Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sự tác động và ảnh hưởng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.08 KB, 20 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn phấn đấu hướng tới mục tiêu xây dựng
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng để có một
xã hội như vậy không phải tự nhiên mà có. Thực tế đã chứng minh rằng việc
phát triển kinh tế là một việc vô cùng khó khăn, đó là cuộc chạy đua sôi động
giữa các nước trên thế giới nhằm đạt được một vị trí cao hơn trên trường quốc
tế. Muốn thực hiện được điều đó thì trong chính sách phát triển của mỗi quốc
gia đòi hỏi phải được dựa trên một nền tảng cơ sở lý thuyết vững chắc về các
quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật giá trị.
Vì sao lại nói quy luật giá trị là quy luật quan trọng nhất? Và đối với
nước ta hiện nay nền kinh tế thị trường chịu ảnh hưởng của quy luật này như thế
nào? Nếu trả lời được câu hỏi trên hay nói cách khác là nghiên cứu quy luật giá
trị thì ta nhận định được thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, từ đó có
được những lí giải chung về những tồn tại, những tiến bộ cũng như hướng phát
triển. Mặt khác, tác động của quy luật giá trị tùy thuộc vào trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất Xã hội chủ
nghĩa và vào khả năng nhận thức vận dụng và tổ chức các hoạt động kinh tế
thực tiễn của nhà nước. Hơn nữa, quy luật giá trị là sự tác động khách quan, khả
năng con người nhận thức và vận dụng quy luật sẽ quy định tính chất tiêu cực
hay tích cực mà việc vận dụng nó sẽ mang lại cho xã hội. Vì vậy, tìm hiểu về
“Sự tác động và ảnh hưởng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam” để có thể áp dụng được nó một cách khoa học hiệu quả, tận dụng
một cách tối ưu nhất những ưu điểm khi tham gia vào nền kinh tế đất nước là
mục tiêu nghiên cứu của bài tiểu luận này.
Trên đây là những vấn đề sẽ được em phân tích trong bài viết của mình,
những nội dung đó ngoài Lời mở đầu và Kết luận sẽ được đề cập trong ba phần
sau:
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần I. Tổng quan về quy luật giá trị với nền kinh tế thị trường


Phần II. Sự tác động và ảnh hưởng của quy luật giá trị tới nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Phần III. Một số giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị với
nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Với những kiến thức đã được trang bị, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình
của cô Nguyễn Thị Trâm, và việc tìm hiểu, tham khảo qua báo chí, Internet…em
làm chủ đề này. Tuy nhiên, vì kiến thức của em có hạn nên bài viết không tránh
khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo và giúp đỡ
của cô để có kinh nghiệm làm bài tốt hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần I
TỔNG QUAN QUY LUẬT GIÁ TRỊ VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

I. Khái niệm về quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng
của quy luật giá trị.
II. Vai trò của quy luật giá trị
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào khi tồn tại trong tự nhiên đều tuân theo
những quy định nhất định. Những quy luật này chi phối tới cả quá trình hình
thành và phát triển của mỗi sự vật hiện tượng.
Và tất nhiên, nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói
riêng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Theo thời gian, nền kinh tế không
ngừng biến đổi. Nó liên tục phân chia và hình thành thêm nhiều thành phần kinh
tế mới có những định hướng khác, có những đặc điểm và quy định riêng biệt đối
với các thành viên tham gia trong nền kinh tế đó. Chúng giống nhau là nhìn bề
ngoài tưởng như sản xuất và trao đổi hàng hóa là việc riêng của mỗi thành viên
họ độc lập và hình như không chịu sự chi phối nào. Trên thực tế, mọi người sản

xuất và trao đổi hàng hóa đều chịu sự chi phối của quy luật giá trị.
Vì vậy, quy luật giá trị có các tác dụng chủ yếu sau:
1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
Điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh, phân bổ các yếu tố
như: tư liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác, từ
nơi này sang nơi khác. Nó làm cho sản xuất hàng hóa của ngành này, nơi này
được phát triển mở rộng, ngành khác nơi khác bị thu hẹp, thông qua sự biến
động giá cả thị trường. Từ đó, tạo ra những tỉ lệ cân đối tạm thời giữa các
ngành, các vùng của một nền kinh tế hàng hóa nhất định.
Quy luật thể hiện ở chỗ: cung và cầu thường xuyên muốn khớp với nhau
với nhau mà thường xuyên tách, nhưng từ trước đến nay có chưa hề ăn khớp
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhau mà đối lập với nhau, cung luôn bám sát cầu. Chính vì thế thị trường xảy ra
các trường hợp sau đây:
- Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hóa, trường hợp này xảy
ra một cách ngẫu nhiên và rất hiếm.
- Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi
cao. Những người đang sản xuất những loại hàng hóa này sẽ mở rộng quy mô
sản xuất, những người đang sản xuất hàng hóa khác thu hẹp quy mô sản xuất
của mình để chuyển sang loại hàng hóa bán chạy này. Như vậy, tư liệu sản xuất,
sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành tăng lên, cung về loại hàng hóa
này trên thị trường tăng lên.
- Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa ế thừa, không
tiêu thụ được, có thể lỗ vốn. Tình hình này bắt buộc những người đang sản xuất
loại hàng này phải thu hẹp quy mô sản xuất, chuyển sang sản xuất mặt hàng
khác có giá trị trên thị trường.
Thực chất của điều tiết lưu thông trong quy luật giá trị là điều chỉnh một
cách tự phát khối lượng hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, tạo ra
mặt bằng giá cả xã hội. Giá trị của hàng hóa thay đổi, thì những điều kiện làm

cho tổng khối lượng hàng hóa có thể tiêu thụ được cũng sẽ thay đổi.
“… Khi thực hiện quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa trong xã hội gồm
những người sản xuất trao đổi hàng hóa cho nhau, sự cạnh tranh lập ra bằng
cách đó và trong điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và một tổ chức duy nhất
có thể có của nền sản xuất xã hội. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng hóa mà
những người sản xuất hàng hóa riêng lẻ
(1)
biết được rõ ràng là xã hội cần vật
phẩm vào và với số lượng bao nhiêu”.
2. Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí sản xuất, tăng năng suất lao động,
lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn.
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể
kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
(1)
Trích dẫn "Tư bản", quyển III, NXB Chính trị quốc gia, 1978, tr.309
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác
nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động
xã hội của hàng hóa ở thế có lợi, thu được lãi cao. Còn ngược lại, người sản
xuất có hao phí lao động các biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa
thì người sản xuất đó ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành được ưu thế trong cạnh
tranh và thu được lợi nhuận cao, tránh được nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ
thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội
cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kĩ thuật, cải tiến tổ chức
quản lí, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh
quyết liệt ngày càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã
hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn.
3. Phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu, người nghèo
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là những

người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kĩ
thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết, nhờ đó mà giàu lên nhanh chóng. Họ mua thêm trang thiết bị kĩ thuật hiện
đại mở rộng sản xuất, kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện
thì họ làm ăn kém, hoặc gặp rủi ro nên bị thô lỗ dẫn tới phá sản, nghèo khó.
Sự bình tuyển tự nhiên ấy đã phân hóa những người sản xuất kinh doanh
ra thành người giàu, người nghèo. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hóa đã
chỉ ra là quá trình phân hóa này đã làm cho sản xuất hàng hóa giản đơn trong xã
hội phong kiến dần dần nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
“…Mỗi người đều sản xuất riêng biệt cho lợi ích riêng của mình, không
phụ thuộc vào nhà sản xuất khác. Họ sản xuất cho thị trường nhưng dĩ nhiên
không một người nào trong số họ biết được dung lượng của thị trường. Mối
quan hệ như vậy giữa những người sản xuất riêng rẽ, sản xuất cho thị trường
chung thì gọi là cạnh tranh. Dĩ nhiên, trong những điều kiện ấy, sự thăng bằng
giữa sản xuất và tiêu dùng chỉ có thể có được sau nhiều lần biến động. Những
người khéo léo hơn, tháo vát hơn và có sức lực hơn sẽ ngày càng lớn mạnh và
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhờ những biến động ấy, còn người yếu ớt, vụng về sẽ bị biến động đó đè bẹp.
Một vài người trở nên giàu có, còn quần chúng trở nên nghèo đói, đó là kết quả
không tránh khỏi của quy luật cạnh tranh. Kết cục là những người sản xuất bị
phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họ và trở thành công nhân làm
thuê trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ”.
(2)
Phần II.
SỰ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TỚI NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
(2)
Theo Lênin "Bàn về vấn đề cái gọi là thị trường", tr.127
6

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển ở Việt Nam
1. Khái niệm
Kinh tế thị trường là sự phát triển cao hơn của kiểu tổ chức kinh tế - xã
hội mà hình thái phổ biến là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế khách quan do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định, trong đó toàn bộ quá trình từ sản xuất tới trao đổi,
phân phối và tiêu dùng đều thực hiện thông qua thị trường.
Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là các chủ thể tự do lựa chọn các
hình thức sở hữu, phương thức sản xuất kinh doanh, ngành nghề mà luật pháp
không cấm. Mọi hoạt động kinh tế đều diễn ra theo quy luật của nó, sản xuất và
bán hàng hóa theo yêu cầu của thị trường, bán cái gì mà thị trường cần chứ
không phải bán cái mà mình có, tiền tệ hóa các quan hệ kinh tế, các chủ thể
được theo đuổi lợi ích chính đáng của mình.
2. Sự cần thiết của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường
Để tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
đó thì hệ thống kinh tế đều được tổ chức một cách hợp lí bằng nhiều cách khác
nhau nhằm sản xuất ra hàng hóa. Việc sản xuất hàng hóa phải được tiến hành
theo những phương pháp tốt nhất, phân phối hàng hóa sản xuất được sao cho
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội. Đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế -
xã hội. Trong nền kinh tế chỉ huy thì những vấn đề cơ bản đều do cơ quan Nhà
nước quyết định, còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó
do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường là xu thế tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế
xã hội. Thực tế cho thấy, không có quốc gia nào trên thế giới có nền kinh tế thị
trường phát triển lại không có sự điều hành của Nhà nước. Mỗi quốc gia có một
chính sách quản lí và phát triển kinh tế đặc thù của quốc gia đó, nhưng xét đến
cùng thì cũng không thoát khỏi quy luật chung là áp dụng các quy luật kinh tế
và vận hành chúng một cách có hiệu quả vào sự phát triển của xã hội. Nó có vai
7

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trò điều tiết nền sản xuất hàng hóa một cách hợp lí rồi từ đó gây ảnh hưởng tới
nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, quy luật giá trị có vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển kinh tế thị trường của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, nó
gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân thông qua sự điều tiết đối với
nền sản xuất hàng hóa.
II. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4 năm 2001), lần đầu tiên mô hình
Kinh tế thị trường định hướng XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của
Đảng: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận dụng theo
cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước theo địnhhướng XHCN; đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”
(3)
.
Sự khẳng định mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN xác định rõ
tính chất thị trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà nước không
những thực thi vai trò chính trị mang bản chất của XHCN mà còn là một thành
phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế độ kinh tế
mới. Đồng thời, cũng phân định kinh tế Nhà nước có nội hàm rộng lớn hơn so
với doanh nghiệp nhà nước, phân định sở hữu, thành phần và hình thức tổ chức
kinh doanh, phân định quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của
doanh nghiệp Nhà nước.
Với việc chính thức hóa các đặc điểm nêu trên đại hội đã đưa ra quan
điểm mới về thành phần kinh tế Nhà nước: thứ nhất, dựa trên chế độ sở hữu của
Nhà nước, thứ hai sở hữu Nhà nước có thể nằm trong tài sản của doanh nghiệp,
có thể nằm dưới hình thức khác nhau như ngân sách Nhà nước, tài sản công…
thứ ba, chỉ với toàn bộ sức mạnh của sở hữu Nhà nước hậu thuẫn cho chính
sách kinh tế của Nhà nước, cho quản lí của Nhà nước, cho doanh nghiệp thì Nhà
nước mới có thể định hướng và điểu tiết vĩ mô nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu

kinh tế, tức thực thi vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
(3)
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4/2001)
8

×