Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong văn xuôi trung đại việt nam thế kỉ x XIV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.48 KB, 63 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

LỜI CẢM ƠN

Đề tài “Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong văn xuôi
trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV” được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của các
thầy giáo, cô giáo Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2; các
thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam; đặc biệt là Thạc sĩ Nguyễn Thị Tính – cơ
giáo trực tiếp hướng dẫn tác giả khóa luận trong suốt q trình viết đề tài
nghiên cứu khoa học. Tác giả khóa luận trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô
giáo và riêng Thạc sĩ Nguyễn Thị Tính, cơ ln nhiệt tình hướng dẫn, giúp tác
giả khóa luận hồn thành đề tài nghiên cứu “Tinh thần khẳng định quốc gia
dân tộc trong văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV”.
Tác giả khóa luận xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận

Trần Thị Thanh

1

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN

Được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của Thạc sĩ Nguyễn Thị Tính và
có tham khảo các bài nghiên cứu của những tác giả khác, tác giả khóa luận đã


hồn thành đề tài khoa học “Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong
văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV”.
Tác giả khóa luận xin cam đoan: Đây là kết quả nghiên cứu của riêng
tác giả khóa luận, khơng trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Nếu sai, tác giả khóa luận xin chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận

Trần Thị Thanh

2

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Nhiệm vụ của đề tài .................................................................................... 5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
7. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 6
8. Bố cục của khóa luận.................................................................................. 6
NỘI DUNG .................................................................................................. 7
Chương 1: Những vấn đề chung về lịch sử xã hội, tư tưởng và văn học

thế kỉ X – XIV ............................................................................................. 7
1.1. Những vấn đề chung về lịch sử xã hội, tư tưởng ...................................... 7
1.1.1. Lịch sử xã hội ....................................................................................... 7
1.1.2. Tư tưởng thời đại ................................................................................ 10
1.2. Những vấn đề chung về văn học thế kỉ X – XIV.................................... 11
1.2.1. Lực lượng sáng tác ............................................................................. 11
1.2.2. Tác phẩm văn học............................................................................... 12
Chương 2: Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong văn xuôi trung
đại Việt Nam thế kỉ X – XIV ...................................................................... 15
2.1. Khẳng định quốc gia dân tộc trên phương diện nội dung cảm hứng ....... 15
2.1.1. Khẳng định độc lập, chủ quyền ........................................................... 15
2.1.2. Khẳng định văn hiến, văn hóa............................................................. 21
2.1.2.1. Khẳng định con người Đại Việt tài năng, đức độ ............................. 22
2.1.2.2. Khẳng định phong tục tập quán dân tộc ........................................... 33
3

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp
2.1.3. Khẳng định non sơng, đất nước giàu đẹp ............................................ 36
2.1.4. Khẳng định Đại Việt anh hùng, bất khuất ........................................... 39
2.1.5. Khẳng định tương lai trường tồn của dân tộc ...................................... 43
2.2. Khẳng định quốc gia dân tộc trên phương diện ý thức nghệ thuật .......... 48
2.2.1. Về văn tự ............................................................................................ 49
2.2.2. Về thể loại .......................................................................................... 50
KẾT LUẬN ................................................................................................. 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 58

4


Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khoa học
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, tìm hiểu về văn học Việt Nam như:
Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, (2006), Văn học
Việt Nam thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII, Nhà xuất bản Giáo dục; Nguyễn
Phạm Hùng, (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Lê Trí Viễn, Lê
Thu Yến, Lê Văn Lực, Phạm Văn Phúc, (2008), Văn học Trung đại Việt Nam
thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, Nhà xuất bản Giáo dục; cùng nhiều đề tài nghiên
cứu khác. Tuy nhiên, đề tài “Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong
văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV” là đề tài tương đối mới mẻ,
chưa có tác giả nào nghiên cứu. Đó là động lực thúc đẩy tác giả khóa luận lựa
chọn và nghiên cứu đề tài này. Đề tài đem đến cho người tiếp nhận cách nhìn
đi vào chiều sâu về phương diện nội dung của văn xuôi trung đại thế kỉ X –
XIV. Mỗi chúng ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước của con người Đại
Việt tài năng, đức độ.
1.2. Lí do thực tiễn
Văn xi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV có nhiều sáng tác thuộc
nhiều thể loại được lựa chọn đưa vào giảng dậy trong các cấp học như:
“Thiên đơ chiếu” (Lí Thái Tổ), “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn) và nhiều
tác phẩm trong “Lĩnh Nam chích quái lục” (Trần Thế Pháp)… Đề tài “Tinh
thần khẳng định quốc gia dân tộc trong văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ
X – XIV” được lựa chọn nghiên cứu xuất phát từ thực tiễn đó.

1.3. Lí do cá nhân
Văn học thế kỉ X – XIV trải qua sáu triều đại phong kiến tự chủ đầu
tiên: Ngô, Đinh, Lê, Lí, Trần, Hồ. Đây là nền văn học viết đầu tiên của Việt

5

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp
Nam. Nó hình thành và phát triển trong bối cảnh Việt Nam vừa thoát khỏi
trên 1000 năm Bắc thuộc. Hồn cảnh lịch sử đó đã tác động trực tiếp tới văn
học. Đó là thời kì “nhà nước phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển,
với những đặc điểm riêng biệt, vừa mô phỏng Trung Quốc, vừa có bản sắc
riêng” [5, 15]. Nó có nhiều ưu việt và tích cực. Các triều đại phong kiến này
đã có những đóng góp to lớn vào việc “kháng chiến, kiến quốc”. Âm vang
của những chiến công chống xâm lược, của những thành tích xây dựng, và
của những thành tựu văn hóa to lớn làm cho văn học thời kì này có một dáng
vẻ thật huy hồng, lộng lẫy.
Với những lí do trên, tạo nên niềm say mê trong tác giả khóa luận về
một thời kì văn học được đánh giá là mở đầu cho nền văn học Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, năm 938 với chiến thắng Bạch Đằng
của Ngô Quyền đã mở đầu thời kì quốc gia độc lập. Đó là sự kiện lịch sử
trọng đại. Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trở thành một nhu cầu của
lịch sử thời đại. Đó cũng là nội dung chính của văn học thế kỉ X – XIV. Phần
lớn các sáng tác văn học thời kì này có “âm hưởng rất hào hùng, sảng khối,
siêu thốt, bay bổng. Đó là giọng văn của những người anh hùng, của kẻ sĩ
quân tử gặp thời và thành đạt, của những người phi thường làm chủ cuộc
sống và thời đại. Từ văn học Phật giáo thời Lý đến văn học Nho giáo thời

Trần, tất cả đều tốt lên cái khí phách và tinh thần của một dân tộc hùng
mạnh” [5, 67]. Những thành tựu văn học thế kỉ X – XIV trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều cơng trình khoa học ở bao thế hệ.
Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương,
Trần Nho Thìn, Đồn Thị Thu Vân, (1997), Về con người cá nhân trong văn
học cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục; đưa ra một quan niệm chung, một
số khía cạnh lí luận cơ bản; từ đó tiến hành khảo sát qua các hiện tượng tác

6

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
giả, tác phẩm, giai đoạn văn học tiêu biểu và cả những nguyên tắc chủ yếu chi
phối cách thức tư duy về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. Cơng
trình nghiên cứu khoa học này dành chương ba viết và luận bàn về “Vấn đề
con người trong văn học thời đại Lý – Trần”. Như thế nghĩa là, cơng trình
hướng đến những biểu hiện ở phương diện nội dung của các sáng tác “Văn
học cổ Việt Nam”.
Nguyễn Phạm Hùng, (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ
XX, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; cơng trình nghiên cứu được phân
tách thành ba phần. Trong chương 1 phần “Văn học Việt Nam cổ Trung đại”,
tác giả tập trung khảo sát, phân tích “các loại hình văn học chính” [5,18] của
văn học thế kỉ X – XIV. Nghiên cứu hình thức thể loại, tác giả đem đến người
tiếp nhận nhiều nhận thức mới về nội dung văn học giai đoạn này. Từ kết luận
“Văn học thế kỉ X – XIV chủ yếu mang giọng điệu anh hùng”, tác giả chỉ ra
“con người trong văn học thế kỉ X – XIV thường phổ biến là người đàn ơng,
những cơng dân lí tưởng, phi thường. Khơng có con người bình thường, hay
tầm thường trong văn học. Khơng có con người cá nhân trong văn học với

nghĩa hiện đại của nó. Đó là những con người có tâm trạng hào hứng, phấn
khởi, siêu thốt, bay bổng. Đó là những anh hùng, liệt nữ, những thần, Phật,
những vị sư đạo cao đức trọng, những vua chúa, quan lại, nho sĩ,… có dáng
vóc kì vĩ, hành động phi thường, chiến công hiển hách. Thường là con người
chân dung, con người tấm gương dùng để ngợi ca, khẳng định, giáo huấn.
Con người đó là con người nhất thể, nhất dạng, không mấy khi mâu thuẫn và
phức tạp. Là con người của tinh thần và ý chí, nguyên tắc và chuẩn mực, có
tâm trạng cân đối, hài hòa, thanh cao”[5, 18]. Vậy là tác giả Nguyễn Phạm
Hùng nghiên cứu từ góc độ hình thức nghệ thuật đi đến những kết luận về nội
dung trong văn học thế kỉ X – XIV.

7

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp
Đồn Thị Thu Vân (chủ biên), Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Lê Văn Lực,
Phạm Văn Phúc, (2003), Văn học Trung đại Việt Nam thế kỉ X – cuối thế kỉ
XIX, Nhà xuất bản Giáo dục có triển khai luận điểm “Văn học thế kỉ X – XIV
là một nền văn học đậm đà tinh thần dân tộc và chất nhân văn” [12, 36]. Bài
viết tập trung phân tích, chứng minh những nội dung nổi bật nhất làm nên
những nét cơ bản cho diện mạo của văn học giai đoạn này.
Lê Thu Yến (chủ biên), Đoàn Thị Thu Vân, Lê Văn Lực, Phạm Văn
Nhu, (2003), Văn học Việt Nam, Văn học trung đại những cơng trình nghiên
cứu, Nhà xuất bản Giáo dục có lựa chọn “giới thiệu những bài viết được đánh
giá tốt và được xem như tiếng nói thẩm định tiêu biểu về một thời kì văn học”
[13, 10]. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các bài viết đi sâu vào nhiều
khía cạnh như: chủ đề, thể loại, ngơn ngữ, hình tượng nhân vật, thời gian –
khơng gian nghệ thuật… giúp người đọc tìm hiểu, khám phá và thưởng thức

trọn vẹn cái hay, cái đẹp về cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật
mà người xưa đã gửi gắm cho muôn đời qua các tác phẩm văn học trung đại.
Thành quả của những người đi trước là gợi ý cho người viết khóa luận bàn
tiếp, chuyên sâu tìm hiểu Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIV.
Đề tài nghiên cứu khoa học “Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc
trong văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV” nhằm cung cấp cho
người tiếp nhận cách nhìn cụ thể về lịch sử xã hội, tư tưởng và văn học của
một giai đoạn khi đất nước vừa có độc lập chủ quyền. Đặc biệt nội dung tinh
thần khẳng định quốc gia dân tộc thể hiện đầy đủ trên mọi phương diện: đất
nước có chủ quyền, có lịch sử lâu đời, có văn hiến, văn hóa và có tương lai
trường tồn. Dân tộc Đại Việt dù có ảnh hưởng bởi nhiều luồng văn hóa khác
nhau trên thế giới nhưng chúng ta ln tiếp thu có chọn lọc; Việt hóa văn hóa
ngoại sinh và sáng tạo, phát triển văn hóa dân tộc.

8

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong văn xuôi trung
đại Việt Nam thế kỉ X – XIV ở cả phương diện nội dung cảm hứng và ý thức
nghệ thuật.
Hiểu được những giá trị của các tác phẩm, những đóng góp to lớn mà
các tác giả văn xi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV đã đem lại cho nền
Văn học Việt Nam nói chung.
Nghiên cứu đề tài “Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong văn
xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV” nhằm phục vụ cho việc học tập và
giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở các cấp học.

4. Nhiệm vụ của đề tài
Làm rõ những nét cơ bản nhất về lịch sử xã hội, tư tưởng và văn học
thế kỉ X – XIV.
Khẳng định, ngợi ca quốc gia Đại Việt trên tinh thần dân tộc ở phương
diện nội dung cảm hứng và ý thức nghệ thuật; từ đó bồi dưỡng lịng u nước,
quyết tâm gìn giữ độc lập nước nhà cho các thế hệ con người Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tinh thần khẳng định quốc gia dân
tộc trong văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X
– XIV.
Về tư liệu bao gồm: Thơ văn Lý – Trần tập I; Thơ văn Lý – Trần tập II;
Thơ văn Lý ­ Trần tập III; và các bài nghiên cứu về văn xuôi trung đại Việt
Nam thế kỉ X – XIV.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện đề tài, tác giả khóa luận sử dụng những
phương pháp nghiên cứu sau đây:

9

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
7. Đóng góp của khóa luận
Về mặt lí luận, hiểu kĩ hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật của văn
xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X - XIV. Mỗi chúng ta càng thêm tự hào và

quyết tâm giữ vững những giá trị của quốc gia dân tộc; phát huy truyền thống
yêu nước, kiên quyết chống mọi kẻ thù và khẳng định bản lĩnh dân tộc.
Về mặt thực tiễn, đề tài là tư liệu cần thiết cho việc học tập và giảng
dạy môn Ngữ văn ở các cấp học.
8. Bố cục của khóa luận
Nhằm tạo nên tính thống nhất cho đề tài nghiên cứu khoa học cùng
hướng tới một đối tượng cụ thể, tác giả khóa luận chú ý chia thành ba phần.
Sau đây là sự phân định cụ thể:
Phần thứ nhất: Mở đầu
Phần thứ hai: Nội dung, có hai chương
Chương 1: Những vấn đề chung về lịch sử xã hội, tư tưởng và văn học
thế kỉ X – XIV.
Chương 2: Tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong văn xuôi trung
đại Việt Nam thế kỉ X – XIV.
Phần thứ ba: Kết luận.

10

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI, TƯ TƯỞNG VÀ
VĂN HỌC THẾ KỈ X - XIV

1.1 . Những vấn đề chung về lịch sử xã hội, tư tưởng
1.1.1. Lịch sử xã hội

Năm 938, với chiến thắng B¹ch Đằng, đất nước ta bước vào một kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự chủ; kết thúc sự đô hộ của phong kiến
Trung Hoa hơn một nghìn năm. Thế kỷ X - XIV là chặng đường đầu tiên tính
từ năm 939, Ngơ Quyền xưng vương dựng nước đến năm 1414, nước ta rơi
vào ách thống trị của nhà Minh. Gần năm thế kỷ cũng là thời gian diễn ra sự
hưng vong của sáu triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ. Chế đé phong
kiến Việt Nam dần dÇn ổn định dưới triều Ngơ, Đinh, Tiền Lê; đến thời Lý Trần, nhà nước phong kiến được xây dựng ngày càng lớn và vững vàng. Vì
vậy, các thế kỷ X, XII, XIII, XIV là “giai đoạn đại phục hưng và phát triển
của dân tộc về mọi mặt” [12, 34].
Thế kỉ X – XIV, dưới triều đại Lý – Trần, Đại Việt đã diễn ra công
cuộc xây dựng quốc gia phong kiến dân tộc độc lập vµ phục hưng văn hóa.
Về kinh tế, các triều vua đều khuyến khích phát triển nơng nghiệp: Nhà
Đinh, TiỊn Lê, Lý và đầu đời Trần; bên cạnh đất công điền, công thổ tức là
bộ phận chủ yếu của ruộng đất trong tồn quốc; những đại điền trang của triều
đình, q tộc cùng ruộng đất của nhà chùa cũng chiếm phần quan trọng.
Ruộng đất tư hữu của tiểu nông, địa chủ từ đời Lý trở đi tuy chưa nhiều
nhưng cũng ngày càng tăng nhanh.
Triều Lê Hồn có lễ cày ruộng tịch điền, thể hiện sự coi trọng nghề
nông: cứ đầu năm, vào tháng Giêng, vua đích thân cày đường cày đầu tiên.

11

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
Nhà Lý - Trần, chú ý đến vấn đề bảo vệ ruộng đất, chống lũ lụt: Năm 1118,
Vua Lý cho đắp đê Cư Xá; từng bước phát triển, củng cố hệ thống các sông,
đặc biệt là sông Nhĩ Hà; mở rộng diện tích canh tác, khuyến khích việc khai
hoang; ban hành chính sách “ ngụ binh ư nông” nhằm đảm bảo yêu cầu sẵn

sàng chiến đấu khi có giặc ngoại xâm, thúc đẩy nơng nghiệp phát triển.
Cùng với nông nghiệp, các nghành thủ công nghiệp như: nông cụ, vải
lụa, vật liệu xây dựng, đồ gốm, đồ sứ… cũng phát triển tạo đà cho thương
nghiệp đi lên, các thương khẩu nổi tiếng: Vân Đồn (Quảng Ninh),Vĩnh Bình,
Nghi Hịa đình ( Cao – Lạng) là nơi diễn ra việc mua bán giữa dân ta với nước
ngồi.
Nhìn chung, nền kinh tế nước ta ở thế kỷ X – XIV đã đạt đến trình độ
phát triển nhất định, tạo cơ sở vật chất đảm bảo cho công cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm thắng lợi và xây dựng nhà nước vững mạnh. Cuộc sống
nhân dân tương đối ổn định.
Về chính trị, trong cơ cấu chính quyền, giai cấp phong kiến trước hết
bao gồm quý tộc, tăng lữ. Địa chủ thứ dân (tức là khơng thuộc dịng dõi q
tộc) là tầng lớp dưới của giai cấp đó. Từ thế kỷ X – đầu thế kỉ XIII, triều đình
chủ yếu dựa vào quý tộc, tăng lữ để thống trị; đồng thời tìm cách hạn chế bớt
thế lực của hai tầng lớp ấy nhằm củng cố chính quyền trung ương. Các đời
Đinh, Tiền Lê, Lý và đầu đời Trần, tăng lữ tham gia chính sự; giữ chức
chưởng quan trọng ở triều đình bên cạnh quý tộc. Quý tộc, tăng lữ rõ ràng là
hai bộ phận khăng khít của giai cấp phong kiến trong thời kỳ này. Từ cuối đời
Lý sang đời Trần; địa chủ lại chiếm ưu thế, vì thời kỳ này tính chất trung
ương độc quyền cao hơn. Đến cuối đời Trần, giai cấp địa chủ đã giữ được
những vị trí quan trọng trong triều đình.
Nếu giai cấp phong kiến gồm quý tộc, tăng lữ thì quần chúng nhân dân
trước hết là “nơng dân tự do” – người lĩnh canh công điền, công thổ (một số

12

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp

ít có đơi chút ruộng đất) cùng nông nô ở các điền trang của nhà nước, quý tộc,
tăng lữ. Ngồi ra cịn có thợ thủ cơng, lái buôn; họ xuất hiện khi nghề thủ
công , thương nghiệp bn bán phát triển.
Cùng với cơ cấu chính quyền, nhà nước tiến hành khôi phục lại quốc
hiệu, định lại kinh đô.
Về mặt tổ chức quân đội, dưới triều đại nhà Lý, quân đội từ trung ương
tới địa phương có những nguyên tắc, quy định rất nghiêm ngặt. Ở trung ương
có qn đội chính quy thường trực; tồn dân là lính dự bị và tồn thể qn đội
đều có chữ “thiên tử quân”; vua chú ý đến việc thưởng người có cơng, phạt
người mang tội. Về luật pháp, triều đình từng bước xây dựng: Ở thời kỳ đầu,
chưa có luật pháp cụ thể, vua xử người có tội theo ý muốn của mình; đến thời
Lý đã ban hành Bộ luật Hình Thư (1042).
Về văn hóa – giáo dục, đất nước độc lập là điều kiện thuận lợi để văn
hóa dân tộc phát triển mạnh mẽ. Triều đình có nhiều cố gắng khơi phục phong
tục, tập qn, tín ngưỡng dân gian và phát huy những giá trị vốn có của văn
hóa dân tộc nhằm xây dựng một nền văn hóa cởi mở, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các triều vua cho xây dựng nhiều lâu đài, cung điện, thành lũy, đền thờ
(anh hùng dân tộc, thần linh), nhiều nhất là chùa tháp; Tháp Báo Thiên,
Chuông Quy Điền, Tượng phật Chùa Quỳnh Lâm, Đỉnh Phổ Minh, Chùa
Diên Hựu (chùa Một Cột), lăng mộ nhà Trần, thành nhà Hồ, Hoàng thành
Thăng Long,… là những cơng trình kiến trúc có nghệ thuật độc đáo.
Trong thời kỳ đầu, giáo dục chưa có quy mơ lớn, chưa có những cuộc
thi thử nhân tài, chỉ dựa vào việc tiến cử, nhận cử; đến đời Lý - Trần, chính
sách giáo dục được tổ chức chặt chẽ và có hệ thống: nội dung giáo dục, học
Tứ thư (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử), Ngũ kinh (Kinh thư, Kinh
lễ, Kinh dịch, Kinh xuân thu, Kinh thi).

13

Trần Thị Thanh - K32EVăn



Khố luận tốt nghiệp
Cùng với cơng cuộc xây dựng quốc gia phong kiến dân tộc độc lập
phục hưng văn hóa là công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Đây là
giai đoạn rực rỡ của những chiến thắng chống quân xâm lược, hai lần chiến
thắng quân Tống và ba lần đánh bại qn Ngun - Mơng.
Hịa bình kéo dài không quá một thế kỷ, khoảng giữa thế kỷ XI; nước
Đại Việt có nguy cơ bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Với ý chí kiên
quyết, nhà Lý chuẩn bị cuộc kháng chiến với tinh thần chủ động, sẵn sàng.
Cuối năm 1076, quân Tống kéo sang xâm lược nước ta. Quân dân nhà Lý đã
phá tan mộng tưởng xâm lược của nhà Tống trên phịng tuyến sơng Cầu (dài
khoảng 30m, từ bến đò Như Nguyệt đến núi Nham Biền).
Nhà Trần ra đời, tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước: Năm 1257,
chúa Mông Cổ cho quân ồ ạt tiến công xâm lược nước ta; năm 1258 nhà Trần
thắng giặc, cổ vũ cả dân tộc trong cuộc sống mới. Quân dân nhà Trần tiếp tục
giành thắng lợi trước hai cuộc xâm lược của nhà Nguyên năm 1285 và 1288.
Khi vương triều Trần suy thoái, nhà Hồ thay thế và tiến hành nhiều cải
cách có tính chất định hướng cho tương lai đất nước, nhưng giữa lúc đó, nhà
Minh kéo quân sang xâm lược nước ta. Gần năm thế kỷ giành và giữ gìn độc
lập, đến đây nước ta một lần nữa rơi vào tay phong kiến Trung Hoa đô hộ.
Như vậy, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê,
Lý, Trần, Hồ hết hưng lại phế, họ này thay họ kia làm vua. Xã hội trải qua
những phen biến động, khủng hoảng; nhưng nói chung chế độ phong kiến dân
tộc cịn có vai trị lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
1.1.2. Tư tưởng thời đại
Nhà nước sử dụng Nho - Phật - Đạo để xây dựng thành hệ tư tưởng
“đa tơn giáo hịa đồng”. Trong thời kỳ đầu, nhà Ngơ, Đinh, Tiền Lê, Lý; tư
tưởng Phật giáo gần như độc tôn. Cuối đời Lý, đầu triều Trần; Nho giáo dần
thay thế Phật giáo kéo theo đó là sự nhường bước của tăng lữ. Vì vậy, từ thời


14

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
Lý, Nho học bắt đầu được đề cao; Năm 1070, Lý Thánh Tông lập Văn Miếu ở
Thăng Long; Năm 1075, vua Lý Nhân Tông mở khoa thi “Nho học tam
trường” đầu tiên; Năm 1076, chọn những quan chức biết chữ cho vào học ở
Quốc Tử Giám. Nho giáo được chú trọng trong quan hệ dung hòa với Phật
giáo và Đạo giáo. Phật giáo ở thời Lý được coi là quốc giáo, nó truyền bá
rộng rãi trong đời sống xã hội và in ấn trên mọi lĩnh vực văn hóa dân tộc.
Thời Trần vẫn tổ chức các khoa thi Tam giáo. Từ năm 1232, bắt đầu mở
khoa thi Nho học. Lực lượng trí thức được đào tạo theo Nho học ngày càng
đông. Nho giáo đẩy lùi ảnh hưởng của Phật giáo, chiếm dần địa vị quốc giáo.
Như vậy, ba hệ tư tưởng Phật, Đạo, Nho ở mỗi triều đại có những địa vị
khác nhau nhưng đều được giai cấp thống trị dùng để hỗ trợ, ủng hộ vương
quyền bằng phương pháp dung hòa giữa Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo.
1.2. Những vấn đề chung về văn học thế kỷ X - XIV
Lịch sử - xã hội giai đoạn thế kỷ X – XIV có nhiều biến động lớn lao.
Những thăng trầm tác động mạnh đến văn học. Thời đại đặt ra những yêu cầu
mới, làm nên một giai đoạn văn học có diện mạo riêng, đặc điểm riêng.
1.2.1. Lưc lượng sáng tác
Đến thời Lý, nước ta thực sự có một nền văn học viết khá đặc sắc.
Ngồi một số tác giả thuộc tầng lớp vua quan như: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông,
Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Đoàn Văn Khâm,… lực lượng sáng tác chủ
yếu là các nhà sư.“Thiền uyển tập anh ngữ lục” thống kê có khoảng trên 40
nhà sư sáng tác thơ văn thời bấy giờ như: Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Không Lộ,
Mãn Giác, Quảng Nghiêm,…

Đến thời Trần, Phật giáo tuy vẫn được đề cao nhưng đã dần nhường
bước cho Nho giáo. Giáo dục thi cử phát triển theo Nho học làm xuất hiện
ngày càng đơng đảo lực lượng trí thức mới trong xã hội. Họ trở thành lực
lượng chính sáng tác văn học. Tầng lớp nho sĩ chiếm số lượng đông đảo nhất

15

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
trong lực lượng sáng tác văn học thế kỷ X – XIV. Ngoài ra, một số tăng lữ
cùng số ít thuộc tầng lớp vua quan cũng tham gia sáng tác. Như vậy, so với
đời Lý, lực lượng sáng tác của văn học đời Trần có sự khác biệt. Lực lượng
sáng tác thay đổi dẫn đến sự biến đổi về diện mạo của văn học thời này.
1.2.2. Tác phẩm văn học
Về văn tự, sau thế kỷ X, đất nước độc lập nhưng Hán học vẫn giữ vị trí
quan trọng. Chữ Hán dùng làm văn tự chính thức của nhà nước. Văn học chữ
Hán được coi là chính thống, là bộ phận chủ yếu. Đến thời Trần đã khởi phát
phong trào dùng chữ Nôm sáng tác văn học. Đây là cuộc cách mạng văn tự, là
“cái mốc lớn trên con đường tiến lên của lịch sử”[10, 49] thể hiện ý chí tự
cường của nước Đại Việt trong việc xây dựng nền văn học dân tộc.
Ngôn ngữ văn học thế kỷ X – XIV nói riêng, ngơn ngữ văn học trung đại
nói chung là ngơn ngữ đa ngữ nghĩa, đa chức năng, mang tính chất cao nhã.
Đó là hình thức ngơn ngữ bác học, trang nhã, mang tính quy phạm, hàm súc.
Về thể loại văn học, thế kỷ X – XIV xây dựng được hệ thống thể loại văn
học gồm: chiếu, hịch, truyện ký, phú, thơ,… với nhiều sáng tác có giá trị;
xứng đáng là giai đoạn mở đầu nền văn học dân tộc, tạo đà cho văn học phát
triển ở những giai đoạn tiếp theo.
Văn học đời Lý, nổi bật là một số bài văn bia như: “Văn bia chùa Linh

Xứng núi Ngưỡng Sơn”, “Văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh” (Pháp
Bảo), “Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh” (Nguyễn Cơng Bật). Có các văn
bản chiếu: “Chiếu dời đơ”(Lí Thái Tổ), “Chiếu nhường ngơi”(Lí Chiêu
Hồng). Về văn chép sử, thời Lý có “Ngoại sử ký” của Đỗ Thiện và những bộ
“Ngọc điệp” nhưng đã thất truyền.
Văn học đời Trần phong phú về thể loại, bao gồm chủ yếu những sáng
tác bằng chữ Hán. “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là
tác phẩm chính luận mẫu mực, kết tinh tinh thần yêu nước của học phong

16

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp
Đơng A. Về văn chép sử, thời Trần xuất hiện những bộ sử tương đối quy mô
như: “Đại Việt sử ký” (Lê Văn Hưu), “Đại Việt sử lược” (Khuyết danh).
Truyện văn xuôi chữ Hán đời Trần, gồm các tác phẩm : “Thiền uyển tập anh
ngữ lục”, “Tam tổ thực lục” (khuyết danh), “Việt điện u linh tập” (Lí Tế
Xuyên), “Lĩnh Nam chính quái lục” (Trần Thế Pháp), “Nam ông mộng lục”
(Hồ Nguyên Trừng),…
Tác phẩm truyện ký thời Trần cịn lại khơng nhiều, các tác giả tuy chủ
yếu làm việc ghi chép lại những truyện vốn lưu truyền trong dân gian nhưng
góp phần quan trọng vào sự phát triển của thể loại văn xuôi tự sự Việt Nam
thời trung đại.
Tóm lại, văn học giai đoạn thế kỷ X – XIV hình thành, phát triển trong
bối cảnh phục hưng của đất nước, dân tộc và văn hóa Đại Việt. Số lượng tác
phẩm cịn lại khơng nhiều nhưng đã cho thấy diện mạo phong phú về nội
dung, nghệ thuật; là bằng chứng về một trong những thời đại huy hoàng của
quốc gia Đại Việt và nền văn hóa dân tộc.

Về nội dung chính, Văn học thế kỷ X – XIV nổi bật ba nội dung chính:
Những sáng tác mang cảm hứng tôn giáo, những sáng tác mang cảm hứng về
thiên nhiên và những sáng tác mang cảm hứng yêu nước. Mỗi nội dung có
những đặc trưng, thể hiện ở các phương diện khác nhau nhưng tựu chung lại,
văn học thế kỷ X – XIV khẳng định độc lập, chủ quyền; văn hiến, văn hóa
dân tộc; khẳng định non sơng, đất nước giàu đẹp; Đại Việt anh hùng, bất
khuất và có tương lai trường tồn. Cảm hứng chủ đạo trong Văn học Việt Nam
thế kỉ X – XIV là cảm hứng ngợi ca, tán dương, khẳng định.
Văn học thế kỷ X – XIV thể hiện rõ rệt tính chất “văn ­ sử ­ triết bất
phân”. Nhiều văn bản tác phẩm văn học khơng chỉ có giá trị văn học, mà cịn
có giá trị sử học và triết học. Văn học gắn bó với cuộc sống, trở thành một bộ
phận của cuộc sống; trực tiếp tham gia vào các hoạt động xã hội, phục vụ các

17

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khố luận tốt nghiệp
nhiệm vụ mà cuộc sống địi hỏi trong đấu tranh giành độc lập, xây dựng đất
nước. Nó là “văn học chức năng”.
Có thể nói, văn học thế kỷ X – XIV là nền văn học cao nhã, trang
trọng, phản ánh đời sống tinh thần của tầng lớp trên, miêu tả đời sống bên trên
của con người.Văn học khơng chỉ là sản phẩm của tình cảm, tâm hồn; văn học
còn là sản phẩm của tinh thần và ý chí, tư tưởng và giáo lý. Văn học chủ yếu
đề cập tới những vấn đề lớn lao của sơn hà, xã tắc, tới đời sống cộng đồng, ít
chú ý tới cái cá nhân, cá biệt, riêng tư. “Nó là văn học hướng thượng, văn học
hướng tới đời sống sang quý trong tinh thần con người” [5, 66].

18


Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 2
TINH THẦN KHẲNG ĐỊNH QUỐC GIA DÂN TỘC TRONG VĂN
XUÔI TRUNG ĐẠI VIỆT NAM THẾ KỈ X – XIV

Văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV nói riêng, thời trung đại
nói chung chủ yếu viết bằng chữ Hán; chữ Hán không chỉ là một bộ phận cấu
thành văn học dân tộc mà còn là ảnh xạ phản chiếu trình độ tư duy nghệ thuật
của nền văn học đã sản sinh ra nó. Với giọng điệu anh hùng là chủ yếu, tinh
thần khẳng định quốc gia dân tộc là một trong những nội dung cơ bản của văn
xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV, tốt lên khí phách và tinh thần của
một Đại Việt hùng mạnh, trường tồn.
2.1. Khẳng định quốc gia dân tộc trên phương diện nội dung cảm hứng
PGS.PTS. Nguyễn Đăng Na nhận xét: Về nội dung, văn xuôi thế kỉ X –
XIV chủ yếu tËp trung khẳng định nước Việt là một quốc gia độc lập trên các
bình diện: Có lịch sử lâu đời, có chủ, có quyền và có tương lai trường tồn. Hai
nội dung đầu thể hiện khá đầy đủ trong “Lĩnh Nam chích quái lục” (Trần Thế
Pháp), “Ngoại sử kí” (Đỗ Thiện), phần “Ngoại kỉ” sách “Đại Việt sử kí” (Lê
Văn Hưu)… Nội dung thứ ba có trong tất cả các tác phẩm, đặc biệt là “Thiền
uyển tập anh ngữ lục”, “Tam tổ thực lục”, “Việt điện u linh tập”…
“Đất Việt đâu đâu cũng có anh tài. Nhân kiệt, địa linh, hạo khí của núi
sơng là những yếu tố đảm bảo cho tương lai dân tộc, là điểm tựa tinh thần để
dân tộc vượt qua những cơn hiểm nghèo. Một đất nước như vậy, không một
thế lực nào có thể xâm phạm được. Đó là nội dung nổi bật của văn xuôi tự sự
Việt Nam thế kỉ X – XIV” [9, 23].


19

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
2.1.1. Khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc
Văn xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV tuy hầu hết được viết
bằng chữ Hán nhưng chúng phản ánh khá chân thật và sinh động đời sống
cùng những ước mơ, nguyện vọng, tâm tư tình cảm của người Việt. “Ở đó
vừa có những trang thấm đẫm nước mắt với những số phận bi thương, vừa có
những trang hồnh tráng với khí thế trúc chẻ tro bay đánh tan mọi thế lực
xâm lược” [9, 15], khẳng định Đại Việt là quốc gia có độc lập, chủ quyền.
Tiêu biểu là truyện Họ Hồng Bàng, trích trong Lĩnh Nam chích quái
lục (Trần Thế Pháp). “Hồng” và “Bàng” ở đây xết về nghĩa đen đều chỉ một
cái gì rất to lớn. “Họ Hồng Bàng” có thể hiểu là dịng họ lớn nhất, bao trùm
nhất đối với dân tộc Việt Nam thời cổ. Truyện kể về Viêm đế Minh là cháu ba
đời của Viêm đế họ Thần Nông. Viêm đế Minh lấy vợ sinh ra Lộc Tục, làm
vua phương Nam. Khi lên ngôi, Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương, đặt tên
nước là Xích Quỷ. Lộc Tục sinh ra Sùng Lãm, lấy tên là Lạc Long Quân.
Sùng Lãm lấy vợ là Âu Cơ, đẻ ra một bọc trăm trứng, trăm con. Lạc Long
Quân đem năm mươi con xuống biển, Âu Cơ đưa năm mươi con lên non.
Người con cả làm vua lấy tên là Hùng Vương.
Thủy tổ của nước ta là Kinh Dương Vương (khoảng năm 2879 trước
công nguyên). Dân tộc ta có lịch sử từ lâu đời, nước ta là nước có ranh giới,
bờ cõi: “Âu Cơ cùng năm mươi người con ở Phong Châu, tự suy tôn người tài
giỏi đứng đầu làm chủ, hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Nước
Văn Lang, phía Đơng giáp Nam Hải, phía Tây sát Ba Thục, phía Bắc đến hồ
Động Đình, phía Nam tiếp giáp nước Hồ Tơn. Hùng Vương chia nước thành

mười lăm bộ là các bộ Giao chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường,
Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Y Hoan, Cửu Chân, Nhật
Tam, Chân Định, Quế Lâm, Tượng Quận; rồi sai các em chia nhau coi giữ,
đặt ra tướng võ, tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc hầu, Tướng võ gọi là Lạc

20

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
tướng; con trai vương gọi là quan lang, con gái vương gọi là Mị nương; quan
cai quản gọi là Bồ chính, bề tơi gọi là Mão; nơ lệ gọi là Xảo, gọi bề tôi là
Khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo, các đời truyền ngôi đều gọi
là Hùng Vương mà không thay đổi” [9, 131].
Người đất Bắc, kẻ nước Nam “Tơi thuộc lồi Rồng, đứng đầu thủy tộc.
Nàng thuộc loài Tiên, người trên mặt đất… hai khí âm dương hợp lại”
[9, 131]; hình thành nước Văn Lang có các bộ, có người coi giữ, có tướng
văn, tướng võ cùng các vương xây dựng bảo vệ đất nước. Như vậy Họ Hồng
Bàng có giá trị khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc.
Yêu nước, tự hào dân tộc, lạc quan tích cực là xu hướng nổi bật nhất,
làm nên những nét cơ bản cho diện mạo văn học thế kỉ X – XIV. “Để giành
lại được chủ quyền, dân tộc đã phải trả một giá đắt bằng bao nhiêu xương
máu đã đổ trong nhiều thế hệ, do đó khi nước nhà được giải phóng, trong văn
học bừng dậy một ý thức khẳng định độc lập chủ quyền và xây dựng đất nước
tự chủ, tự cường mạnh mẽ” [12, 37]. Tinh thần này biểu hiện tràn đầy trong
văn kiện chính trị quan trọng đồng thời là tác phẩm văn học Chiếu dời đô (Lý
Công Uẩn).
Lý Công Uẩn (974 – 1028), vị vua khai sáng ra triều Lý, người làng Cổ
Pháp, nay thuộc làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Năm 1009, ông được

triều thần ủng hộ lên ngơi vua. Năm 1010, với hồi bão mở mang nghiệp lớn,
Lý Công Uẩn viết Thiên đô chiếu (Chiếu dời đơ) nói rõ ý định dời đơ từ Hoa
Lư ra thành Đại La. Đây là sự kiện lịch sử chính trị hết sức quan trọng, chứng
tỏ sự trưởng thành của nhà nước phong kiến Việt Nam. Bài Chiếu vừa là văn
kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn, vừa là áng văn chương quý giá thể
hiện lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Chiếu dời đô phản ánh ý chí lớn lao và
niềm tự tin của Lý Thái Tổ vào sức mạnh, tương lai phát triển của quốc gia

21

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
độc lập tự chủ, đồng thời cũng thể hiện ý chí tự cường dân tộc, khẳng định
độc lập chủ quyền đất nước.
Hồng Xn Hãn tìm thấy trong “Tục tư trị thơng giám trường biên”
của Lí Đảo đời Tống những lời trao đổi của Lê Văn Thịnh với sứ nhà Tống:
“Chánh sứ Thành Trạc nói: Về phía Nam của mười tám xứ Thượng Điện, Hạ
Lơi, Ơn Nhuận, Anh, Dao, Vật Dương, Vật Ác, Kế Thành, Cống, Lục, Tần,
Nhậm, Động, Cảnh, Tư, Kỳ, Kỷ, Huyện sẽ vạch một địa giới, xem đó là đất
của bản tỉnh. Kẻ bồi thần tiểu tử này chỉ biết đúng mệnh thì nghe chứ không
dám tranh chấp. Thế nhưng, những đất mà họ Nùng đã nộp quý quốc thì đều
là đất thuộc sứ Quảng Nguyên nước tôi. Ngày nay, may gặp thánh triều,
muôn vàn chính sự đương được rộng mở, vậy thì cịn tiếc gì mấy miếng đất
cằn cỗi lam chướng ấy, mà khơng đem trả lại nước tôi, để làm chỗ dựa cho kẻ
bề tơi bên ngồi” [1, 295].
Lê Văn Thịnh người đất Đông Cứu, huyện Yên Định, lộ Bắc Giang. Là
người đỗ trạng nguyên khoa thi Nho học đầu tiên ở nước ta, mở năm 1075.
Năm sinh và năm mất của ông đều chưa rõ. Năm 1084 dưới đời Lý Nhân

Tông (1072 – 1128), ông được cử làm chánh sứ cùng Nguyễn Bồi tới trại
Vĩnh Bình tiếp tục thương nghị việc biên giới, đòi nhà Tống trả lại các miền
Vật Dương, Vật Ác thuộc châu Quảng Nguyên; trước đấy họ Nùng đã đem
nộp để hàng Tống. Sau khi trở về, ông được cất lên chức Thái Sư, mười hai
năm liền giữ chức đó. Bức thư gửi cho viên Kinh lược Quảng Tây là Hùng
Bản cùng những lời biện luận với phái bộ nhà Tống tại hội nghị Vĩnh Bình
của Lê Văn Thịnh góp phần khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc.
Thư gửi Hùng Bản (Ký Hùng Bản thư) có lẽ chỉ là một trích đoạn do
Lê Văn Thịnh gửi viên Kinh lược Quế Châu Hùng Bản, trong khi ông đang
cầm đầu phái bộ nhà Lý ở Hội nghị Vĩnh Bình lần thứ hai, năm Giáp Tý
(1084). Hội nghị này do nhà Tống chủ động đề nghị mở sau chiến thắng oanh

22

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
liệt của Lý Thường Kiệt, nhằm thương nghị về việc trả tù binh cho Tống cùng
vấn đề biên giới. Bên ta, đến hội nghị với mục đích đòi lại hai động Vật
Dương, Vật Ác họ Nùng đã mang nộp Tống. Trước đấy một năm, phái bộ
Đào Tông Nguyên cũng đã đến hội nghị để bàn nhưng chưa đi tới kết quả.
Sau vì tình hình căng thẳng, Đào Tông Nguyên phải bỏ hội nghị ra về. Hội
nghị lần thứ hai này bắt đầu từ tháng Sáu âm lịch đến tháng Tám âm lịch,
cũng vẫn căng thẳng như trước, đến nỗi nhà Tống phải có mật lệnh cho các
vùng biên giới tập trung quân đề phòng. Lê Văn Thịnh không tán thành thái
độ cố chấp của phái bộ nhà Tống, không muốn trả lại đất đai cho ta. Biết rằng
cãi nhau với người đứng đầu phái bộ Tống là Thành Trạc cũng vơ ích, nên
ơng đã thay đổi sách lược, gửi cho Hùng Bản là kẻ cầm quyền ở cấp cao hơn
một bức thư với lời lẽ khiêm nhường, thuyết phục thêm bọn chúng. Nhưng

cuối cùng nhà Tống vẫn ngoan cố, không chịu trả hết những đất đã xâm
chiếm. Mặc dù vậy, những đối đáp của Lê Văn Thịnh với phái bộ Tống trong
hội nghị Vĩnh Bình (1084) mà sách “Tục tư trị thông giám trường biên” đã
ghi được vẫn chứng tỏ quan điểm nhất quán và thái độ cứng rắn của Lê Văn
Thịnh trong hội nghị này nhằm khẳng định độc lập, chủ quyền Đại Việt: “Có
người nói, đất đai nào trước đây quân nhà vua đã đánh chiếm thì nên trả lại
cho Đại Việt, cịn những đất đai mà bọn lại mục của họ tự ý đem dâng nộp để
theo ta thì khó lịng trả lại. Văn Thịnh cho rằng, đất có chủ, bọn thuộc lại giữ
đất đem dâng nộp và trốn đi, đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Coi giữ đất
cho chủ lại tự ý lấy trộm tất không tha thứ được; ăn hối lộ, tàng trữ của ăn
trộm, pháp luật cũng không dung. Huống chi, bọn chúng lại có thể làm nhơ
bẩn cả sổ sách của quý tỉnh hay sao?” [1, 297].
Vào các triều vua đầu nhà Lý, biên giới phía Bắc là một vấn đề luôn
luôn được đặt ra. Các tù trưởng cai quản đất đai các châu, quận, miền biên
giới này mỗi khi có xích mích với triều đình nhà Lý, hoặc bị các thủ lĩnh vùng

23

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
Lưỡng Quảng (Trung Quốc) xui dục, thường theo hàng Tống và nộp luôn cho
Tống phần đất dưới quyền trơng coi của mình. Động Vật Dương là đất Nùng
Tri Hội đem nộp Tống vào năm 1064 (nhà Tống bèn đổi tên là Qui Hóa).
Động Vật Ác là đất Nùng Tông Đán đem nộp Tống năm 1057 cùng các động
Lơi Hỏa, Kế Thành, Ơn Nhuận (Nhà Tống bèn đổi tên là Châu Thuận An).
Hai động này ở phía Tây Bắc Cao Bằng ngày nay. Sau khi đã đổi tên, nhà
Tống cịn khơn ngoan sát nhập chúng vào các Châu Trấn An và Quy Thuận.
Chống lại âm mưu đó, Lý Nhân Tông đã nhiều lần dùng đường lối ngoại giao

mềm dẻo hoặc cứng rắn để đòi Tống phải trả lại đất cho nước mình. Tống
Thần Tơng tất nhiên khơng chịu trả. Lý Thường Kiệt bèn sai châu mục Châu
Thượng Nguyên (vùng Bắc Cạn) là Dương Thọ Văn đem quân đánh châu
Quy Hóa và toan đánh vào châu Thuận An. Bởi vậy, năm 1083 – 1084 mới có
cuộc đàm phán của Tống và Lý ở Vĩnh Bình. Tuy nhiên, hội nghị cuối cùng
chưa đạt kết quả như ý định của nhà Lý. Khi Tống Triết Tông lên ngôi
(1085), Lý Nhân Tông lại viết thư đổi hai động Vật Dương, Vật Ác. Tống
quyết từ trối, thác cớ vừa nối nghiệp, phải theo mệnh vua trước. Vua Lý lại
sai Đàm An đem quân vào đánh Tống. Ngày mồng hai, tháng Giêng năm
Bính Dần (tức ngày 19 tháng Giêng năm 1086), vua Tống gửi thư trách vua
Lý. Lý Nhân Tơng bèn gửi Biểu địi hai động Vật Dương, Vật Ác sang Tống,
lần này lời lẽ khéo léo, ơn hịa hơn; song vẫn kiên quyết địi đất hai động. Ơng
cịn vạch rõ ý đồ của Tống định đem chuyện trả đất trước đây để xí xóa việc
trước mắt:
“Nước tơi có đất Vật Dương, Vật Ác, gồm hai động và tám huyện, vẫn
tiếp liền với phần đất tỉnh Quảng Tây. Những đất ấy trước sau đều bị bọn đầu
mục thổ dân làm phản, bỏ đi, đem theo về với Trung Quốc. Đất Vật Dương thì
năm Bính Thìn (1076) bị sát nhập vào đất quý tỉnh; đất Vật Ác thì năm Nhâm
Tuất (1082) cũng bị sát nhập và đặt thành ải Thông Khang. Mặc dầu đấy chỉ

24

Trần Thị Thanh - K32EVăn


Khoá luận tốt nghiệp
là mảnh đất nhỏ nhưng vẫn khiến lịng tơi đau xót, ln ln nghĩ đến cả
trong giấc mộng. Quả thực tổ tiên tôi xưa kia đã phải đánh dẹp phường tiếm
nghịch, xông pha gian nguy, không tiếc tính mạng mới có được đất ấy. Nay
tơi phận con cháu, đã không kế tục được cơ nghiệp cha ông thì dám đâu dự

vào hàng mộ nước phên dậu, cầu lấy cái sống tạm bợ trong chốc lát. Năm
Giáp Tý (1084), Ti kinh lược Quảng Tây đã vì nước tơi mà tâu bày về triều.
Tiên triều đã đem đất Túc, Tang gồm hai động và sáu huyện trả lại cho tôi
chủ lĩnh. Các đất Túc, Tang ấy hiện thuộc nước tôi rồi, chẳng phải là đất mà
tôi bày tỏ ở đây. Bởi vậy, tôi không dám vâng mệnh. May gặp khi bệ hạ lên
ngôi, khắp bờ cõi thảy đều đổi mới. Vậy kính cẩn nêu đầy đủ trong tờ biểu
này để quý quốc nghe biết” [1, 436].
Biểu đòi hai động Vật Dương, Vật Ác, Lý Nhân Tông một lần nữa
khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc.
Như vậy, độc lập chủ quyền là một trong những đặc trưng quan trọng
có tính chất đặc trưng cho tinh thần khẳng định quốc gia dân tộc trong văn
xuôi trung đại Việt Nam thế kỉ X – XIV.
2.1.2. Khẳng định văn hiến, văn hóa dân tộc
Theo chiết tự, “văn” là văn hóa, văn minh, là thư tịch, văn vật; “hiến”
là nhân tài – thành phần ưu tú trong xã hội. “Văn hiến là sách vở và nhân vật
tốt trong một đời” [4, 76]. Như vậy, khái niệm “văn hiến” thiên về những
giá trị tinh thần và nói đến văn hiến, trước nhất phải nói đến con người. Con
người đây là con người hiền (“hiến” có nghĩa là người hiền), khơng phải là
hiền lành mà là con người dũng mãnh, chiến đấu thắng lợi (hiến tiệp), có kỉ
cương, đường lối (hiến chương, hiến pháp); dù hồn cảnh thế nào đi nữa, cái
hùng khí vẫn bộc lộ rõ ràng.
“Nước ta từ đời Lý, Trần về sau, đã có tiếng là một nước văn hiến.
Những văn nhân giỏi trước sau rất nhiều không kể hết được” (Phan Huy Ích).

25

Trần Thị Thanh - K32EVăn



×