Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà tĩnh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.1 KB, 101 trang )

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
trêng §¹i häc Vinh

NGÔ THỊ THANH NGA

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CƠ SỞ Ở HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: LL VÀ PPDH BỘ MÔN CHÍNH TRỊ
M· sè: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. ĐINH TRUNG THÀNH

NghÖ An, 2013

LỜI CẢM ƠN


2
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ tình cảm chân thành và
lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô khoa Giáo dục chính trị, Khoa sau đại
học, Hội đồng khoa học của trường Đại học Vinh; xin chân thành cảm ơn
lãnh đạo Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Phòng Tư pháp,
Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật, Phòng Nội vụ cùng lãnh đạo các xã,
thị trấn, ban ngành, đồng chí đồng nghiệp trên địa bàn huyện đã giúp đỡ
nhiệt tình để tôi hoàn thành luận văn này.


Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ này là kết quả của quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học tại khoa Giáo dục chính trị trường Đại học Vinh. Luận
văn không thể hoàn thành nếu không có sự quan tâm, động viên và cung cấp
tài liệu của các thầy cô, bạn bè cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của TS.
Đinh Trung Thành, người thầy, người hướng dẫn khoa học đã bỏ ra nhiều
công sức để tôi viết và hoàn thiện luận văn.
Dù đã rất cố gắng và nỗ lực cao, nhưng luận văn chắc chắn không thể
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các nhà giáo, nhà khoa học giúp đỡ,
góp ý để đề tài luận văn được hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 9 năm 2013

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG BÀI
Kí hiệu viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt


3
HĐND
UBND
CBCC
HĐPBGDPL
PBGDPL
GDPL
TTPBGDPL
VD
ATGT
UBMTTQ
QPPL
KTXH


Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Cán bộ công chức
Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật
Phổ biến giáo dục pháp luật
Giáo dục pháp luật
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
Ví dụ
An toàn giao thông
Ủy ban mặt trận tổ quốc
Quy phạm pháp luật
Kinh tế xã hội


MỤC LỤC
Dưới góc độ luận văn, luận án, cũng đã có một số đề tài nghiên cứu vấn đề giáo
dục pháp luật cho cán bộ, công chức như: "Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức cơ sở ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong điều
kiện cải cách hành chính", Nguyễn Đình Nam, Luận văn Thạc sỹ Khoa học
Giáo dục, Đại học Vinh, 2012; "Nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân
chủ ở cấp xã trên địa bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong xây dựng
nông thôn mới"; Trần Văn Tám, (Qua khảo sát ở xã Bình Thạnh, Huyện Cao
Lãnh, Tỉnh Đồng Tháp), luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và phương
pháp giảng dạy bộ môn Giáo dục chính trị, Đại học Vinh, 2012 .......................8
49. Trần Văn Tám, Nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã
trên địa bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp trong xây dựng nông thôn mới;
luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và phương pháp giảng dạy bộ môn
Giáo dục chính trị, Đại học Vinh, 2012 .........................................................100



5

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là mục tiêu mà Đảng
và nhà nước ta đang hướng đến, trong đó pháp luật luôn được xem là tối
thượng, cao nhất; tất cả mọi hoạt động của cá nhân, cơ quan hay tổ chức đều
phải chấp hành theo pháp luật.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, và
vì dân ở nước ta hiện nay, điều quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được
một đội ngũg cán bộ, công chức vừa có đức vừa có tài.
Để quản lý được Nhà nước và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí của
một nhà nước pháp quyền, cán bộ, công chức phải là những người được trang
bị những kiến thức về nhà nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời.
Những kiến thức pháp luật đó gắn liền với nhiệm vụ công tác chuyên môn của
mỗi CBCC được giao.
Có thể khẳng định rằng, CBCC cơ sở có một vị trí hết sức quan trọng
trong bộ máy nhà nước, là người tiếp xúc hàng ngày cũng như là người đầu
tiên giải quyết các yêu cầu của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân thực
hiện tốt các quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó, CBCC cũng
là người tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của nhà nước, để cho nhân dân hiểu; là người phản ánh các tâm tư
nguyện vọng của nhân dân đến các cơ quan, các cấp có thẩm quyền; từ đó, có
các đề xuất chính đáng để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân.
Chính vì những vai trò của cán bộ, công chức cơ sở là hết sức quan trọng nên
chủ thể của giáo dục pháp luật chính là toàn thể cán bộ, công chức. Thông qua
công tác chuyên môn, nghiệp vụ của mình ở cấp cơ sở, có trách nhiệm tuyên



6
truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Nếu như mỗi người cán bộ, công
chức có trình độ am hiểu pháp luật toàn diện, sâu sắc, có thái độ tôn trọng và
chấp hành tốt pháp luật, chủ trương chính sách cũng như đường lối của Đảng,
thì quá trình thực thi pháp luật, thực hiện việc chuyên môn của mình tại cơ sở
sẽ đạt hiệu quả cao.
Nhưng hiện nay, từ thực tiễn hoạt động thực thi pháp luật ở nhiều địa
phương có thể thấy rằng, việc vi phạm pháp luật, làm trái pháp luật của cán
bộ, công chức không phải là ít. Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang đặt ra
nhiều thách thức đối với đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng, cũng như nền
hành chính quốc gia nói chung. Yêu cầu đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt
động cũng như trình độ hiểu biết pháp luật của CBCC là vấn đề hết sức cần
thiết.
Trong thời gian qua trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, công
tác GDPL đối với đội ngũ CBCC cơ sở, đã và đang đạt được kết quả nhất
định. Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng công tác GDPL cho đội ngũ
CBCC cơ sở còn nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao; đặc biệt là đội ngũ làm
công tác GDPL chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác; nội dung và hình
thức phương pháp giáo dục còn nhiều lúng túng. Có một bộ phận khá lớn cán
bộ, công chức hiểu biết pháp luật rất sơ sài, hời hợt. Nhiều cán bộ, công chức
chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình
sự... Có trường hợp vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng, nhưng chính
quyền địa phương chỉ xử lý nhẹ nhàng, đơn giản trong nội bộ. Ngược lại, có
vụ việc đơn giản lại nghĩ nghiêm trọng và xử lý khá nặng nề. Vì vậy dẫn đến
tình trạng một bộ phận CBCC cơ sở còn quan liêu, sách nhiễu, hách dịch,
thậm chí là cố tình làm sai các quy định của pháp luật, xem thường pháp
luật... Điều này đặt ra cho CBCC toàn huyện cần phải nâng cao hiệu quả
GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở, để đội ngũ CBCC cơ sở nắm vững cũng như
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, góp phần xây dựng nền hành chính quốc gia
mới, phát huy quyền làm chủ của công dân. Xuất phát từ yêu cầu và thực tế



7
đó, tác giả chọn vấn đề: "Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn
hiện nay" làm đề tài Luận văn Thạc sỹ khoa học giáo dục, chuyên ngành LL
và PPDH bộ môn chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề GDPL cho CBCC cơ sở trong giai đoạn hiện nay đã được nhiều
nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.
Nghiên cứu các vấn đề chung về GDPL có các công trình khoa học tiêu
biểu như sau:
“Công tác nghiên cứu lý luận về GDPL trong thời kì đổi mới”, Lê Văn
Hòe, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc hội, số 9/2008;
“GDPL ở tỉnh Thái Bình thực trạng và giải pháp”, Nguyễn Hồng
Quyên, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp, Số 9/2010;
“Công tác tuyên truyền, phổ biến GDPL ở tỉnh Bình Phước”, Phan
Xuân Linh, Tạp chí dân chủ và Pháp luật, bộ Tư pháp, Số 3/2011;
“Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật”, Đào Trí Úc chủ biên, Hà
Nội, 1995;
“Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật”,
Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật;
“Cần nâng cao ý thức pháp luật cho đồng bào vùng sâu vùng xa”, Hoài
Nam, Dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp, Số chuyên đề tháng 12/2009;
“Phổ biến giáo dục pháp luât ở địa phương, cần xây dựng tủ sách pháp
luật làm cơ sở”, Văn Chung - Thủy Tiên, Bộ Tư pháp, Số chuyên đề tháng
10/2010;
"Xã hội hóa" công tác phổ biến giáo dục pháp luật, Nguyễn Hưng
Quang, Bộ tư pháp, Số chuyên đề tháng 10/2010;
“Tăng cường vai trò của hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ đưa pháp luật vào cuộc sống”, Lê Thị
Thu Ba, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp số chuyên đề tháng 4/2006.


8
Nghiên cứu về vấn đề GDPL cho CBCC tiêu biểu có các công trình
nghiên cứu sau đây:
“GDPL cho CBCC hành chính ở nước ta hiện nay”, Nguyễn Quốc Sửu,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc hội, Số 7/2010;
“Đổi mới phương pháp và hình thức GDPL cho CBCC hành chính”,
Nguyễn Quốc Sửu, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 5/1011;
“Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động GDPL cho CBCC hành chính ở
nước ta hiện nay” Nguyễn Quốc Sửu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện
nhà nước và pháp luật, số 4/2010;
“GDPL cho CBCC cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Nguyễn Thị
Bưởi, Trường cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh;
“Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật”, Phạm Văn Chung, Bộ tư pháp, Số chuyên đề tháng 10/2010;
“Thiết chế hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật”, Bộ Tư pháp số
chuyên đề tháng 10/2010.
Ngoài ra có một số công trình nghiên cứu khác nhau đã được đăng ở các
tạp chí, các báo Trung ương và địa phương.
Những công trình trên đã có nhiều đóng góp quan trọng không những
về măt lý luận, mà còn phần nào kết quả nghiên cứu còn được ứng dụng trong
thực tiễn GDPL nói chung, GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở nói riêng.
Dưới góc độ luận văn, luận án, cũng đã có một số đề tài nghiên cứu vấn
đề giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức như: "Nâng cao hiệu quả giáo
dục pháp luật cho cán bộ, công chức cơ sở ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
trong điều kiện cải cách hành chính", Nguyễn Đình Nam, Luận văn Thạc sỹ
Khoa học Giáo dục, Đại học Vinh, 2012; "Nâng cao chất lượng thực hiện

Quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
trong xây dựng nông thôn mới"; Trần Văn Tám, (Qua khảo sát ở xã Bình
Thạnh, Huyện Cao Lãnh, Tỉnh Đồng Tháp), luận văn Thạc sỹ chuyên ngành


9
Lý luận và phương pháp giảng dạy bộ môn Giáo dục chính trị, Đại học Vinh,
2012 .
Song dưới góc độ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ
môn Giáo dục Chính trị, việc nghiên cứu vấn đề GDPL cho đội ngũ CBCC cơ
sở trên địa bàn huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh thì chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện. Vì vậy, "Nâng cao hiệu quả GDPL cho đội ngũ
CBCC cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay" là
vấn đề có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu của tác giả không trùng với công trình khoa học đã
được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Đánh giá đúng thực trạng và xác định được phương hướng, giải pháp
nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cơ sở ở Nghi
Xuân, Hà Tĩnh.
3.2 Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận cũng như thực tiễn công tác GDPL cho
đội ngũ CBCC cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác GDPL cho CBCC cơ sở ở
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh trong những năm qua.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả GDPL
cho đội ngũ CBCC cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn

hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
Quá trình GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở, hướng vào việc nêu lên thực
trạng và nâng cao hiệu quả công tác GDPL trong giai đoạn hiện nay.


10
4.2 Phạm vi
Cơ sở lý luận và thực tiễn của GDPL, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả GDPL cho CBCC cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở phương pháp luận
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và GDPL.
- Các quan điểm của Đảng, Nhà nước, các chỉ thị của Bộ chính trị,
Chương trình hành động, Quyết định của thủ tướng Chính phủ, kế thừa có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài.
5.2 Phương pháp
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp mang tính chất
liên ngành, trong đó chủ yếu là kết hợp giữa phương pháp lịch sử với lôgíc, sử
dụng và kết hợp với các phương pháp khác nhau như: phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích, đánh giá, phương pháp tổng hợp...
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Trình bày một cách có hệ thống các cơ sở lý luận về GDPL cho đội
ngũ CBCC cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
- Thông qua việc phân tích các hạn chế, nguyên nhân, thực trạng của
công tác GDPL cho CBCC cơ sở ỏ huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, đề tài
cung cấp thêm những tư liệu về thực trạng công tác GDPL cho đội ngũ CBCC
cơ sở hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả GDPL cho đội ngũ

CBCC cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Luận văn có thể làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, tuyên
truyền và phổ biến GDPL.
7. Giả thuyết khoa học


11
Thực hiện các giải pháp như đề xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh trong giai
đoạn hiện nay.

8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
công chức cơ sở.
Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
công chức cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở ở huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.


12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm trong đề tài
1.1.1. Pháp luật và giáo dục pháp luật

1.1.1.1. Khái niệm pháp luật
Khi xuất hiện nhà nước thì cũng đồng nghĩa với việc pháp luật được ra
đời, hay xét về một phương diện khách quan thì nhà nước và pháp luật phát
sinh cùng một nguồn gốc, khi mà chế độ tư hữu được xác lập, xã hội phân
hóa thành các giai cấp đối kháng, và mâu thuẫn giai cấp đối kháng không thể
điều hòa được. Xét về phương diện chủ quan, pháp luật do nhà nước đề ra và
trở thành một phương tiện của nhà nước để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị. Để làm rõ khái niệm về pháp luật, ngoài việc tìm hiểu những vấn đề
nghiên cứu của các nhà khoa học khác, trước hết chúng ta phải tìm hiểu
nguồn gốc ra đời của nhà nước và pháp luật theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Trong xã hội nguyên thủy con người sống với nhau thành các bầy đàn,
Trải qua hàng triệu năm con người bước vào một xã hội có tổ chức cao hơn,
dần dần trong quan hệ hôn nhân có những biến đổi quan trọng: những người
cùng dòng máu mẹ không được kết hôn với nhau và tập hợp thành một cộng
đồng, gọi là thị tộc, và thị tộc được hình thành do quan hệ huyết thống. Thị
tộc là một hình thái xã hội cơ bản của công xã nguyên thủy, vì từ nó mà hợp
thành các hình thái tổ chức khác (bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc). Một số thị
tộc có quan hệ hôn nhân với nhau hợp thành bào tộc, bào tộc lại tập hợp thành
một bộ lạc. Bộ lạc có tên gọi, tiếng nói, phong tục tập quán, ruộng đất... người
đứng đầu bộ lạc gọi là tù trưởng, có nhiệm vụ giải quyết những công việc cần
kíp, có quyền triệu tập bộ lạc... Dần dần, một số bộ lạc liên minh lại với nhau
tạo thành những liên minh bộ lạc, có một hội đồng gọi là hội đồng liên minh


13
bộ lạc, cùng thảo luận và đưa ra các ý kiến, cùng thảo luận và quyết nghị
những công việc của liên minh theo phương thức dân chủ, mọi quyết nghị
phải được sự nhất trí hoàn toàn của các thành viên. Các quyết nghị đó khi đưa
về bộ lạc cũng phải được hội đồng bộ lạc tán thành thì mới có hiệu lực, liên

minh bộ lạc có hai thủ lĩnh tối cao, không ai hơn ai về quyền hạn và chức
trách. Nhưng càng ngày sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra những
chuyển biến vô cùng to lớn cả về kinh tế và xã hội, làm cho tổ chức công xã
nguyên thủy tan rã, và nhường bước cho sự ra đời của nhà nước. Sự ra đời của
nhà nước đã đánh dấu quan trọng trong sự ra đời của pháp luật vì pháp luật ra
đời khi nhà nước xuất hiện.
Trong buổi ban đầu, trước tiên và phổ biến nhất là nhiều phong tục tập
quán được "nhà nước hóa" thành tập quán pháp. Có những tập quán pháp
không được nhà nước chính thức thừa nhận nhưng được mặc nhiên công
nhận, và được giai cấp thống trị sử dụng như là một công cụ đắc lực cho quá
trình điều hành xã hội của giai cấp mình. Nó có vai trò hết sức quan trọng
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển
của xã hội thì sự ra đời của luật thành văn là một tất yếu, bởi vì tập quán pháp
không thể "đảm đương" được việc điều chỉnh các quan hệ xã hội rộng rãi,
phong phú, sâu rộng nảy sinh trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa.
Tóm lại: Có thể hiểu một cách chung nhất pháp luật là hệ thống những
qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Từ khái niệm trên ta có thể hiểu các thuộc tính của pháp luật:
- Tính bắt buộc chung (tính qui phạm phổ biến): Trước hết, quy phạm
được hiểu là những quy tắc xử sự chung, được coi là khuôn mẫu, chuẩn mực,
mực thước đối với hành vi của 1 phạm vi cá nhân, tổ chức. Pháp luật được
biểu hiện cụ thể là những quy phạm pháp luật. Do vậy nó cũng là quy tắc xử
sự chung cho phạm vi cá nhân hoặc tổ chức nhất định. Pháp luật được Nhà


14
nước ban hành hay thừa nhận không chỉ dành riêng cho một cá nhân, tổ chức
cụ thể mà áp dụng cho tất cả các chủ thể. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa

Pháp luật với các loại qui phạm khác ở chỗ: Pháp luật là quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung.
VD: Pháp luật qui định: mọi chủ thể kinh doanh phải nộp thuế.
- Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Yêu cầu của pháp luật là
phải xác định chặt chẽ về mặt hình thức, được biểu hiện ở:
+ Lời văn: phải chính xác, cụ thể, dễ hiểu, không đa nghĩa. Nếu không
đúng được yêu cầu này, chủ thể sẽ hiểu sai, hiểu khác.
+ Pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và thông qua cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên mỗi một cơ quan chỉ
được ban hành những loại văn bản nhất định có tên gọi xác định và theo một
trình tự, thủ tục nhất định.
VD: Hiến pháp, bộ luật: Quốc hội mới có quyền ban hành
Nghị định: Chính phủ mới có quyền ban hành
+ Sự xác định chặt chẽ trong cấu trúc của Pháp luật.
- Tính đảm bảo được thực hiện bằng Nhà nước: Pháp luật do Nhà nước
ban hành và thừa nhận đồng thời Nhà nước sẽ đảm bảo cho Pháp luật đó được
thực hiện trong thực tiễn đời sống. Sự đảm bảo đó được thể hiện:
+ Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích giúp đỡ để chủ thể thực hiện
pháp luật.
+ Nhà nước đảm bảo cho Pháp luật được thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước. Tính cưỡng chế là tính không thể tách rời khỏi Pháp
luật. Luật pháp thông thường được thực thi thông qua một hệ thống các cơ
quan thực thi, bao gồm các cơ quan như Công an (cảnh sát), tòa án, Việc kiểm
sát, thi hành án... Mục đích cưỡng chế và cách thức cưỡng chế là tùy thuộc
bản chất Nhà nước.
1.1.1.2. Giáo dục pháp luật
Khi nói đến giáo dục pháp luật, thì có rất nhiều quan niệm khác nhau
được nhắc đến. Về cơ bản có các quan niệm sau đây:



15
- Quan niệm thứ nhất cho rằng, pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt
buộc chung. Khi pháp luật mang tính chất bắt buộc chung, đồng nghĩa với
việc mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó không cần
đặt vấn đề giáo dục pháp luật cho mọi công dân. Pháp luật không thể là cái
thuộc tính tuyên truyền vận động; ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực
hiện chức năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua
các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật
điều chỉnh.
- Quan niệm thứ hai, đồng nhất hoặc coi giáo dục pháp luật là một bộ
phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần thực hiện tốt
quá trình giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý
thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Như vậy theo quan
niệm này, thì chỉ cần giáo dục tốt chính trị tư tưởng, và đạo đức là được, qua
đó công dân tự sẽ có ý thức chấp hành và tôn trọng pháp luật, không cần đến
tuyên truyền hay phổ biến giáo dục pháp luật.
- Quan niệm thứ ba, coi giáo dục pháp luật đồng nhất với việc tuyên
truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật. Theo quan niệm này, việc
giáo dục pháp luật thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, giới thiệu tinh thần
văn bản pháp luật khi có văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành như:
Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự... hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc
hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Như vậy theo những cách hiểu này,
việc tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật chỉ diễn ra trong thời gian
ngắn, khi có những sự kiện khác nhau liên quan đến các văn bản pháp luật.
Các quan niệm nói trên đều đem ra những khía cạnh của vấn đề, tuy
nhiên những khái niệm đó đều mang tính phiến diện, một chiều, chưa thấy hết
đặc thù, sự tác động của giáo dục pháp luật, nên đă vô tình hoặc cố ý hạ thấp
vai trò, giá trị của giáo dục pháp luật. Bởi vì, bản thân pháp luật mới chỉ là
văn bản quy phạm pháp luật, là mô hình ở dạng "tiềm năng". Pháp luật chỉ



16
thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn
khác nhau, trong đó có các giai đoạn chủ yếu như sau:
- Thứ nhất, việc ban hành các văn bản pháp luật.
- Thứ hai, tuyên truyền giáo dục rộng rãi đến toàn thể cán bộ, quần
chúng nhân dân được biết và hiểu các quy định của pháp luật.
- Thứ ba, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật vào thực tiễn cuộc
sống.
- Thứ tư, việc kiểm tra giám sát các văn bản pháp luật. Kiểm tra xem
các cơ quan, tổ chức thực hiện pháp luật như thế nào, có vi phạm pháp luật
hay không. Trong cơ chế đó "yếu tố con người là cơ bản và là linh hồn của cơ
chế" [20, tr14].
Khi một công dân tham gia vào các quan hệ pháp luật trong xã hội, đó là
một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan khác nhau. Ở giai đoạn này, những qui phạm pháp luật có khả năng tác
động lên ý thức của cá nhân như khuyến khích hành vi hợp pháp hoặc kiềm
chế hành vi bất hợp pháp. Do đó, việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là
điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của
pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý
thức đó phải được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá
nhân "cho nên công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn
phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt" [35 tr.244].
Vì thế, để xác định đúng đắn khái niệm giáo dục pháp luật, trước hết
cần xuất phát từ khái niệm giáo dục của khoa học sư phạm. Trong khoa học
sư phạm, giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều kiện
khách quan như: Môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, phong tục tập quán... và sự tác động của nhân tố chủ quan như: Sự tác



17
động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con người lên
việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được
các mục tiêu nhất định như: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất,
trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể (hay
đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội. "Phổ biến giáo dục
pháp luật là một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động
có định hướng, có tổ chức, có chủ định (thông qua các hình thức giáo dục,
thuyết phục, nêu gương...) nhằm mục đích hình thành ở đối tượng tri thức pháp
lý, tình cảm và hành vi xử sự phù hợp với các đòi hỏi của các hệ thống pháp
luật hiện hành với các hình thức, phương tiện, phương pháp đặc thù. Phổ biến
giáo dục pháp luật là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài của chủ
thể lên đối tượng, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống" [11, tr38 ]
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan
là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà lý luận, các
nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ
quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo
dục. Vì thế, khái niệm giáo dục hiện nay thường được hiểu theo nghĩa hẹp.
1.1.2. Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cơ sở
1.1.2.1. Cán bộ, công chức cơ sở
Khái niệm công chức ở nước ta được đánh dấu từ Sắc lệnh 76/SL ngày
20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ban hành "Quy chế công chức của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa". Sau đó, trong một thời gian dài do nhiều
nguyên nhân chúng ta không hay sử dụng thuật ngữ "công chức" mà thường
dùng cụm từ "cán bộ công nhân viên chức" để chỉ toàn bộ những người làm
việc trong tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, các đoàn thể quần

chúng, cán bộ, công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh.


18
Đến cuối những năm 1980, thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện của
Đảng và Nhà nước ta theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), khái niệm "công chức" lại được
dùng nhiều hơn trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Để phân định ai là
công chức, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định
169/HĐBT ngày 25/5/1991. Theo Điều 1 của nghị định này thì: "Công chức
nhà nước là công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm, giữ một công
vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở trung ương hay địa
phương; ở trong nước hay ngoài nước; đã được xếp vào một ngạch; hưởng
lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước".
Bước sang những năm 1990, sự nghiệp đổi mới đất nước được đẩy
mạnh và đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhiều vấn đề lớn được đặt ra,
trong đó có vấn đề cán bộ, công chức. "Xây dựng và ban hành văn bản pháp
quy về chế độ công vụ và công chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm
quyền", "xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ
chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp" [14, tr. 132]. Theo tinh thần Nghị quyết
của Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) nói trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đă ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26/02/1998 và có hiệu lực vào
ngày 01/5/1998.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 không đưa ra định nghĩa cho
từng khái niệm "cán bộ", "công chức", cũng không đưa ra định nghĩa chung
cho cụm từ "cán bộ, công chức", mà chỉ quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh Cán
bộ, công chức: Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân
Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;


19
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ
thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được
xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi
ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh, tiêu
chuẩn riêng;
- Thẩm phán Tòa án nhân dân; kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm
việc trong các cơ quan đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Sau khi Pháp lệnh đã ban hành, Chính phủ đã ra ba nghị định, chủ yếu
là giải thích và hướng dẫn về vấn đề công chức:
- Nghị định 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng
và quản lý công chức;
- Nghị định 96/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về chế độ thôi việc đối
với cán bộ, công chức;
- Nghị định 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về xử lý kỷ luật và trách
nhiệm vật chất đối với công chức.
Theo Nghị định 95/1998/NĐ-CP thì công chức là những người quy
định tại khoản 3 và khoản 5 của Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ công chức.
Năm 2010 Luật cán bộ, công chức có hiệu lực và trong đó có quy định
rõ ràng về khái niệm CBCC. Theo quy định tại điều 4 Luật cán bộ, công chức
thì có thể hiểu rằng:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào

ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an


20
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
Cũng theo quy định tại điều 4 Luật cán bộ công chức thì Cán bộ xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được
bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một
chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Phân loại CBCC cấp xã:
- Cán bộ cấp xã bao gồm những người như sau: Cán bộ làm công tác
Đảng: bí thư và phó bí thư hoặc trực Đảng; Cán bộ làm công tác chính quyền:
Chủ tịch phó chủ tịch UBND, chủ tịch, phó chủ tịch HĐND xã; Cán bộ làm
công tác đoàn thể: người đứng đầu các tổ chức chính trị xã hội: Chủ tịch mặt
trận tổ quốc, Chủ tịch Hội phụ nữ, bí thư đoàn thanh niên, Chủ tịch hội cựu
chiến binh, chủ tịch hội nông dân xã được quy định tại khoản 2 điều 61 Luật
cán bộ công chức.
- Công chức cấp xã bao gồm những chức danh như sau: Trưởng Công
an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô

thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch;
Văn hóa - xã hội. Công chức cấp xã do huyện quản lý được quy định tại
khoản 3 điều 61 Luật cán bộ, công chức năm 2010.


21
Chúng ta đã biết rằng, từ khi xuất hiện và hình thành nhà nước thì nhà
nước đã có sự phân chia thành các đơn vị, lãnh thổ khác nhau để nhà nước dễ
dàng trong việc quản lý các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội. Ở nước ta, vấn
đề này ngay từ khi thành lập nhà nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
quan tâm đến tổ chức nhà nước thành các cấp hành chính khác nhau để thuận
tiện trong việc tổ chức và quản lý. Theo hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam
năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2002), và tại điều 4 Luật tổ chức
HĐND và UBND có quy định HĐND và UBND được tổ chức thành các đơn
vị hành chính sau đây:
Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh);
Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện);
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Chính quyền cấp xã, phường, thị trấn là chính quyền gần dân nhất
trong hệ thống chính quyền 4 cấp. Gọi chính quyền cấp xã, phường, thị trấn
chính là chính quyền cấp cơ sở bởi những lý do sau:
Thứ nhất, cấp này thỏa mãn được các yếu tố cấu thành một cấp chính
quyền:
Được nhà nước giao cho các chức trách nhiệm vụ, quyền hạn để thay
mặt nhà nước quản lý các công việc của địa phương.
Có cơ chế bầu cử cán bộ địa phương.
Có tính tự quản lý nhất định.
Chịu sự kiểm soát của chính quyền cấp trên
Thứ hai, đây là cấp chính quyền thấp nhất, không có cấp chính quyền
nào thấp hơn cấp chính quyền cấp xã, phường, thị trấn. Ở cấp này, thường

xuyên tiếp xúc với nhân dân, luôn đi sâu đi sát với nhân dân, là cấp chính
quyền gần dân nhất.
Thứ ba, cấp xã, phường, thị trấn là nền móng của bộ máy nhà nước, cái
gốc của hệ thống chính quyền của nhà nước 4 cấp.
Mặc dù vậy, tuy là cấp nhà nước thấp nhất nhưng chính quyền cấp cơ
sở có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống hành chính nhà nước. Chính


22
quyền cấp cơ sở là nơi giao lưu trực tiếp giữa nhân dân và nhà nước, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói " Cấp xã là cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm được mọi việc thì mọi việc đều xong xuôi" [33; tr 269]. Hoạt
động của chính quyền cấp xã, phường, thị trấn có ảnh hưởng rất lớn và sâu
sắc đến uy tín, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước. Khi một chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước được ban hành, thì chính
quyền cấp xã chính là nơi thể hiện tính hiệu lực, hiệu quả của chủ trương
đường lối, chính sách đó. Bên cạnh đó, chính quyền cấp xã cũng là nơi thực
thi, kiểm ngiệm, và phản ánh tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống cơ chế
chính sách, vì thế chất lượng của hệ thống chính sách phụ thuộc vào chất
lượng hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.
Chính quyền cơ sở còn là nơi trực tiếp quản lý các hoạt động kinh tế xã
hội của địa phương, những vấn đề của địa phương mà chính quyền cấp cơ sở
có thẩm quyền giải quyết, thì chính quyền cơ sở chính là nơi đại diện cho
nhân dân địa phương trực tiếp giải quyết. Với những vai trò và tầm quan
trọng như đã nói ở trên, có thể khẳng định rằng chính quyền cấp xã chính là
cấp chính quyền cấp cơ sở, vì nó có những vai trò quan trọng trong việc tiếp
nhận và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà
nước, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân địa phương, đồng thời cũng
là cơ quan giúp nhà nước đề ra các biện pháp tổ chức, quản lý phù hợp với đặc
điểm của một địa phương, đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân địa phương.

Như vậy ta có thể khẳng định rằng, CBCC có đầy đủ các tiêu chuẩn
được tuyển dụng hoặc bầu cử theo quy định của Luật công chức 2010 mà làm
việc ở chính quyền cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) thì được gọi
là CBCC cấp cơ sở.
1.1.2.2. Đặc điểm trong giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
Quá trình GDPL cho CBCC có những đặc điểm khác biệt so với GDPL
cho những đối tượng giáo dục khác như: GDPL trong nhà trường đối tượng
chủ yếu là học sinh, sinh viên; GDPL cho người lao động, người quản lý
trong các doanh nghiệp, hay là GDPL cho thanh thiếu niên...


23
Nếu như quá trình GDPL cho đối tượng là thanh thiếu niên, cần tập
trung vào những kiến thức pháp luật phổ thông, cơ bản về nhà nước và pháp
luật, các quyền và nghĩa vụ của công dân, một số kiến thức pháp luật thiết yếu
phục vụ cuộc sống, học tập phong phú phù hợp với lứa tuổi như: an toàn giao
thông, bảo vệ môi trường... Còn với người lao động và người quản lý trong
doanh nghiệp, vấn đề GDPL cần giáo dục những nội dung liên quan trực tiếp
đến hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh, lao động của người quản lý. Với
các hình thức tư vấn pháp luật, nói chuyện theo chuyên đề, sinh hoạt các câu
lạc bộ... Những đối tượng được giáo dục nói trên có những đặc điểm khác biệt
so với đội ngũ CBCC, vì thế đặc điểm trong quá trình GDPL cho CBCC cần
phải chú trọng hơn về nội dung, đặc biệt là những nội dung pháp luật mới, có
ảnh hưởng đến chính quyền địa phương, và chức danh mà CBCC đó được
đảm nhận.
Đối với quá trình GDPL cho CBCC ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức pháp luật theo một chương trình tương ứng, việc GDPL cho CBCC còn
được thực hiện thông qua các lớp tập huấn theo chuyên đề, các hội nghị giới
thiệu hoặc triển khai các văn bản. Hiện nay trình độ năng lực của CBCC cơ sở
có nhiều bất cập, vì vậy khi tiếp thu, triển khai các chủ trương, chính sách

lớn của Đảng và nhà nước còn có những chỗ làm còn sai lệch, tùy tiện. Vì thế
khi GDPL cho CBCC cần chú ý đến đặc điểm CBCC là những người vừa tiếp
thu lại là người lãnh đạo xã hội, vấn đề GDP phải mang tính thường xuyên,
liên tục và đảm bảo được sư tiếp thu cao. Không những vậy, khi GDPL cho
CBCC cần phải gắn liền với trực trạng của địa phương nơi CBCC đang làm
việc, vừa đảm bảo tính thực tế lại vừa đảm bảo các chủ trương và chính sách
của nhà nước được thực thi.
Một trong những đặc điểm quan trọng trong GDPL cho CBCC cần chú
trọng đến việc thường xuyên đổi mới hình thức cũng như nội dung của
phương pháp GDPL. Việc thay đổi thường xuyên hình thức GDPL sẽ làm
phong phú và đa dạng những nội dung cần truyền tải. Tuy nhiên cũng cần lưu


24
ý đặc điểm quan trọng trong GDPL cho CBCC đó chính là cần lưu ý đặc
điểm, CBCC vừa là đối tượng GDPL nhưng cũng là chủ thể thực thi pháp
luật. Vì vậy, khi GDPL cho CBCC cần chú trọng hơn đến đặc điểm này.
Trong công tác giáo dục pháp luật cho CBCC phải bắt đầu từ việc rà
soát, phân loại trình độ kiến thức pháp luật của cán bộ, công chức để có kế
hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với từng loại, từng đối
tượng, để có phương pháp và thời gian cho thích hợp. Cùng với việc đẩy
mạnh công tác phổ biến tuyên truyền, giáo dục pháp luật, cần chú trọng giáo
dục đạo đức và giáo dục chính trị, lý tưởng cách mạng cho cán bộ, công chức;
hình thành ở họ phẩm chất chính trị tốt, có lý tưởng cách mạng, có thái độ tôn
trọng pháp luật.
1.1.2.3. Phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
Phương pháp giáo dục nói chung dưới góc độ lý luận dạy học được hiểu
là cách thức, biện pháp sử dụng để truyền đạt và lĩnh hội của nhà giáo dục
nhằm đạt đến mục đích giáo dục. Trên cơ sở quan niệm này phương pháp
giáo dục pháp luật được hiểu là tổng thể cách thức, biện pháp mà chủ thể và

đối tượng giáo dục pháp luật sử dụng để nhằm thỏa măn mục đích truyền đạt
và lĩnh hội nội dung giáo dục pháp luật.
Hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào nội
dung mà cgòn phụ thuộc vào phương pháp giáo dục pháp luật. Bởi vì, để
truyền tải được nội dung giáo dục pháp luật đ gòi hỏi chủ thể giáo dục pháp luật
phải có cách thức, biện pháp tác động phù hợp với khả năng tiếp nhận của đối
tượng. Có phương pháp giáo dục pháp luật tốt là một trong những yếu tố
quyết định chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật.
Đối với quá trình GDPL cho CBCC có những phương pháp khác biệt so
với những đối tượng giáo dục khác. Nhưng trước tiên phải khẳng định rằng
không có một phương pháp GDPL nào là phương pháp tối ưu nhất, bởi vì có
nhiều lý do khác nhau:


25
- Thứ nhất, mỗi CBCC ở các địa phương có một đặc điểm khác nhau;
những đặc điểm thuộc về vùng miền có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
CBCC.
- Thứ hai, mỗi chức danh CBCC được đảm nhận có những đặc điểm
riêng, ngoài những hiểu biết pháp luật chung nhất thì đều cần thiết đi chuyên
sâu vào những văn bản pháp luật có liên quan đến ngành, lĩnh vực chuyên
môn mà CBCC đó đảm nhận, phụ trách.
Vì thế, để có những phương pháp GDPL cho đội ngũ CBCC đạt được
hiệu quả cao ngoài việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức pháp luật theo chương
trình tương ứng với từng chức danh CBCC, việc GDPL có thể thực hiện bằng
phương pháp thông qua các lớp tập huấn chuyên đề (hình thức nói, truyền
đạt), các hội nghị giới thiệu hoặc triển khai các văn bản, qua tài liệu phát tờ
rơi thông qua các đợt tuyên truyền và phổ biến GDPL. Phương pháp GDPL
tốt thì sẽ đạt được những hiệu quả nhất định từ công tác GDPL.
1.2. Nội dung và hình thức giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ

công chức cơ sở
1.2.1. Nội dung giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
Quá trình giáo dục pháp luật cho CBCC phải có những nội dung nhất
định, nội dung giáo dục không chỉ gắn liền với thực tiễn của công việc hàng
ngày, mà nó còn phải đảm bảo đi chuyên sâu vào các nội dung của các văn
bản pháp luật. Việc xác định đúng nội dung GDPL sẽ đảm bảo cho hiệu quả
giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao, chất lượng và hơn hết với hiệu quả đạt
được sẽ giúp cho CBCC hoàn thành tốt nhiệm vụ mà mình được giao.
Điều 10 Luật phổ biến giáo dục pháp luật quy định nội dung phổ biến,
giáo dục pháp luật bao gồm:
1. Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là
các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia
đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo
dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của


×