngày. Ở đó nhà văn đã nhìn ra
những cái mới mẻ đang hình thành bên cạnh những cái cũ, cái lạc hậu còn
ngổn ngang. Nơi đó là nguồn cảm hứng để các truyện ngắn Mùa lạc, Một cặp
vợ chồng, Đứa con nuôi, chuyện người tổ trưởng máy kéo, hay Hãy đi xa hơn
nữa ra đời. Và với ngòi bút phân tích sắc sảo của mình, Nguyễn Khải đã có
những tác phẩm đầy xúc động về cuộc sống lao động, không khí dựng xây sôi

nổi, chan chứa tình yêu, tình người. Ông đến với nhân vật bằng tình cảm yêu
thương, trân trọng, vừa ca ngợi vừa khám phá thế giới tinh thần vốn đa dạng
và phức tạp để từng bước cải hóa con người. Ông quan tâm nhiều đến số phận


19
con người cá nhân, trước những khó khăn, bất trắc của cuộc đời. Tiêu biểu
như chị Đào trong truyện ngắn Mùa lạc, một người phụ nữ bất hạnh, chiến
tranh đã cướp của chị tất cả: gia đình, người thân và cả niềm tin vào cuộc
sống. Tất cả chỉ còn là những vết thương âm ỉ theo năm tháng. Nhưng ở Điện
Biên với nhịp sống lao động hối hả, với những con người tràn đầy tình yêu
thương, môi trường sống tập thể đã giúp chị tìm thấy niềm hạnh phúc. Truyện
ngắn Mùa lạc đã mang đến một triết lý sâu sắc: “sự sống nảy sinh từ cái chết,
hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh gian khổ, ở đời này không có con
đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để
bước qua những ranh giới ấy”. Khác với tình cảm nhân đạo trong văn học
giai đoạn trước, tình cảm nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Khải mang
những nét mới. Vẫn là những phận người nhỏ bé, đáng thương, luôn khao
khát tình thương và hạnh phúc nhưng họ không còn bế tắc, không rơi vào bi
kịch cá nhân không lối thoát nữa. Ở họ đã bộc lộ sức sống kỳ diệu và niềm tin
mãnh liệt vào cuộc sống mới.
Hợp tác hóa nông nghiệp ở nông thôn miền Bắc là một chủ trương lớn,
góp phần làm thay đổi diện mạo của quê hương sau bao nhiêu năm bị chiến
tranh tàn phá. Việc thực hiện thành công phong trào này đòi hỏi phải có
những người lãnh đạo có “tầm nhìn xa”. Tất cả điều này đã được nhà văn
trình bày như một lời kêu gọi: Hãy đi xa hơn nữa, Chủ tịch huyện, Người trở
về... Với con mắt tin tường khi về với hợp tác xã Đồng Tiến, một hợp tác xã
tiên tiến ở tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Khải đã đưa bạn đọc đến một vấn đề thời sự,
mang tầm chiến lược đó là mối quan hệ giữa quyền lợi tập thể, nhà nước và
quyền lợi cá nhân. Tầm nhìn xa ra đời, tên tác phẩm đã phản ánh được những

điều Nguyễn Khải trăn trở: phải làm sao để điều hòa quyền lợi nhà nước, tập
thể với quyền lợi của những người nông dân mang nặng đầu óc tư hữu. Người
nông dân không thể một sớm, một chiều hiểu ra và tin tưởng vào sự phát triển


20
của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Chính sự sai lầm, bất hợp lý của mô
hình kinh tế đã ngăn trở sự phát triển chung. Đây là vấn đề cốt yếu, không thể
khắc phục một cách dễ dàng nếu không có cái nhìn thật sâu sắc và những
chính sách thích hợp.
Những ngày đế quốc Mĩ điên cuồng bắn phá miền Bắc là những ngày
Nguyễn Khải có mặt ở tuyến lửa Vĩnh Linh - Quảng Bình, vượt trùng khơi
đến với các chiến sĩ Cồn Cỏ, theo xe chở kíp mìn tới một đại đội công binh
anh hùng đang chốt giữ một đoạn đường chiến lược trên đất Lào và cho ra đời
các thiên ký sự Họ sống và chiến đấu, Đường trong mây, Ra đảo, Chiến sĩ,
Tháng Ba ở Tây Nguyên thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Theo ông, hiện thực chiến tranh khốc liệt không thắng nổi
quyết tâm và sức mạnh của con người như lời của chiến sĩ Thịnh: “tình cảm
của con người ta ghê gớm thật, nó nghiêng về phía nào, toàn bộ sức mạnh
trút về phía ấy”. Chính lòng yêu nước, tinh thần kỷ luật, sự khát khao khẳng
định phẩm giá cùng với vẻ đẹp tâm hồn là những yếu tố giúp ta chiến thắng.
Nguyễn Khải là ít miêu tả những mặt trái, những mất mát của chiến tranh
nhưng lại xây dựng thành công những tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ
nhân cách phẩm giá của mình. Tất cả đều là những thiên anh hùng ca mang
màu sắc chính luận, giàu màu sắc lãng mạn.
Sau năm 1975, văn học có nhiều biến đổi. Nguyễn Khải vẫn là cây bút
năng nổ và sung sức. Nhà văn đã đi sâu khám phá hiện thực vốn có với những
bề bộn, phức tạp và cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt giữa cái cũ và cái mới
qua Cách mạng, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người.... Làm sao cho
những con người trong xã hội cũ gìn giữ những chân giá trị và nhận ra ý

nghĩa nhân đạo của cách mạng, tự nguyện đóng góp công sức xây dựng một
xã hội mới? Nguyễn Khải đã đặt lòng tin vào những con người tuổi trẻ với
bản lĩnh, trách nhiệm và niềm tin mạnh mẽ, tiêu biểu như Phượng (Cách


21
mạng), Bình (Gặp gỡ cuối năm), Duy Giang (Vòng sóng đến vô cùng), Định
(Cái thời lãng mạn).... Chính cuộc chiến thần thánh của dân tộc đòi hỏi mọi
người phải suy nghĩ để tìm ra con đường đi đúng đắn cho mình trong mọi
hoàn cảnh. Nhân vật cô Hiền trong tác phẩm Một người Hà Nội được Nguyễn
Khải xây dựng không nhằm mục đích ca ngợi phẩm chất con người và xã hội
theo kiểu cực đoan, một chiều như trước kia mà nhằm phân tích hiện thực con người một cách tỉnh táo để triết luận, chiêm nghiệm và để khẳng định
những giá trị cao quý. Cô Hiền - “hạt bụi vàng lấp lánh” của đất kinh kỳ chắc chắn sống mãi trong niềm tin của tác giả về những con người lí tưởng,
về những giá trị bền vững với thời gian.
Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường kéo theo sự thay đổi của
nhiều quan hệ xã hội cũng như của quan niệm về con người. Trong những
sáng tác của Nguyễn Khải từ giai đoạn này trở về sau, sự sắc sảo vẫn thể
hiện rõ thông qua cách nhà văn nhìn nhận vấn đề và gợi hướng giải quyết
chúng. Nhà văn quan tâm hơn đến đời sống cá nhân và những con người
bình thường: “Đó là vào năm tôi đã 60 tuổi. Là khi tôi ngộ ra cái dòng chảy
tự nhiên của một đời người từ xưa cho tới nay, thời chiến thì đi lính; thời
bình thì đi cày, đi buôn với những lo toan, buồn vui của mỗi ngày. Những
danh nhân, anh hùng của mọi thời đều từ cái đám đông nhờ nhờ ấy bước
vào vùng sáng của lịch sử một khi thời thế thay đổi. Tôi đã dành một nửa
đời viết chỉ để quan tâm tới những số phận khác thường, những tính cách
khác thường, thì thời gian còn lại tôi sẽ chỉ dành cho những con người vô
danh, những con người của đám đông với những số phận rất tầm thường”
(Nguyễn Khải suy ngẫm về cuộc đời và văn chương). Thông qua những nhân
vật, những câu chuyện đời thường tác giả đã gửi gắm vào đó những triết lý
nhân sinh sâu sắc. Nhà văn không ngần ngại phản ánh những số phận đau

thương, những nghịch cảnh trớ trêu mà con người phải đón nhận tất cả như
trò đùa của thượng đế, điều này hoàn toàn khác so với những tác phẩm trước


22
đó. Với những câu chuyện như Sống ở đời, Đời khổ, Anh hùng bĩ vận, Một
thời gió bụi, Chuyện tình của mỗi người và hàng loạt những truyện ngắn
khác, Nguyễn Khải đã đem đến cho người đọc cái nhìn mới mẻ về cuộc sống
và văn chương của chính ông “càng viết, càng có duyên hơn”… Làm sao
người đọc có thể quên hình ảnh một bà lão có “gương mặt buồn thiu nhưng
bình thản, đã coi mọi chuyện sống chết đói no như chả liên can tới mình”
[48, tr.197]. Ít ai biết được bà có hai con trai làm việc cho nhà nước, con gái
bán rau ở chợ, con rể làm phu xích lô; bà ở một thân một mình, ngày ngày
nhặt hoa đại phơi khô ra đầu đường đứng bán, bữa cơm của bà là một ký bún
trắng ăn với muối và một bát nước chín, ngồi ké quán nước chè xanh vỉa hè,
gương mặt đó mãi mãi ám ảnh tác giả đến tận sau này. Hay như câu chuyện
của một quân nhân trong chiến dịch Điện Biên Phủ; sau chiến thắng, anh
được cấp trên cho phép lấy một dân vận làm vợ, tưởng chừng tương lai tươi
sáng sẽ đến với cả gia đình anh. Không ngờ ăn ở với nhau được năm sáu
năm thì vợ mất. Trong những năm gia đình chung sống, làm rẫy ở thượng du
họ có được một đứa con gái và chắt chiu nuôi một con trâu nghé. Anh trở về
làng, quê anh ở miền xuôi cách mấy trăm cây; anh đẩy xe trâu, trên có con
gái năm tuổi và tiểu sành đựng bộ xương vợ; lộ trình bữa no bữa đói nhờ
những buổi dừng chân, với con trâu làm công cho nông dân bên đường. Hay
hình ảnh của chị Vách (nhân vật trong truyện ngắn Đời khổ), vợ ông thiếu
tá hàng xóm, cả đời gặp toàn bất hạnh, chồng bị tai biến rồi chết ở bệnh
viện, hai đứa con trai bị học hành dở dang lại mắc bệnh tâm thần, hai đứa
con gái xấu xí, lòng khòng không ai tới hỏi, tuổi già sức yếu bà mẹ lại phải
vất vả để lo lắng cho đàn con, nhưng chưa khi nào thấy bà than khổ… Đó
là những bức chân dung rất đời, mãi ám ảnh lưu giữ trong tâm hồn độc giả.

Những vấn đề này được tác giả phản ánh rất chi tiết trong tiểu thuyết
Thượng đế thì cười. Và những tác phẩm ấy đến nay vẫn mang đầy đủ ý
nghĩa thời sự của nó.


23
Cả đời cầm bút cần mẫn và đầy sáng tạo, Nguyễn Khải đã để lại một sự
nghiệp văn học với nhiều giá trị. Bằng hứng thú và sự nhạy cảm của mình,
nhà văn đã nhanh chóng tiếp cận và khám phá nhiều vấn đề phức tạp của đời
sống xã hội. Chính tác giả đã bộc bạch: “trong 53 năm làm nghề, do sự phát
triển tự thân, tôi đã thay đổi ba lần những quan niệm về tiểu thuyết, những đề
tài và nhân vật cần phải quan tâm, nghệ thuật kết cấu và ngôn từ. Lần thứ nhất
vào năm 1957 để có được cuốn tiểu thuyết Xung đột, lần thứ hai vào năm
1978 thì viết được Cha và con và..., Gặp gỡ cuối năm, mở đầu cho năm cuốn
tiểu thuyết tiếp theo, có thể còn đọc được trong khoảng mươi năm nữa. Và lần
cuối là năm 1990 với một chuỗi truyện ngắn, khoảng sáu, bảy chục truyện,
viết trong 10 năm, và tuổi thọ của nó xem chừng cũng còn dài”. Một lần nữa
cần khẳng định rằng sức hấp dẫn trong các sáng tác của Nguyễn Khải toát lên
từ những vấn đề của hiện thực mang tính thời sự nóng bỏng, kết hợp với ngòi
bút vừa tỉnh táo vừa sắc sảo trong phát hiện vấn đề, khái quát chúng trở thành
những vấn đề bức thiết trong đời sống, gợi cho độc giả nhiều suy ngẫm.
1.1.3. Có màu sắc chính luận và triết luận
Điều cơ bản làm nên phong cách sáng tác của Nguyễn Khải là khả năng
triết lý, triết luận về đời sống, về tư tưởng, tình cảm con người. Đọc những tác
phẩm của Nguyễn Khải, độc giả có cảm giác thú vị về một giọng văn đa sắc
điệu, khi triết lý, tranh biện, khi hài hước, lúc giễu nhại… tất cả hòa hợp,
nhuần nhuyễn, hô ứng vào nhau để tạo ra một sắc thái rất độc đáo. Trong luận
án tiến sĩ Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Khải, tác giả Trần Văn Phương nhận
định: “Nội dung tiểu thuyết Nguyễn Khải là một sự tổng hợp nhiều yếu tố bao
hàm cả chính luận và triết luận lẫn miêu tả, thuật kể” [69, 39]. Tác giả còn

cho rằng: “Yếu tố chính luận thể hiện ở việc vận dụng các thao tác của tư duy
chính luận vào tư duy tiểu thuyết: đề cập trực tiếp đến những vấn đề xã hội
chính trị nóng bỏng được đặt ra trong thực tiễn đời sống và nhà văn tham gia


24
vào giải quyết những vấn đề đó với tư cách một nhà hoạt động xã hội, một
nhà tư tưởng. Phương pháp luận của nó là đưa ra những luận điểm, luận cứ
vững chắc nhằm lý giải, biện minh cho tính đúng đắn của vấn đề mà nhà văn
đặt ra trong tác phẩm của mình” [69, tr.39]. Điều đó thể hiện rõ ở sự năng
động sáng tạo luôn gắn với thời cuộc, nhà văn luôn xông xáo, năng nổ, bám
sát những sự kiện nóng bỏng của thời cuộc, những vấn đề mang tính thời sự chính trị và chuyển tải nhanh nhạy những vấn đề chính trị của thời thế. Ông
tin rằng nhà văn phải thực hiện một sứ mệnh cao cả là tuyên truyền chân lý
cách mạng nên luôn có mặt ở khắp mọi nơi, khi thì phản ánh cuộc đấu tranh
quyết liệt giữa cán bộ, bộ đội, nhân dân ta với bọn phản động đội lốt tôn giáo
nổi lên chống phá cách mạng trong tiểu thuyết “Xung đột”, khi thì xuất hiện ở
nông trường Điện Biên để khám phá cuộc sống lao động hăng say, đầy niềm
tin và ấm áp tình người trong Mùa Lạc, Một cặp vợ chồng, Đứa con nuôi,
Hãy đi xa hơn nữa… Ý thức được sứ mệnh của mình, bao nhiêu năm cầm bút
là bấy nhiêu trang viết chan hòa ánh sáng của lý tưởng cách mạng. Chủ nghĩa
xã hội từ những tháng năm xây dựng đầu tiên đã in dấu đậm nét trên những
sáng tác về nông thôn với Tầm nhìn xa, Người trở về, Chủ tịch huyện…
Kháng chiến chống Mĩ ngày một ác liệt hơn, Nguyễn Khải lại có mặt để viết
về những con người anh dũng, tiếp sức cho cuộc kháng chiến với hàng loạt
tác phẩm như Họ đã sống và chiến đấu, Đường trong mây, Chiến sĩ, Tháng
ba ở Tây Nguyên… Vẫn là chính trị là thời sự nhưng những trang văn của
Nguyễn Khải không khô khan, giáo huấn mà chan chứa tình yêu thương con
người, vì con người, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo được nâng
lên tầm cao mới. Màu sắc chính luận còn thể hiện rất rõ qua việc tác giả xây
dựng nhiều nhân vật tư tưởng. Điển hình như Môn, Thụy, Nhàn trong Xung

đột, Biền trong Tầm nhìn xa, Nam trong Hãy đi xa hơn nữa, hay như Đang,
An, Bảng trong Chiến sĩ… Họ là những nhân vật đầy ý chí, bản lĩnh dám


25
đương đầu thử thách và khát vọng lý tưởng là cải biến xã hội, khát khao sống
có ý nghĩa. Thụy trong Xung đột luôn kiên định niềm tin vào Đảng, vào con
đường anh đã lựa chọn, dù có lúc bị hiểu lầm, bị lên án gay gắt, thậm chí còn
bị dọa nạt anh vẫn không thay đổi lý tưởng quyết tâm theo cách mạng đến
chết. Còn Môn luôn là người xung phong đảm nhiệm những nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp mà người khác không thực hiện nổi, anh phải lựa chọn một
bên là nhiệm vụ của một chủ tịch xã hay một bên là con chiên phải tuân thủ
đầy đủ luật lệ của một người có đạo. Cuối cùng, Môn đã chọn vị trí của một
cán bộ Đảng, đấu tranh không khoan nhượng với bọn phản động đội lốt tôn
giáo luôn chống phá phong trào cách mạng ở địa phương. Biền trong Tầm
nhìn xa lại là một hình mẫu của con người sống vì tập thể. Biền ý thức cao về
quyền lợi của tập thể và kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, tâm lý tư
lợi, làm ăn gian dối… Có thể nói, khát vọng sống đẹp, sống có ích thể hiện đa
dạng trong nhiều nhân vật và trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, hình tượng
người chiến sĩ đã được miêu tả bằng những phẩm chất cao quý. Đó là những
con người anh dũng chiến đấu, không sợ hy sinh, thông minh, tháo vát biết
vượt lên mọi khó khăn, thử thách, dù phải đối mặt với cái chết vẫn kiên định
lý tưởng. Như Huân, Chị Ba Huệ, Hai Riềng, Mười Sanh, dù chiến đấu trong
lòng địch, dù ở chiến trường hay sống trong thời bình, họ vẫn là người lính
sẵn sàng hi sinh tất cả vì lí tưởng, vì sự nghiệp chung. Nhìn chung, trong giai
đoạn này, màu sắc chính luận ở sáng tác của Nguyễn Khải có phần nổi trội.
Càng về sau, trước những bề bộn của cuộc sống thường nhật, Nguyễn Khải
bắt đầu quan tâm hơn đến chiều sâu, những giá trị bền vững, thân phận con
người. Nhà văn đã nhận ra cái hữu hạn của đời người trong sự phức tạp vô
cùng của cuộc sống. Vì thế, màu sắc chính luận dần dần chuyển sang triết

luận như một tất yếu. Nhà nghiên cứu Trần Văn Phương đánh giá: “Yếu tố
triết luận thể hiện ở cảm hứng khai thác các chiều sâu triết lý của hiện thực


×