Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Tìm hiểu tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác của nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.31 KB, 73 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

NguyÔn ThÞ May – K31B V¨n

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
**********

NGUYỄN THỊ MAY

TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG TÀI MỆNH
TƯƠNG ĐỐ TRONG SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN DU

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI – 2009

-1-


Kho¸ luËn tèt nghiÖp

NguyÔn ThÞ May – K31B V¨n

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: NGỮ VĂN
***********

NGUYỄN THỊ MAY



TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG TÀI MỆNH
TƯƠNG ĐỐ TRONG SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN DU

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
TH.S. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG

HÀ NỘI - 2009

-2-


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

LờI CảM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của
các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam, khoa Ngữ Văn, trường ĐHSP
Hà Nội 2. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, các cô đặc biệt là cô
giáo Nguyễn Thị Việt Hằng, người đã trực tiếp tận tình giúp đỡ để tôi hoàn
thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2009

Tác giả khoá luận
Nguyễn Thị May

-3-


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Lời cam đoan

Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của cô
Nguyễn Thị Việt Hằng. Tôi xin cam đoan khoá luận này chưa từng được
công bố trong một công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2009
Tác giả khoá luận
Nguyễn Thị May

-4-


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Mục lục
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài1

2. Lịch sử vấn đề.2
3. Mục đích và nhiệm vụ6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu6
6. Đóng góp khoá luận...7
7. Bố cục khoá luận........7
Nội dung
Chương 1: Tác giả - tác phẩm.
1.1.Tác giả8
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử...8
1.1.2. Gia thế và bản thân.9
1.2. Tác phẩm.12
Chương 2: Tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác
của Nguyễn Du.
2.1. Khái quát về tư tưởng tài mệnh tương đố...15
2.1.1. Tư tưởng tài mệnh tương đố trong quan niệm của
Nho giáo Trung Quốc.15
2.1.2. Tư tưởng tài mệnh tương đố trong quan niệm của
nho sĩ Việt Nam..16
2.2. Tư tưởng tài mệnh tương đố trong Truyện Kiều.18
(Từ lý thuyết đến hình tượng nghệ thuật và kết cấu cốt truyện)
2.2.1. Lý thuyết..18

-5-


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn


2.2.2. Hình tượng nghệ thuật..21
2.2.2.1. Nhân vật Thuý Kiều....21
2.2.2.2. Các nhân vật khác.36
2.2.3. Kết cấu cốt truyện......48
2.3. Tư tưởng tài mệnh tương đố trong thơ chữ Hán....53
2.3.1. Nhân vật hồng nhan...53
2.3.2. Nhân vật khách văn chương...58
Kết luận

64

Tài liệu tham khảo

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

-6-


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Hơn mười thế kỉ trải dài của Văn học Việt Nam không ai có thể vượt
được Nguyễn Du - đó là điều có thể khẳng định cho đến thời điểm hôm
nay(Phong Lê). Nguyễn Du đã trở thành cây đại thụ mà bóng mát của nó đã
trải dài xuống cánh đồng Văn học Việt Nam và là tên tuổi được thế giới biết
đến nhiều nhất. Như một mạch nguồn không bao giờ vơi cạn, cuộc đời, sự
nghiệp văn chương của ông vẫn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của nhiều

tác giả trong và ngoài nước. Tác phẩm được giới phê bình nghiên cứu quan
tâm nhiều nhất, được xếp vào hàng kiệt tác thế giới là Truyện Kiều. Bên cạnh
Truyện Kiều, Văn chiêu hồn và thơ chữ Hán của ông cũng được đánh giá rất
cao: có thể để cùng hàng với thơ Cao Bá Quát và có thể đem so sánh với thơ
Đường (Đào Duy Anh). Đối với một tác phẩm lớn, một tác phẩm có giá trị thì
con đường khám phá của nó là khôn cùng. Mỗi cách tiếp cận riêng, ở mỗi góc
độ khác nhau, tác phẩm lại mở ra nhiều điều độc đáo, mới lạ. Tìm hiểu tác
phẩm từ góc độ Nho giáo hay cụ thể hơn là từ tư tưởng tài mệnh tương đố
cũng là một cách giúp ta đi vào khám phá chiều sâu tư tưởng của tác phẩm và
khẳng định tài năng của Nguyễn Du.
Tìm hiểu tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác của Nguyễn Du
là một đề tài khá hấp dẫn và thú vị . Bởi vì tìm hiểu đề tài này sẽ giúp ta thấy
được quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người của Nguyễn Du. Đằng
sau những ngôn từ có vẻ thần bí ấy là cả một hiện thực xã hội được ngòi bút
của tác giả bóc tách, phơi bày. Đây là điều không phải tác giả nào cũng làm
được. Từ đó thấy được tài năng lớn, sự tiến bộ vượt thời đại của thiên tài
Nguyễn Du.
Nguyễn Du và tác phẩm của ông còn là đối tượng được giảng dạy trong
nhà trường THCS và THPT. Là một giáo viên tương lai, nghiên cứu đề tài
Tìm hiểu tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác của Nguyễn Du sẽ cung
cấp cho chúng tôi một vốn kiến thức nhất định phục vụ cho công tác giảng dạy
và nghiên cứu sau này.

-7-


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn


Trên đây là những lí do chính khiến chúng tôi lựa chọn đề tài Tìm hiểu
tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác của Nguyễn Du để nghiên cứu,
xem xét.
2. Lịch sử vấn đề
Tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác của Nguyễn Du không phải
là một vấn đề mới mẻ. Đã có rất nhiều công trình, bài viết đề cập đến vấn đề
này. Có thể kể ra một số công trình bài viết tiêu biểu như:
Phạm Quý Thích (1759 - 1825), một nhà nho cùng thời với Nguyễn Du
trong bài Đoạn trường tân thanh đề từ cho rằng cuộc đời của Thuý Kiều chịu
sự ảnh hưởng của tư tưởng tài mệnh tương đố:
Đoạn trường mộng lí căn duyên liễu
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường
Nhất phiến tài tình thiên cổ luỵ
Tân thanh đáo để vị thuỳ thương.
(Nửa giấc đoạn trường tan gối điệp
Một dây bạc mệnh dứt cầm loan
Cho hay những kẻ tài tình lắm
Trời bắt làm gương để thế gian.)
Còn Mộng Liên Đường chủ nhân, một người gần như đồng thời với
Nguyễn Du khi viết Tựa tập Đoạn trường tân thanh đã xem tài mệnh tương đố
là câu chuyện quan trọng nhất của Truyện Kiều: Thúy Kiều khóc Đạm Tiên,
Tố Như Tử làm Truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một,
người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai
chữ tài tình thật là một cái thông lụy của bọn tài tử trong khắp gầm trời và
suốt cả xưa nay vậy [20, tr.169]. Quan sát này của Mộng Liên Đường chủ
nhân còn giúp chúng ta hiểu đúng bài thơ chữ Hán Độc Tiểu Thanh kí của
Nguyễn Du và nhìn thấy sự liền mạch trong suy nghĩ, cảm xúc của nhà thơ từ

-8-



Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

những sáng tác bằng chữ Hán đến Truyện Kiều về thân phận những người tài
sắc, tài tình nói chung.
Năm 1943, Đào Duy Anh trong cuốn Khảo luận về Kim Vân Kiều khi
phân tích tư tưởng Truyện Kiều đã khẳng định tài mệnh tương đố là tưởng chủ
yếu của tác phẩm : Ta đã biết rằng tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Du trong
sách này là tài mệnh tương đố, tư tưởng ấy làm cái nòng cốt tinh thần cho
toàn truyện mà mỗi một chương, mỗi một tiết, mỗi một đoạn chỉ là minh
chứng cho nó thôi [20, tr.398].
Năm 1965, nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh thi hào Nguyễn Du
các nhà phê bình nghiên cứu lại tiếp tục nghiên cứu tác phẩm của ông dưới
nhiều góc độ. Trên bình diện triết lý, Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết Triết lí
Truyện Kiều cũng khẳng định khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có vận dụng
thuyết tài mệnh tương đố để giải thích cuộc đời gian truân của nàng Kiều. Ông
viết: Mâu thuẫn giữa tài và số mệnh tập trung ở nàng Kiều [20, tr.548].
Năm 1978, Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ
XVIII - hết thế kỉ XIX khi nhìn nhận về mức độ và tính chất xâm nhập của tư
tưởng định mệnh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du khẳng định: Tư tưởng
định mệnh rõ ràng không phải chỉ là lời thuyết lí của tác giả rải rác đó đây,
mà một chừng mực nào đó đã xâm nhập vào nội dung hình tượng của tác
phẩm, vào diễn biến, kết cấu của câu chuyện [15, tr.381].
Tiếp tục tìm hiểu về vấn đề này, năm 1984, Đỗ Đức Dục trong bài viết
Tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du cho rằng Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là
ghét nhau (quan niệm tài mệnh tương đố) cũng là một tuyên ngôn sáng tác
của Nguyễn Du. Tư tưởng này không chỉ thể hiện trong Truyện Kiều mà còn
đặt ra thường xuyên trong thơ chữ Hán.

Năm 1997, Đặng Thanh Lê trong cuốn Giảng văn Truyện Kiều, phân
tích về nội dung Truyện Kiều cũng cho rằng có một mối quan hệ giữa con

-9-


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

người với thế lực siêu hình - đó là mệnh trời - một trong những học thuyết cơ
bản của Nho gia mà Nguyễn Du đã nêu ra ở đoạn đầu và tiếp tục thuyết minh
ở đoạn kết thúc [11, tr.17].
Đến những năm gần đây, đa số những nhà nghiên cứu lại có cách nhìn
khác nhau đối với câu chuyện tài mệnh ghét nhau trong sáng tấc của Nguyễn
Du. Năm 2001, Phan Ngọc trong cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong
Truyện Kiều, khi nói về câu chuyện tài mệnh tương đố đã chứng minh tư
tưởng này là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du so với Kim Vân Kiều
truyện. Ông chứng minh tài mệnh tương đố là vấn đề của riêng thời đại của
Nguyễn Du chứ không phải của nguyên tác: Kim Vân Kiều truyện , tác phẩm
Nguyễn Du dựa vào để viết Truyện Kiều, không hề xây dung trên thuyết tài
mệnh tương đố. Trái lai, tư tưởng chủ đạo của nó là tình và khổ Tư tưởng
gắn liền tình với khổ không phải là tư tưởng chủ đạo của Truyện Kiều [19,
tr.42]. Phan Ngọc đếm thấy thuyết tài mệnh tương đố được nhắc lại 16 lần
trong tác phẩm. Qua phân tích lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX, ông chỉ ra rằng: Truyện Kiều phản ánh thời đại của nó và tư
tưởng tài mệnh tương đố là vay mượn ở chính thời đại chứ không phải là một
sáo ngữ như ta vẫn tưởng [19,tr.66].
Năm 2002, Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều cho rằng
thân mệnh tương đố mới là cảm hứng chủ đạo của Truyện Kiều chứ không

phải tài mệnh tương đố. Bảo rằng tài mệnh tương đố là chủ đề của Truyện
Kiều thì chủ đề này không có tính phổ quát được bởi vì không phải ai ai cũng
có tài Muốn sử dụng cơ chế Phật Giáo để nâng tầm cao khái quát thì phải
dùng chữ thân và chữ khổ- có thân là có nghiệp, có nghiệp là có khổ! Mà đã
chuyển sang chữ thân thì chủ đề chính không còn là tài mệnh tương đố nữa!
Chữ thân là phổ quát nhất. Bởi ai mà chẳng có thân!... Than thân, xót thân là
một chủ đề văn học phổ biến trong thơ ca cổ điển và trong ca dao dân tộc.

- 10 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Nguyễn Du đã chuyển chủ đề tình khổ sang tâm khổ, thân khổ, chuyển tài
mệnh tương đố sang thân mệnh tương đố, biến một chuyện tài tình bất hủ
thành một tiếng đoạn trường, một tiếng kêu thương [23, tr.143-144].
Công trình nghiên cứu phân tích thấu đáo, đầy đủ nhất về vấn đề tài
mệnh tương đố trong sáng tác của Nguyễn Du của tác giả Trần Nho Thìn Cuốn Văn học trung đại Việt Nam - dưới góc nhìn văn hoá xuất bản năm
2002. Tác giả khẳng định Nguyễn Du khi sáng tác có ảnh hưởng của thuyết
tài mệnh tương đố. Ông chỉ ra cơ sở lịch sử xã hội nảy sinh ra học thuyết này
và sự chi phối của nó đến sáng tác của Nguyễn Du. Đặc biệt, tác giả còn chỉ ra
mối liên hệ giữa tài mệnh tương đố và thi cùng nhi hậu công: Tài mệnh tương
đố không chỉ là câu chuyện bất hạnh của những người có sắc đẹp mà còn là câu
chuyện bất hạnh của những người sống bằng tình đề cao giá trị của nghệ thuật,
của cảm xúc tức là của chính những nhà thơ như Nguyễn Du [24, tr.154].
Những công trình nghiên cứu, những bài viết trên có tính chất định
hướng, mở đường cho đề tài của chúng tôi. Mỗi công trình nghiên cứu, mỗi
bài viết mới chỉ nói đến một khía cạnh nào đó của tư tưởng này và chủ yếu

dừng lại ở Truyện Kiều mà chưa nói nhiều đến thơ chữ Hán. Trên cơ sở tiếp
thu những thành tựu ấy, chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu, sắp xếp thành một hệ
thống để thấy được tư tưởng tài mệnh tương đố đã chi phối rất lớn đến thế giới
quan đến toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du từ Truyện Kiều đến thơ chữ Hán.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của thuyết tài mệnh tương đố.

- 11 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống hơn tư tưởng tài mệnh
tương đố trong sáng tác của Nguyễn Du. Từ đó thấy được tài năng và phong
cách độc đáo của Nguyễn Du trong sáng tạo nghệ thuật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận của thuyết tài mệnh tương đố.
Tìm hiểu sự thể hiện tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác của
Nguyễn Du.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là Truyện Kiều và thơ chữ Hán của
Nguyễn Du.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng
tác của Nguyễn Du. Tuy nhiên, để làm sáng tỏ hơn vấn đề mà bài viết đặt ra

chúng tôi có liên hệ, so sánh với một số tác phẩm ngâm khúc (Chinh phụ
ngâm, Cung oán ngâm khúc) và truyện Nôm tài tử giai nhân của các nhà thơ
khác (Truyện Song Tinh, Truyện Tây Sương, Ngọc Kiều Lê tân truyện) đặc
biệt là tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử phát sinh.
- Phương pháp đối chiếu so sánh.
- Phương pháp phân tích, bình giảng.
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống.
6. Đóng góp của khoá luận
Xây dựng thành hệ thống cơ sở lý luận của thuyết tài mệnh tương đố.

- 12 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Chỉ ra sự chi phối của tư tưởng tài mệnh tương đố đến hệ thống sáng tác
của Nguyễn Du. Qua đó, giúp hiểu rõ hơn nội dung tư tưởng trong các tác
phẩm và sự tiến bộ của Nguyễn Du so với các nghệ sĩ cùng thời.
7. Bố cục của khoá luận
Khoá luận gồm ba phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm hai chương:
Chương 1: Tác giả và tác phẩm
Chương 2: Tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác của Nguyễn Du
Phần kết luận


Nội Dung
Chương 1

- 13 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Tác giả - Tác phẩm
1.1. Tác giả
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Nguyễn Du sống và sáng tác vào nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ
thứ XIX. Đây là thời kì chế độ xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng không có lối thoát. Những mâu thuẫn chất chứa trong
lòng xã hội phong kiến đến giai đoạn này bộc lộ gay gắt. Đó là mâu thuẫn
trong nội bộ giai cấp thống trị và mâu thuẫn giữa nông dân với vua chúa
phong kiến. Giai cấp thống trị lúc này lao vào ăn chơi sa đoạ, không chăm lo
đến việc triều chính mà tranh giành chém giết lẫn nhau. Chúa Trịnh tiếm
quyền vua Lê, đặt ra Trịnh phủ để giải quyết mọi việc chính sự còn vua Lê chỉ
ngồi làm vì. Vua tôi lẫn lộn, cương thường đảo ngược, mọi giá trị văn hoá bị
đứt tung. Nho giáo là sợi dây để cố kết xã hội cũng bị lung lay. Các giá trị văn
hoá mới chưa hình thành hoặc hình thành yếu ớt nên chúng chưa có vai trò,
tác dụng trong việc xây dựng một hệ giá trị tinh thần mới cho dân tộc. Trong
bối cảnh đó, các nhà văn, nhà thơ thời kì này không còn cách nào khác là phải
quay về các giá trị truyền thống. Nguyễn Du là một trường hợp tiêu biểu.
Những học thuyết của Nho giáo vẫn được Nguyễn Du tập trung thể hiện trong
sáng tác của mình. Tư tưởng tài mệnh tương đố là một trong những tư tưởng
được Nguyễn Du vận dụng để lý giải nguyên nhân gây ra số phận bất hạnh

của con người.
Sự sụp đổ của giai cấp thống trị khiến cho đời sống nhân dân vô cùng
cực khổ. Bởi vậy, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra nhằm lật đổ chính
quyền phong kiến chuyên chế, sâu mọt, thối nát. Đỉnh cao của những cuộc
khởi nghĩa này là phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ khởi xướng. Trước sự
hỗn loạn trong nội bộ giai cấp thống trị, năm 1789 nghĩa quân Tây Sơn đã kéo
ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh. Lê Chiêu Thống cùng đám tuỳ tùng bỏ
nước chạy theo tàn quân của bọn xâm lược. Nhưng chỉ trong một thời gian

- 14 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

ngắn ngủi (1789 - 1792) cuộc sống của nhân dân lại trở lại trạng thái ban đầu
với những cảnh đói rét, bất công, loạn lạcNăm 1802, Gia Long lật đổ
Nguyễn Quang Toản lên ngôi vua thiết lập một nền thống trị mới. Như vậy,
trong cuộc đời không đầy 60 năm của mình Nguyễn Du đã chứng kiến sự
hưng thịnh, suy vong của ba triều đại phong kiến: triều Lê, triều Tây Sơn, triều
Nguyễn. Sống trong tình trạng ấy, con người luôn cảm thấy bất ổn, nhất là các
nhà Nho - những con người nhạy cảm với thời cuộc. Họ cảm thấy mình bị
lãng quên, không có vị trí gì trong xã hội. Đây chính là cơ sở để họ khẳng
định tài mệnh tương đố là một vấn đề có thực.
Nguyễn Du cũng là một nhà Nho, là một con người của thời đại, ông
phải chịu nhiều phong ba bão táp của cuộc đời đồng thời phải chứng kiến bao
phen thay đổi sơn hà. Do vậy, những yếu tố lịch sử trên đã ảnh hưởng lớn đến
tư tưởng, thế giới quan của nhà thơ. Nhà thơ nhìn cuộc đời với màu sắc ảm
đạm, u tối nhiều lúc rơi vào tình trạng không có lối thoát. Đây là nguyên nhân

làm xuất hiện tư tưởng định mệnh trong các sáng tác của ông mà chủ yếu là
thuyết tài mệmh tương đố.
1.1.2. Gia thế và bản thân
Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa
bảng và làm quan to trong triều đình. Nhân dân Hà Tĩnh cho đến nay vẫn còn
lưu truyền câu ca dao ca ngợi về dòng họ này:
Bao giờ Ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước họ này hết quan.
Thân phụ thân sinh ra Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm đậu nhị giáp tiến
sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), phong chức Xuân quận công,
thường xuyên được thăng thưởng bổng lộc. Anh đầu của Nguyễn Du là
Nguyễn Khản, đậu đồng tiến sĩ, làm quan đến chức tham tụng. Các anh khác
của ông như Nguyễn Điều, Nguyễn Dao, Nguyễn Luyện, Nguyễn Nễ đều
làm quan dưới triều nhà Lê.

- 15 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Dòng họ Nguyễn Tiên Điền không chỉ nổi tiếng về truyền thống khoa
bảng mà còn đứng đầu về truyền thống văn học. Nguyễn Quỳnh, ông nội của
Nguyễn Du là một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn
Nghiễm là một sử gia đồng thời cũng là một nhà thơ. Cho đến nay, ông còn để
lại cuốn Việt sử bị lãm và hai tập thơ Xuân đình tạp vịnh và Quân trung liên
vịnh. Anh cả Nguyễn Khản giỏi thơ Nôm, hay làm thơ đối đáp với Trịnh Sâm.
Tương truyền Nguyễn Khản cũng là một trong những người dịch Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn ra tiếng Việt. Những người anh em khác của

Nguyễn Du cũng đều am hiểu thơ văn.
Truyền thống gia đình đáng tự hào ấy là nơi hun đúc nên thiên tài Nguyễn
Du, là điều kiện để tài năng văn học của ông sớm nảy nở và phát triển.
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Du đã nổi tiếng thông minh. Tuổi thơ của ông trôi
qua êm đềm trong cảnh vàng son nhung lụa nên có điều kiên để học hành, rèn
luyện. Sớm tiếp xúc với sách vở thánh hiền, xuất thân từ cửa Khổng sân Trình,
tư tưởng của nhà thơ chịu sự chi phối lớn của Nho giáo. Đây cũng là lý do giải
thích vì sao dấu ấn Nho giáo lại in đậm trong các sáng tác của ông nhất là học
thuyết thiên mệnh.
Sống trong phú quý giàu sang nhưng cuộc sống ấy kéo dài không lâu,
những biến cố dữ dội của thời đại và của gia đình đã nhanh chóng đẩy nhà
thơ ra giữa bão táp của cuộc đời. Năm 10 tuổi mồ côi cha, 12 tuổi mồ côi mẹ.
Bốn anh em cùng mẹ chưa ai đến tuổi trưởng thành nên ông phải đến sống nhờ
nhà người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Nhưng chỉ vài năm sau thì
cuộc sống gia đình Nguyễn Khản cũng xuống dốc. Lối sống phong lưu, vương
giả của người anh cả có ảnh hưởng lớn đến Nguyễn Du. Tuy làm quan cho
triều Tây Sơn nhưng Nguyễn Khản rất ham mê ca hát. Sự ham mê này được
Phạm Đình Hổ ghi rất rõ trong Vũ trung tuỳ bút :
Ông Nguyễn Khản rất thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở cũng
cứ cho nó tiền bắt hát, không lúc nào bỏ tiếng tơ trúc. Khi ông có tang quan tư

- 16 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

đồ (Nguyễn Nghiễm), ngày rỗi cũng vẫn sai con hát đồ khúc gọi là ngâm thơ
Nôm. Bọn con em quý thích đều bắt chước chơi bời, hầu như thành thói

quen.
Chứng kiến những cảnh tượng ấy, tự đáy lòng mình Nguyễn Du đã xót
thương và đồng cảm với những kiếp cầm ca. Đây cũng là cơ sở làm nảy sinh
tư tưởng tài mệnh tương đố trong các sáng tác của ông.
Gia đình Nguyễn Khản suy sụp, Nguyễn Du phải tha phương lưu lạc bươn
trải với sóng gió cuộc đời. Sau mười năm gió bụi ở đất Thái Bình quê vợ, sau đó lại
về sống ẩn dật ở Hà Tĩnh, cuộc sống long đong chìm nổi nghèo khó này đã cho
Nguyễn Du chứng kiến bao cảnh đời, bao kiếp người. Từ sự trải nghiệm của bản
thân và những điều thu lượm được từ chính cuộc sống đã khiến nhà thơ cố gắng đi
tìm câu trả lời để lý giải cho những nguyên nhân gây ra số phận bất hạnh cho con
người và bản thân. Nhưng do lối suy nghĩ còn hạn chế - đây là hạn chế chung của
thời đại Nguyễn Du - nên ông cho rằng nguyên nhân gây ra bất hạnh cho con
người đó là một thế lực siêu hình thần bí, là số mệnh.
Nguyễn Du chấp nhận cuộc sống lưu lạc nghèo khó chứ không chịu ra
làm quan cho triều Tây Sơn khi nhà Lê đã mất. Năm 1802, Gia Long lên ngôi
Nguyễn Du ra làm quan nhưng ông coi chuyện đó như đi tha hương ở
phương trời xa lạ. Ta thấy rõ điều này trong các sáng tác bằng chữ Hán của
ông: Tha hương thân thế thác phù vân (Thu nhật ký hứng - Nam trung tạp
ngâm) hay Tha hương bạch phát bất lão tử (Tạp ngâm - Nam trung tạp
ngâm). Tâm trạng u uẩn này cộng với chốn quan trường ganh ghét, đố kỵ
khiến cho Nguyễn Du nhìn thế giới, nhìn cuộc đời đầy bế tắc, ảm đạm.
Trong thời gian làm quan dưới triều Nguyễn, Nguyễn Du được cử làm
chánh sứ sang Trung Quốc. Trong chuyến đi ấy, nhà thơ được tiếp xúc nhiều với
nền văn hoá Trung Hoa, hiểu thêm về số phận bất hạnh của các nhân vật lịch sử
như: Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch Đây là những con người tài hoa nhưng

- 17 -


Khoá luận tốt nghiệp


Nguyễn Thị May K31B Văn

gặp nhiều gian truân trong cuộc đời. Nhiều bài thơ trong Bắc hành tạp lục Nguyễn
Du đã bày tỏ sự đồng cảm của mình đối với những nhân vật này.
Tất cả những yếu tố trên bao gồm cả yếu tố thời đại gia đình và bản
thân đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du. Đồng thời, những yếu tố ấy cũng
ảnh hưởng đến thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ: Ông suy tư bằng
tất cả những gì mà thời đại ấy cấp cho ông, bằng vốn tri thức sách vở và vốn
tri thức ngoài đời, bằng ý vị suy ngẫm đầy ý vị triết học siêu hình và bằng cả
sự từng trải nơi phong trần đến chốn lầu son gác tía [24, tr.62].
1.2. Tác phẩm
Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Du để lại một khối lượng tác
phẩm không thật đồ sộ nhưng những tác phẩm ấy đã làm rạng rỡ cho nền văn
học Việt Nam. Ông sáng tác trên hai mảng chính: sáng tác bằng chữ Hán và
sáng tác bằng chữ Nôm.
Sáng tác bằng chữ Nôm bao gồm: Văn tế sống hai cô gái trường lưu,
Thác lời trai phường Nón, Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh) đặc
biệt là Truyện Kiều. Truyện Kiều được sáng tác dựa theo cốt truyện của cuốn
tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Nhưng cần phải
nhấn mạnh Kim Vân Kiều truyện không phải là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc
của văn học Trung Quốc. Nguyễn Du bằng tài năng gia công, gọt giũa lại từ
thể loại, cốt truyện đến hình tượng nhân vật truyền cho nó một sức sống lạ
thường và sức lôi cuốn diệu kì.
Truyện Kiều kể về cuộc đời bất hạnh của người con gái Vương Thuý
Kiều. Nàng là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng tài năng và sắc đẹp của
nàng đã bị các thế lực đen tối, tàn bạo của xã hội phong kiến vùi dập. Với thế
giới quan trung đại, Nguyễn Du giải thích số phận bất hạnh của Kiều là do
một lực lượng siêu nhiên quyết định.
Về mặt nội dung, Truyện Kiều đề cập đến vận mệnh mang tính bi kịch

của xã hội xưa thông qua nhân vật Thuý Kiều. Đó là bi kịch tài sắc, nhân

- 18 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

phẩm bị chà đạp, bi kịch tình yêu, bi kịch hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua đó,
tác giả thể hiện niềm cảm thông và trân trọng với những con người bất hạnh
trong xã hội xưa, đề cao phẩm giá con người. Đồng thời thể hiện những ước
mơ, khát vọng về nhu cầu giải phóng tình cảm cá nhân của con người, ước mơ
về công lý, công bằng sẽ được thực hiện trong xã hội.
Về mặt nghệ thuật, tác phẩm sử dụng thành công thể thơ lục bát, có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học làm giàu
có và sinh động cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc. Nguyễn Du còn đặc biệt
thành công trong nghệ thuật dẫn truyện và nghệ thuật miêu tả khắc hoạ chân
dung nhân vật tạo nên một thế giới nghệ thuật sinh động với đủ các loại người,
hạng người.
Bởi vậy, đọc Truyện Kiều không chỉ thấy được những vấn đề cốt lõi của
thời đại Nguyễn Du mà còn thấy cả bộ mặt của xã hội ngày nay, thấy cả mình
trong đó như nhà nghiên cứu Phong Lê từng nhận xét: Đọc Truyện Kiều
dường như ai cũng thấy mình trong đó, rất hiện đại, rất đương thời mà vẫn
trong khuôn hình cổ điển; rất cổ điển mà vẫn có sức vượt thời gian đến thời
hiện đại với người hôm nay, người bây giờ.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng tất cả tài năng và tâm huyết của
mình, dường như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ
giấy( Mộng Liên Đường chủ nhân). Tác phẩm không chỉ là bản án đanh thép
tố cáo những thế lực đã chà đạp lên nhân phẩm con người mà còn là tiếng nói

cảm thông, bênh vực cho số phận nhỏ bé của con người trong xã hội xưa đặc
biệt là người phụ nữ. Vì thế nên tác phẩm vừa có giá trị hiện thực lại vừa có
giá trị nhân đạo sâu sắc.
Ngoài sáng tác bằng chữ Nôm, Nguyễn Du còn có một khối lượng lớn
các tác phẩm viết bằng chữ Hán. Thơ chữ Hán của ông được tập hợp thành ba
tập: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Các sáng
tác bằng chữ Hán giống như một cuốn nhật kí tự bạch về mình. Cảm xúc bao

- 19 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

trùm trong thơ chữ Hán là nỗi buồn. Lúc nào nhà thơ cũng buồn. Có lý do để
buồn đã đành nhiều khi vô cớ không đâu ông cũng buồn: Buồn thương như
một tiếng đàn réo rắt, não nuột vang lên trong khắp các thi phẩm của ông
[15, tr.34]. Nỗi buồn của nhà thơ ấy là buồn về cuộc đời, buồn về thế thái
nhân tình.
Tập Bắc hành tạp lục, Nguyễn Du viết trên đường đi xứ sang Trung
Quốc có vẻ thoải mái hơn nhưng vẫn thấm đượm một nỗi buồn. Nhà thơ buồn
trước những cảnh ngộ đau khổ của những con người mà mình gặp trên đường
đi. Đó là cảnh bốn mẹ con người ăn xin sắp chết đói, cảnh ông già mù hát
rong đói khổ, cảnh nạn đói ở vùng Hồ NamNhà thơ còn đồng cảm với
những con người tài hoa nhưng bất hạnh như: Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý
Bạchvà những người phụ nữ hồng nhan mà bạc mệnh như: Dương Quý Phi,
người ca nữ đất Long Thành, nàng Tiểu ThanhThi sĩ yêu thương con người
nhưng nỗi niềm buồn phiền, u uất đã khiến ông nhìn con người, nhìn cuộc đời
đầy ảm đạm và bế tắc.

Như vậy, đọng lại trên những sáng tác của Nguyễn Du là tình yêu
thương con người, vì con người. Đây là cơ sở để chúng ta có thể khẳng định
ông là một nhà thơ lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa.

Chương 2
Tư tưởng tài mệnh tương đố trong sáng tác
của Nguyễn Du

- 20 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

2.1. Khái quát về tư tưởng tài mệnh tương đố
2.1.1. Tư tưởng tài mệnh tương đố trong quan niệm của Nho giáo
Trung Quốc
Tư tưởng tài mệnh tương đố bắt nguồn từ học thuyết thiên mệnh của
Nho giáo Trung Quốc. Khi nhận thức về thế giới, do quan điểm duy tâm thần
bí, Nho giáo tin có trời làm chủ tể cả vũ trụ. Trời là đấng tối cao, đấng chí tôn,
đấng tối thượng có ý chí rất mạnh chi phối vạn vật, điều khiển sự biến hoá của
thế gian cho hợp lẽ điều hoà. Cái ý chí của trời gọi là thiên mệnh. Khổng Tử người sáng lập ra học thuyết thiên mệnh của Nho giáo - tin có trời và có thiên
mệnh nên người khẳng định: Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã (Không biết
mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi đến thăm người học trò của mình
là Bá Ngưu bị một ác tật, ông đã nắm tay và than rằng: Vô lí! Do mệnh trời
chăng? Con người như vậy mà bị bệnh đó! Con người như vậy mà bị bệnh
đó! [12, tr.217]. Mệnh ở đây là số mệnh, định mệnh, là sự tiền định sức
người không thể thay đổi được như có người sinh ra vốn thông minh, có kẻ
vốn ngu độn, người thì thọ, kẻ thì yểu. Cũng theo nghĩa đó Khổng Tử cho

rằng: Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên Sống chết có mệnh, phú quý do
trời (Luận ngữ, thiên Nhan Uyên).
Mạnh Tử - người tiếp nối tư tưởng của Khổng Tử - khi nói về học thuyết
thiên mệnh cũng cho rằng: ở trong thiên hạ không có việc gì là không có
mệnh trời. Theo ý nghĩa đó, bất cứ việc gì ở trong trời đất cũng có sự sắp đặt
của bàn tay tạo hoá. Tạo hoá đã sắp sẵn cho mỗi người một số phận nhưng
không cho ai được toàn vẹn cả: Thiên chi sinh vật, tất nhân kì tài nhi đốc
yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi (Trời sinh ra muôn vật nhân cái
tài lực của từng vật mà đôn đốc thêm vào cho nên vật nào có thể vun đắp được
thì vun đắp cho tốt lên, vật nào nghiêng lệch thì làm cho đổ nát đi) [9, tr.166].

- 21 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Từ sự thần bí của Đạo trời và Mệnh trời người ta suy ra rằng sở dĩ có
những bất bình trong xã hội là bởi Đạo trời vốn ghét cái gì trọn vẹn, đầy đủ
(Tạo vật đố toàn). Phàm trời cho dồi dào bề này thì bắt phải thiếu thốn bề
khác. Trời đã cho mười phần trọn vẹn thì cũng gia thêm mười phần nghiệp
chướng để bù lại, nhan sắc bị đánh ghen, tài tình bị đố kị. Quy luật này gọi là
phong thừa bỉ sắc, tài mệnh tương đố.
Như vậy, học thuyết thiên mệnh của Nho giáo chính là cái gốc rễ căn
bản của tư tưởng tài mệnh tương đố.
2.1.2. Tư tưởng tài mệnh tương đố trong quan niệm của Nho sĩ Việt Nam
Sang thời Nguyễn, Nho giáo lại được đặt lên địa vị quốc giáo. Tất cả
mọi hoạt động của triều chính, học tập, thi cử đều liên quan đến Nho giáo.
Các trí thức đương thời cũng chỉ có con đường duy nhất là theo đòi Nho học.

Bởi vậy, dễ hiểu tại sao quan niệm của Nho giáo nhất là vấn đề thiên mệnh lại
thấm nhuần trong tư tưởng các nhà nho Việt Nam.
Tư tưởng tài mệnh tương đố phổ biến trong hầu khắp các tác phẩm thơ
văn, từ Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm đến Truyện Kiều.
Mở đầu tác phẩm Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn viết:
Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân.
(Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng lắm nỗi truân chuyên)
Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều cũng viết:
Oan chi những khách tiêu phòng
Mà xui bạc mệnh nằm trong má đào.
Sau này đến các truyện Nôm đặc biệt là truyện Nôm viết về các tài tử
giai nhân thì câu chuyện tài mênh tương đố được thể hiện rõ hơn. Trong Ngọc
Kiều Lê tân truyện và Truyện Tây Sương, Lý Văn Phức cũng đề cập đến vấn
đề này:

- 22 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Tiếc cho cũng phận hồng nhan
Có khi tụ, có khi tan thiệt thòi.
(Ngọc Kiều Lê tân truyện)
ở trần dầu chẳng nợ trần
Song đà lỡ bước gian truân thế mà.
(Truyện Tây Sương)

Theo các tác giả, tài mệnh tương đố ứng với số phận của những người
phụ nữ hồng nhan. Nhưng đến Nguyễn Du tư tưởng này được nâng lên tầm
khái quát cao hơn:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài, chữ Mệnh, khéo là ghét nhau.
(Truyện Kiều)
Trong thơ chữ Hán, ông cũng viết:
Phàm sinh phụ kì khí
Thiên địa phi sở dung.
(Phàm sinh ra khí phách khác thường
Thì trời đất cũng không có chỗ dung)
(Điệu khuyển)
Tài và mệnh luôn đối chọi, không dung hợp nhau. Những người có tài
thì mệnh bạc. Nhưng tài không phải là khái niệm nói chung để chỉ tài năng
của con người. Tài trong triết lý tài mệnh tương đố chỉ tập trung trong hai từ
tài sắc, tài tình. Do vậy tài mệnh tương đố không chỉ là câu chuyện bất hạnh
của những người có nhan sắc mà còn là câu chuyện bất hạnh của những người
tài tình. Theo quan niệm đó, các nhà thơ tài hoa mà bất hạnh cũng nằm trong
vòng chi phối của quy luật tài mệnh tương đố. Hiện tượng này người ta gọi là
Người cùng thì thơ hay hay Thơ hay làm cho người ta khốn cùng, một biến thể
của tư tưởng tài mệnh tương đố.

- 23 -


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

Như vậy, trong quan niệm của Nho sĩ Việt Nam số phận của con người

đã được định sẵn từ trước do một lực lượng tối cao, một đấng siêu nhiên là ông
trời quyết định. Số mệnh đã định cho người tài hoa là bạc mệnh, gặp nhiều
gian truân, vất vả trong cuộc đời. Nhưng đằng sau những lực lượng thần bí ấy
là một hiện thực phức tạp.
2.2. Tư tưởng tài mệnh tương đố trong Truyện Kiều.
( Từ lý thuyết đến hình tượng nghệ thuật và kết cấu cốt truyện)
2.2.1. Lý thuyết
Trong Truyện Kiều, tư tưởng tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc mệnh,
tạo vật đố toàn, phong thừa bỉ sắc được Nguyễn Du nhắc đi nhắc lại nhiều
lần. Đó là những lời triết lí ngoại đề có tính chất khái quát thể hiện hiểu biết,
quan điểm, tư tưởng của tác giả về vấn đề tài mệnh tương đố. Vấn đề này được
phát biểu thành một hệ thống.
Ngay phần mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhắc đến mâu thuẫn
giữa Tài và Mệnh:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài, chữ Mệnh, khéo là ghét nhau.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói mứ hồng đánh ghen.
[3, tr.41- 42]
Nguyễn Du khái quát về quy luật tài mệnh tương đố, Tài Mệnh hai
thái cực luôn đối chọi với nhau. Tài năng bị số mệnh ghen ghét. Những người
có tài thường gặp mệnh bạc, gặp nhiều tai hoạ trong cuộc đời. Tư tưởng này
không chỉ được phát biểu ở phần mở đầu mà còn được nhắc lại liên tiếp như
một điệp khúc rùng rợn (Phan Ngọc) trong tác phẩm.
Mỗi khi nhân vật chính rơi vào một bất hạnh mới, Nguyễn Du lại thiên
vấn (hỏi trời):
- Trời làm chi cực bấy trời

- 24 -



Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn Thị May K31B Văn

- Hoá nhi thật có nỡ lòng
- Chém cha cái số hoa đào
Những lời bình luận trữ tình ngoại đề kiểu này hoàn toàn không có ở
trong Kim Vân Kiều truyện, là sáng tạo thuần tuý của Nguyễn Du.
Đó còn là lời than có ý nghĩa triết lý sâu sa về số phận của toàn thể số
kiếp hồng nhan:
- Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
[3, tr.48]
- Rằng: hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
[3, tr.49]
Hay từ lời tiên đoán của một thầy tướng số:
Nhớ từ năm hãy ngây thơ,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
[3, tr.70]
Đến lời báo mộng của một hồn ma:
Vâng trình hội chủ xem tường
Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.
[3, tr.55]

Lời đay nghiến của nhân vật chính:
Đã cho lấy chữ hồng nhan,

Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.

- 25 -


×