Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở huyện nghi lộc, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.48 KB, 98 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN ĐÌNH NAM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ SỞ ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN NGHI LỘC,

TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN ĐÌNH NAM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ SỞ ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH

NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: LL & PPDH Bộ mơn Chính trị

Mã số: 60 14 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH TRUNG THÀNH

3

LỜI CẢM ƠN

Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ này là kết quả của cả quá trình học
tập và nghiên cứu khoa học tại Khoa Chính trị - Trường Đại học Vinh.

Vấn đề giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật cho
cán bộ, cơng chức cơ sở nói riêng là một vấn đề khơng mới, nhưng
mang tính thực tiễn cao, nhất là giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước hiện nay.
Do nhiều điều kiện khác nhau và nhất là do trình độ cịn nhiều hạn chế
nên em khơng có tham vọng đi sâu và giải quyết tất cả các vấn đề liên
quan đến công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở hiện nay, nhất là đối với huyện Nghi Lộc - một vùng quê còn gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy, những trang viết trong Luận văn này chỉ là
những kết quả bước đầu, cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung, làm rõ
hơn trong thực tiễn công tác.

Luận văn sẽ khơng thể hồn thành nếu khơng có sự quan tâm,
động viên và cung cấp tài liệu của các thầy, cô giáo, bạn bè, đồng
nghiệp. Và sau cùng, nhưng quan trọng nhất là TS. Đinh Trung
Thành - Người thầy, người hướng dẫn khoa học đã bỏ nhiều công sức
định hướng nội dung, hướng dẫn viết và chỉnh sửa để hoàn thiện luận
văn.


Em xin trân trọng cảm ơn TS. Đinh Trung Thành, các thầy, cơ
giáo trong khoa Chính trị, Hội đồng khoa học và bạn bè, đồng nghiệp!

4
Nghệ An, tháng 10 năm 2012

MỤC LỤC

TT Trang

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 8

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA 8

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC CƠ SỞ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI

CÁCH HÀNH CHÍNH.
1.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật 8

cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở trong giai đoạn hiện
nay.
1.2. Nội dung và hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ, 23
công chức cơ sở
1.3. Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán 28
bộ, công chức cơ sở ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
trong những năm qua

Chương 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI 50

PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO

DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG

CHỨC CƠ SỞ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH

HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ

AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
2.1. Phương hướng của công tác giáo dục pháp luật cho đội 50

ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách
hành chính ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong giai

5

đoạn hiện nay

2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục 64

pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng

yêu cầu cải cách hành chính ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ

An trong giai đoạn hiện nay

KẾT LUẬN 80


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83

CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

ANTT: An ninh trật tự
ATGT: An tồn giao thơng
CBCC: Cán bộ, công chức
CCHC: Cải cách hành chính
CNH, HĐH: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTT: Công nghệ thông tin
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
ĐLDT: Độc lập dân tộc

GDPL: 6
HĐND:
Nxb: Giáo dục pháp luật
KT - XH: Hội đồng nhân dân
UBND: Nhà xuất bản
XHCN: Kinh tế - xã hội
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Mọi hoạt động của công dân, tổ chức đều phải tuân theo các quy
định của pháp luật. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.

Mọi cơ quan tổ chức, CBCC, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp
và pháp luật” [14;132.
Cán bộ, công chức (CBCC) là các “tế bào” cấu thành nên bộ máy nhà
nước. Về mặt lý thuyết, mỗi CBCC đồng thời là một công dân, cũng phải tuân
thủ theo pháp luật. Trong q trình xây dựng nền hành chính Việt Nam trong
sạch, vững mạnh, địi hỏi phải có một đội ngũ CBCC khơng chỉ vững vàng về
bản lĩnh chính trị, có đạo đức, lối sống lành mạnh, mà cịn phải có kiến thức,
hiểu biết pháp luật ở trình độ cao, phải nắm vững kiến thức pháp luật chung,
cùng với đó là kiến thức pháp luật liên quan đến chuyên môn để chấp hành và
vận dụng pháp luật vào thực tế trong quá trình tiếp xúc, làm việc với nhân
dân.

7

Trong mối quan hệ với nhân dân, CBCC cơ sở có vị trí đặc biệt quan
trọng, trực tiếp với nhân dân, là người đầu tiên giải quyết các yêu cầu của
nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của
mình, đồng thời là người tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Vì vậy, CBCC cơ sở là chủ
thể giáo dục pháp luật (GDPL), là người có trách nhiệm tuyên truyền, GDPL
cho nhân dân thông qua công tác chun mơn, nghiệp vụ của mình ở cơ sở.
Nếu CBCC cơ sở có trình độ hiểu biết pháp luật tồn diện, sâu sắc, có thái độ
tơn trọng pháp luật, chấp hành pháp luật nghiêm túc thì q trình thực thi
cơng vụ ở cơ sở đạt hiệu quả cao, hiệu quả GDPL cho nhân dân sẽ cao hơn.
Ngược lại, nếu CBCC cơ sở không hiểu biết pháp luật, coi thường pháp luật
sẽ có tác động tiêu cực tới q trình quản lý Nhà nước, dẫn tới vi phạm kỷ
luật, kỷ cương phép nước bị bng lỏng, làm mất lịng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước.

Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những thử thách đối

với đội ngũ CBCC nói chung, CBCC cơ sở nói riêng đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính (CCHC), xây dựng nền hành chính Việt Nam trong sạch,
vững mạnh. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam nêu rõ: “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong
sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, trong suốt, hiệu lực, hiệu quả.
Thực hiện chương trình tổng thể CCHC và hiện đại hóa nền hành chính quốc
gia” [16;142. Điều đó địi hỏi đội ngũ CBCC cơ sở phải được trang bị một
cách có hệ thống các kiến thức pháp luật, thành thạo về chuyên mơn nghiệp
vụ và có tinh thần cơng vụ cao để có thể xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh từ
thực tiễn của cuộc sống.

Nhận thức được tầm quan trọng cơng tác GDPL và vai trị của đội ngũ
CBCC cơ sở, trong thời gian qua, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đã quan tâm

8

đến công tác GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở và đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận. Tuy nhiên, qua quá trình công tác tại huyện và thực tiễn ở cơ
sở, chúng tôi nhận thấy rằng công tác GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở cịn
gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao, đội ngũ cán bộ làm công tác GDPL
chưa đáp ứng yêu cầu; nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục cịn nhiều
lúng túng. GDPL nói chung và GDPL cho CBCC cơ sở nói riêng chưa ngang
tầm với yêu cầu của quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, vẫn cịn tình trạng
một bộ phận CBCC cơ sở hiểu biết pháp luật chưa đầy đủ, chưa nắm vững các
quy định của pháp luật, cịn để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật, quan liêu,
sách nhiễu nhân dân, thậm chí có CBCC cơ sở cố ý làm trái các quy định của
pháp luật... Điều đó đặt ra vấn đề cần phải nâng cao hiệu quả GDPL cho đội
ngũ CBCC cơ sở, để đội ngũ CBCC cơ sở nắm vững và thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ của mình, góp phần xây dựng một nền hành chính mới, mà ở đó
người dân phát huy tốt quyền làm chủ, CBCC thực sự là công bộc của nhân

dân.

Từ những vấn đề trên, chúng tôi nhận thấy rằng để đội ngũ CBCC cơ
sở có ý thức pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, đáp ứng yêu cầu
CCHC nhà nước thì vấn đề nâng cao hiệu quả GDPL cho CBCC cơ sở phải
được đặt ra một cách nghiêm túc và được giải quyết đúng đắn cả về mặt lý
luận cũng như thực tiễn. Xuất phát từ những u cầu đó, chúng tơi chọn vấn
đề: “Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ
sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ khoa học Giáo dục.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Vấn đề GDPL, GDPL cho CBCC trong giai đoạn hiện nay đã được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.

9

Nghiên cứu các vấn đề chung về GDPL đã có một số cơng trình tiêu
biểu sau: Công tác nghiên cứu lý luận về GDPL trong thời kỳ đổi mới, Lê
Văn Hoè, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 9/2008;
GDPL ở Thái Bình thực trạng và giải pháp, Nguyễn Hồng Quyên, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 9/2010; Cơng tác tun truyền, phổ
biến GDPL ở tỉnh Bình Phước, Phan Xuân Linh, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, Bộ Tư pháp, Số 3/2011. Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đào
Trí Úc chủ biên, Hà Nội, 1995; Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và
lối sống theo pháp luật, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật; Cần nâng
cao ý thức pháp luật cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, Hoài Nam, Dân chủ và
Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số chuyên đề tháng 12/2009. Sổ tay nghiệp vụ phổ
biến giáo dục pháp luật, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật tỉnh Nghệ An - Sở tư pháp, Vinh 2009.


Nghiên cứu về GDPL cho CBCC tiêu biểu có các cơng trình nghiên
cứu sau đây: GDPL cho CBCC hành chính ở nước ta hiện nay, Nguyễn Quốc
Sửu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 7/2010; Đổi mới
phương pháp và hình thức GDPL cho CBCC hành chính; Nguyễn Quốc Sửu;
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 5/2011; Các yếu tố ảnh hưởng
tới hoạt động GDPL cho CBCC hành chính ở nước ta hiện nay, Nguyễn Quốc
Sửu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện nhà nước và pháp luật, Số 4/2010;
GDPL cho CBCC cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Bưởi,
Trường Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh. Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật
cho cán bộ đồng bào dân tộc và miền núi trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn
2011 – 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An, 2011; Hỏi đáp pháp luật cho
người dân cơ sở, Sở Tư pháp Nghệ An, 2009. Nghiệp vụ phổ biến, giáo dục
pháp luật cho cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Sở Tư pháp, 2009;
Kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 32 – CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo

10

của Đảng trong công tác phổ biến GDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Sở Tư pháp Nghệ An,
2009.

Ngồi ra, cịn một số cơng trình nghiên cứu khác đã được đăng ở các
tạp chí, các báo ở Trung ương và địa phương.

Những công trình trên đã có nhiều đóng góp quan trọng khơng những
về mặt lý luận mà phần nào kết quả nghiên cứu cịn được ứng dụng trong thực
tiễn GDPL nói chung, GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở nói riêng.

Song, dưới góc độ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học

Chính trị, việc nghiên cứu vấn đề GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở đáp ứng
yêu cầu CCHC nhà nước thì chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện. Vì
vậy, “Nâng cao hiệu quả GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở đáp ứng yêu cầu
CCHC ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” là vấn đề
có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.

Đề tài nghiên cứu của tác giả không trùng với các cơng trình khoa học
đã được cơng bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở đáp ứng yêu cầu CCHC ở
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn tập trung thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác GDPL cho
đội ngũ CBCC cơ sở đáp ứng yêu cầu CCHC.

11

- Làm rõ thực trạng công tác GDPL cho CBCC cơ sở ở huyện Nghi
Lộc, tỉnh Nghệ An trong những năm qua.

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở đáp ứng yêu cầu CCHC ở huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng
Quá trình GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở, hướng vào việc nâng cao
hiệu quả công tác GDPL đáp ứng yêu cầu CCHC.
4.2. Phạm vi
Cơ sở lý luận và thực tiễn của GDPL, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả GDPL cho CBCC cơ sở đáp ứng yêu cầu CCHC ở huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những quan điểm của Mác - Ăngghen - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về GDPL.
- Các quan điểm chỉ đạo trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước, các
chỉ thị của Bộ Chính trị, Chương trình hành động, Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học có
liên quan đến nội dung đề tài.
5.2. Phương pháp
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp mang tính chất
liên ngành, trong đó chủ yếu là kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp
lơgíc; sử dụng và kết hợp với các phương pháp khác như: phương pháp thống
kê, phương pháp phân tích, đánh giá, phương pháp tổng hợp…

12

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Trình bày tương đối có hệ thống cơ sở lý luận về GDPL cho đội ngũ
CBCC cơ sở đáp ứng yêu cầu CCHC.
- Thông qua phân tích thực trạng cơng tác GDPL cho CBCC cơ sở ở
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, đề tài cung cấp thêm những tư liệu về những

kết quả, hạn chế của công tác GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả GDPL cho đội
ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu CCHC ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
- Luận văn có thể làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, tuyên
truyền, phổ biến, GDPL.
7. Giả thuyết khoa học
Thực hiện các giải pháp như đề xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
GDPL cho đội ngũ CBCC cơ sở đáp ứng yêu cầu CCHC ở huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục pháp luật cho đội
ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.
Chương 2: Phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu
cầu cải cách hành chính ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện
nay.

13

B. NỘI DUNG
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ SỞ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật

cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Một số vấn đề chung về công tác giáo dục pháp luật cho đội
ngũ cán bộ, công chức cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm Giáo dục pháp luật
Khi bàn về khái niệm GDPL, có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng
về cơ bản có các quan điểm sau đây:

14

Quan niệm thứ nhất cho rằng, GDPL là việc phổ biến, tuyên truyền,
giới thiệu các văn bản pháp luật. Theo quan điểm này, việc GDPL thực chất
chỉ là những đợt tuyên truyền, cổ động khi có các văn bản pháp luật được ban
hành như: Hiến pháp, các bộ luật, nghị quyết, chỉ thị liên quan đến pháp
luật...., là công việc thông tin đại chúng của bộ máy tuyên truyền, là một bộ
phận của quá trình phổ biến pháp luật trong toàn xã hội.

Quan niệm thứ hai, pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung.
Mọi cơng dân đều phải có nghĩa vụ tn thủ pháp luật, do đó khơng cần đặt
vấn đề GDPL. Pháp luật khơng thể là thuộc tính tun truyền vận động,
ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các
quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài đối với những người
tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.

Quan điểm thứ ba, xem GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị,
tư tưởng, đạo đức. Điều này có nghĩa là: ý thức tuân thủ pháp luật của con
người phụ thuộc vào cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức trong xã
hội có đạt hiệu quả tốt hay không. Như vậy, theo quan niệm này thì chỉ cần
thực hiện tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức là mọi cơng dân
đã có ý thức pháp luật cao, có sự tơn trọng và tuân thủ pháp luật.


Các quan điểm trên đã nêu ra được một số khía cạnh của khái niệm
GDPL nhưng nhìn chung chưa mang tính hệ thống, cụ thể, chưa thấy hết tính
đặc thù, tồn diện, sự tác động của GDPL nên đã vơ tình hạ thấp vai trị, giá
trị xã hội của GDPL. Vì bản thân pháp luật mới ở dạng tiềm năng, là các văn
bản quy phạm pháp luật trên lý thuyết. Để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống
cần có một cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: Thứ nhất, ban hành các
văn bản pháp luật; Thứ hai, tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong quần chúng
nhân dân; Thứ ba, tổ chức thực hiện; Thứ tư, kiểm tra giám sát để từ đó điều
chỉnh pháp luật phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Trong cơ chế đó thì vai trị

15

của con người là quan trọng nhất: “Yếu tố con người là cơ bản và là linh hồn
của cơ chế” [20;14.

Quá trình con người tham gia vào việc tuân thủ pháp luật là một quá
trình rất phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan. Ở
giai đoạn này, quy phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá
nhân như khuyến khích hành vi hợp pháp và kiềm chế các hành vi trái với
pháp luật của mỗi cá nhân. Vì vậy, việc phổ biến các văn bản pháp luật chỉ
mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ để con người tuân thủ đúng pháp luật, mà
điều kiện đủ ở đây là ý thức của mỗi con người khi tham gia vào các hoạt
động pháp tuân thủ đúng luật pháp. Trong tư tưởng về xây dựng một nhà
nước pháp quyền XHCN, Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cho nên, công bố đạo
luật này chưa phải là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục
lâu dài mới thực hiện được tốt” [37;524.

Để làm rõ bản chất của khái niệm GDPL, chúng ta cần xuất phát từ
nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục theo khoa học sư phạm, để xây dựng khái
niệm GDPL. Từ đó, cho ta thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù

của GDPL với cái chung, cái phổ biến của giáo dục. GDPL vừa mang những
đặc điểm chung của giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo
dục, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ chặt
chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, đạo đức...Tính đặc
thù của GDPL cịn thể hiện ở mục đích, nội dung, hình thức và phương pháp.

Nét đặc thù của GDPL khác tương đối với các dạng giáo dục khác:
GDPL có mục đích riêng, đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức,
tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật.
GDPL có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung
cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một nhà nước nói

16

riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật, trong đó, pháp luật hiện hành
của Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng.

Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và
phương pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của GDPL. Chẳng
hạn, GDPL so với các dạng giáo dục khác, đó là q trình tác động liên tục,
thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên
đối tượng giáo dục. Vì thế, GDPL trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt từ gia đình,
nhà trường, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể
xã hội. Nhân tố con người với hành vi hợp pháp đóng vai trị chủ đạo trong
q trình tác động qua lại giữa người giáo dục (chủ thể) với người được giáo
dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ chức,
có định hướng các thơng tin pháp luật. Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc
điểm nhân thân của người được giáo dục là đòi hỏi hàng đầu đối với người
giáo dục. Đồng thời, người GDPL cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết
cách chuyển tải nó và hơn thế nữa phải là tấm gương, phải là hình mẫu trong

việc tuân theo pháp luật. Bởi vì, trong GDPL thì nguyên tắc "làm gương",
"làm mẫu" có ảnh hưởng to lớn đối với người được giáo dục.

Tóm lại: Khái niệm GDPL được xây dựng xuất phát từ nghĩa hẹp của
giáo dục và theo đó, GDPL được hiểu là hoạt động có định hướng, có tổ chức,
có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của
hệ thống pháp luật hiện hành.

Với khái niệm GDPL như đã nêu trên, ở nước ta hiện nay, việc trang
bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói quen pháp luật cho mọi cơng
dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó
trước hết thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục, đào tạo nói
chung và các cơ quan có chức năng GDPL của Nhà nước nói riêng.

17

GDPL là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt
trong việc tăng cường pháp chế XHCN. Bởi vì, GDPL là nhằm hình thành ý
thức tơn trọng, tn thủ pháp luật cho mọi cơng dân, nhằm phát huy vai trị và
hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy
mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm
Nhà nước ta thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh
đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội” [16;246. Và
chúng ta đang từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật,
trong phương hướng đó, GDPL giữ một vai trị đặc biệt quan trọng.

Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động
trong công tác GDPL là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý

thức pháp luật của CBCC và nhân dân còn thấp, "pháp luật và kỷ cương của
Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến" [46;14. Điều đó đặt ra cho chúng
ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm chiến lược của công tác
GDPL, nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh CCHC, xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân.

1.1.1.2. Khái niệm Cán bộ, Công chức cơ sở
Như chúng ta đã biết, từ khi Nhà nước xuất hiện và có sự phân chia
lãnh thổ thì vấn đề phân chia các đơn vị hành chính - lãnh thổ luôn là vấn đề
quan trọng. Ở Việt Nam, vấn đề này được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi
trọng và được quy định trong Hiến pháp - văn bản có tính pháp lý cao nhất.
Theo Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2002 và Luật tổ chức
HĐND và UBND, chính quyền địa phương được tổ chức thành 3 cấp:
Chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là
cấp tỉnh)

18

Chính quyền cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung
là cấp huyện)

Chính quyền xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã)
Chính quyền cấp xã là chính quyền gần dân nhất trong hệ thống chính
quyền 4 cấp. Gọi chính quyền cấp xã, thị trấn là chính quyền cấp cơ sở bởi
những lý do sau:
Thứ nhất, cấp này thoả mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của một cấp
chính quyền:
Được Nhà nước trao cho chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thay mặt
cho Nhà nước quản lý công việc địa phương
Có cơ chế bầu cử cán bộ địa phương

Có tính tự quản nhất định
Chịu sự kiểm sốt của chính quyền cấp trên
Thứ hai, đây là cấp chính quyền thấp nhất, khơng có cấp chính quyền
nào thấp hơn chính quyền xã, phường, thị trấn. Đây là cấp gần dân nhất, sâu
sát nhân dân nhất so với các cấp chính quyền khác.
Thứ ba, cấp xã là nền móng của bộ máy nhà nước, là cái gốc của hệ
thống chính quyền nhà nước 4 cấp.
Mặc dù là cấp thấp nhất nhưng chính quyền cơ sở có một vai trị rất
quan trọng trong hệ thống chính quyền 4 cấp và vị trí quan trọng đặc biệt
trong hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Chính quyền cơ sở là cầu nối, là nơi
giao lưu trực tiếp giữa Nhà nước và nhân dân, đồng thời cấp cơ sở là nơi biểu
hiện tập trung nhất, rõ nhất những ưu việt hay hạn chế của chế độ XHCN. Hồ
Chí Minh đã viết: “Cấp xã là cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm được thì mọi việc đều xong xuôi”. [37;371
Chính vì vậy, chất lượng hoạt động của chính quyền cấp cơ sở ảnh
hưởng trực tiếp đến uy tín, lịng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.

19

Chính quyền cơ sở là nơi thể hiện tính hiệu lực, hiệu quả của chủ
trương, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đây là nơi
trực tiếp thực thi, kiểm nghiệm và phản ánh tính hiệu lực, hiệu quả của hệ
thống thể chế, chính sách. Do đó, chất lượng của hệ thống thể chế, chính sách
phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của chính quyền cấp cơ sở.

Chính quyền cơ sở trực tiếp quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội
(KT - XH) của địa phương. Những vấn đề của địa phương mà chính quyền cơ
sở có thẩm quyền giải quyết thì chính quyền cơ sở đại diện cho nhân dân địa
phương trực tiếp giải quyết.


Chính quyền cơ sở là nơi thể hiện, đồng thời phản ánh tâm tư nguyện
vọng và lợi ích của nhân dân địa phương. Mọi chủ trương, đường lối, chính
sách đều được xuất phát từ cơ sở và hướng về cơ sở. Khơng ai khác ngồi
chính quyền cơ sở hiểu rõ và đảm nhận vai trò thu thập, phản ánh tâm tư
nguyện vọng của nhân dân địa phương; đồng thời giúp Nhà nước đề ra các
biện pháp tổ chức, quản lý phù hợp với đặc điểm của một địa phương, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân địa phương.

Trước khi có Pháp lệnh CBCC sửa đổi, bổ sung năm 2003, cán bộ cơ
sở là những người cơng tác tại bộ máy chính quyền xã, phường, thị trấn. Đó là
những người trực tiếp tham gia quản lý mọi mặt đời sống KT - XH của địa
phương, tuy nhiên họ chưa được coi là CBCC trong biên chế nhà nước, lương
của họ không phải từ ngân sách nhà nước mà do địa phương trả.

Xuất phát từ vị trí, vai trị quan trọng của chính quyền cơ sở và đội
ngũ cán bộ chính quyền cơ sở, một yêu cầu khách quan đặt ra là: đội ngũ cán
bộ xã, phường, thị trấn cần được xếp vào đội ngũ CBCC trong biên chế nhà
nước. Chính vì vậy, Luật CBCC có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 nêu rõ: Cán
bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND), Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người

20

đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; cơng chức cấp xã là công dân Việt Nam
được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp
xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Từ quy định trên có thể hiểu cán bộ, cơng chức cấp xã (cấp cơ sở) là:
Công dân Việt Nam

Được bầu cử hoặc tuyển dụng vào các vị trí cơng tác ở xã.
Trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước
Phân biệt cán bộ và công chức cấp xã:
Cán bộ do bầu cử, công chức do tuyển dụng
Cán bộ giữ vị trí cấp trưởng, phó hoặc thường trực của cơ quan Đảng,
chính quyền, đồn thể cấp xã; cịn cơng chức là những người làm chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc UBND xã.
- Phân loại CBCC cấp xã.
+ Cán bộ cấp xã:
* Cán bộ làm cơng tác Đảng: Bí thư và phó bí thư hoặc trực Đảng.
* Cán bộ làm cơng tác chính quyền: Chủ tịch, phó chủ tịch UBND,
Chủ tịch, phó chủ tịch HĐND xã.
* Cán bộ làm cơng tác đồn thể: người đứng đầu các tổ chức chính trị
- xã hội: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Bí thư Đồn thanh
niên, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Chủ tịch Hội nông dân xã.
+ Công chức cấp xã:
Theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ quy định công chức cấp xã gồm có 7 chức danh sau:
“Trưởng Cơng an xã; Xã đội trưởng; Tài chính - kế tốn; Địa chính - nơng
nghiệp, xây dựng và mơi trường; Tư pháp - hộ tịch; Văn hố - xã hội; Văn
phịng - thống kê".


×